Tải bản đầy đủ (.doc) (374 trang)

5. Phu luc cac dieu khoan cu the du thao BLHS.dia phuong.20.9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 374 trang )

TỔNG HỢP Ý KIẾN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN1

DỰ THẢO LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN
PHẦN CHUNG
CHƯƠNG I. ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN

Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự (sửa đổi)
Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo
dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm.

Ý KIẾN GÓP Ý
- Đề nghị bổ sung trong Phần I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG một
Chương riêng về giải thích các từ ngữ trong Điều luật để áp dụng chung,
hạn chế việc phải ra văn bản hướng dẫn áp dụng. Ví dụ giải thích thế
nào là “lạm dụng chức vụ, quyền hạn”; “lạm quyền”, “gây hậu quả ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng”,”dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm”,“Phạm tội thu lợi bất
chính lớn”, “số lượng rất lớn, đặc biệt lớn”, “người già yếu, ốm
đau”… để đảm bảo thuận lợi, thống nhất trong thực tế áp dụng. (Bắc
Giang)

- Đề nghị nên sửa lại như sau: “Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ quyền an ninh của đất nước; bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức; bảo đảm quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc; bảo
vệ trật tự pháp luật, đấu tranh phòng, chống mọi hành vi phạm tội, đồng
thời giáo dục ý thức tuân theo pháp luật của mọi người”. (Tỉnh Đắk


Nông)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “quyền và lợi ích hợp pháp của” trước từ “tổ
chức” Lý do: Để đảm bảo Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ “quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức” thay vì quy định chỉ bảo vệ “lợi ích của tổ
chức” và thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 8 dự thảo Bộ luật

1

Tính đến ngày 20/9/2015 đã có 33 tỉnh đã gửi Báo cáo: Nam Định, Trà Vinh, Lào Cai, TP. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Lạng Sơn, Đak Nông, Bắc Giang,
Ninh Bình, Hoà Bình, Hà Nam, Cà Mau, Bình Phước, Hà Giang, An Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hà Nội, Lai Châu, Cần Thơ, Vĩnh Phúc,
Quảng Ninh, Bến Tre, Cao Bằng, Bắc Ninh, Phú Thọ, Ninh Thuận, Quảng Bình, Hảỉ Dương, Lạng Sơn.

1


Hình sự (sửa đổi). (Tuyên Quang)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “Bảo vệ lợi ích của Nhà nước” vào sau cụm
từ “Bảo vệ chủ quyền an ninh của đất nước” Lý do: Vì như vậy sẽ phù
hợp với khoản 1 Điều 11 Hiến pháp. (Tuyên Quang)
- So sánh với Điều 1 Bộ luật hình sự hiện hành thì Điều 1 của dự thảo
đã đưa nhiệm vụ bảo vệ “quyền con người” lên trước nhiệm vụ bảo
vệ “lợi ích của Nhà nước”. Việc sửa đổi như dự thảo là không phù
hợp, bởi vì: Khoản 1 Điều 11 Hiến pháp 2013 quy định: “Tổ quốc
Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”. Điều này có nghĩa là
Tổ quốc là trên hết. Lợi ích của Tổ quốc, của đất nước, của Nhà nước
Việt Nam XHCN phải luôn đặt trên lợi ích cá nhân. (Lào Cai, Quảng
Ninh, Bến Tre, An Giang, Ninh Thuận, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng
Bình, Hà Nam, Bình Phước). Đồng thời đề xuất sửa Điều 1 dự thảo
BLHS (sửa đổi) như sau:
“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ

chủ quyền an ninh của đất nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
con người, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; bảo vệ quyền
bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc; bảo vệ trật tự pháp luật, đấu
tranh phòng chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục ý thức
tuân theo pháp luật của mọi người”.
Một số ý kiến khác đề nghị sửa theo hướng “Bộ luật Hình sự có nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, quyền con người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân
tộc ...” (Tỉnh Bến Tre)
Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự (sửa đổi)
Phương án 1:

PA1: Quảng Ninh, Bắc Ninh Ninh Thuận, Quảng Bình, Đồng Nai, Phú
Thọ, Cà Mau, Hoà Bình

1. Chỉ cá nhân nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự.

Điều 2 dự thảo có các quy định: “Chỉ cá nhân nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”,
2. Chỉ pháp nhân nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này “Chỉ pháp nhân nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của
mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Phương án 1 quy
2


Quy định này không áp dụng với cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Phương án 2:

Giữ nguyên như hiện hành

định các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị – xã hội không phải chịu trách nhiệm hình sự là
không phù hợp với Hiến pháp 2013 và Khoản 3 Điều 3 Dự thảo
(Ninh Bình, TP Hồ Chí Minh)
Đề nghị quy định pháp nhân bao gồm các cơ quan Nhà nước, lực lượng
vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức có tư
cách pháp nhân khác Lý do: Mọi tổ chức, cá nhân đều phải nghiêm túc
chấp hành và bình đẳng trước pháp luật, không có ngoại lệ; hiện nay,
một số cơ quan, tổ chức này còn có đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động
kinh tế và đều được cấp phép, do đó khi có vi phạm pháp luật đều cần
phải được xem xét, xử lý theo quy định. (Đồng Nai)
Đề nghị chỉnh sửa "Chỉ pháp nhân nào phạm một tội đã được quy định
tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự" thành
"Pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà điều luật về tội
phạm đó quy định". Đồng thời, đề nghị bỏ quy định "Quy định này
không áp dụng đối với cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội". Lý do: Đảm bảo tính ổn định
về kỹ thuật trình bày Phần chung của bộ luật hình sự (trong trường hợp
sửa đổi danh mục tội phạm của quy định TNHS của pháp nhân). Việc bỏ
một phần quy định tại khoản 2 Điều 2 nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa: Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng
trước pháp luật.. (Đồng Nai)
+ Khoản 2 Điều này theo hướng ”Chỉ pháp nhân là tổ chức kinh tế nào
phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải
chịu trách nhiệm hình sự.” Để thống nhất về chủ thể pháp nhân nào phải
chịu trách nhiệm hình sự phù hợp với Điều 30 (Phú Thọ)
+ Quy định như dự thảo có sự “phân biệt” đối xử khi đã không xem xét
trách nhiệm hình sự của một số loại pháp nhân khi thực hiện một tội

phạm (tội phạm được quy định ở Điều 76). Mặt khác, quy định như vậy
cũng không thống nhất với nội dung quy định tại khoản 3, Điều 3 của dự
thảo: “Mọi pháp nhân phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật”, không
phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Đề nghị quy định về
hình phạt đối với pháp nhân phạm tội tương tự như các hình thức xử
phạt trong vi phạm hành chính, chỉ có khác là với mức phạt tiền cao
3


hơn; hoặc tước quyền sử dụng giấy phép, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
(Ninh Thuận, Quảng Bình)
+ Không nên quy định như dự thảo mà nên quy định trực tiếp tại một
điều hoặc một khoản cụ thể: “Pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm mà điều luật về tội phạm đó quy định tại Bộ luật này”. Vì
ở các điều luật quy định về tội mà pháp nhân có thể phạm tội và chịu
trách nhiệm hình sự đều ghi rõ “Pháp nhân phạm tội quy định tại điều
này thì bị xử phạt như sau:…”, mặt khác việc quy định về cùng một nội
dung không nhất thiết phải sử dụng phương pháp “bắc cầu” giữa hai
điều luật và không nhất thiết phải thêm Điều 76 quy định 32 tội danh mà
pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự (Quảng Bình
+ Khoản 2, đề nghị bỏ từ “mới”, thêm cụm từ “người đứng đầu pháp
nhân đó” vào trước từ “phải” nhằm tránh trường hợp pháp nhân bị giải
thể thì ai là người chịu trách nhiệm về những vi phạm do pháp nhân đó
gây ra. (Tỉnh Cà Mau)
+ Điều 2 và khoản 3, Điều 3 có nội dung chưa thống nhất, cụ thể: Điều
2 quy định Chỉ pháp nhân là tổ chức kinh tế phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự"; khoản 3, Điều
3 quy định “Mọi pháp nhân phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt thành phần, địa vị trong xã hội và trong kinh doanh”.
Đề nghị xuất xem xét quy định thống nhất nội dung tại Điều 2 và khoản

3, Điều 3 dự thảo. (Tỉnh Cà Mau)

Điều 3. Nguyên tắc xử lý (sửa đổi)

- Đề xuất chỉnh tên Điều thành: “Điều 3. Nguyên tắc xử lý về hình sự”.
1. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công Để bảo đảm tính chính xác và chặt chẽ. (Ninh Thuận)
minh theo đúng pháp luật.
Khoản 2:
2. Mọi cá nhân phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, + Có ý kiến đề nghị sửa khoản này theo hướng “Cá nhân phạm tội lần
dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
đầu và gây hậu quả ít nghiêm...”, để không mâu thuẫn với khoản 2 Điều
3. Mọi pháp nhân phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình 37 dự thảo.(Phú Thọ)
thức sở hữu và thành phần kinh tế.

Khoản 3

4. Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái Lào Cai: Có hai loại ý kiến:
4


Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: quy định tại khoản 3 Điều 3 của dự
thảo: “Mọi pháp nhân phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế ” là mâu
thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 2 dự thảo. Vì khoản 2 Điều 2
quy định “Chỉ pháp nhân nào phạm một tội đã được quy định tại
Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định
5. Cá nhân phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thì có thể áp
này không áp dụng với cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân,
dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và giao họ cho gia đình, cơ quan, tổ chức giám
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. ” Đề nghị ban soạn thảo

sát, giáo dục.
nghiên cứu thêm và chỉnh lý cho phù hợp.
6. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam Loại ý kiến thứ hai: Đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành. Lào
giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu có tiến bộ thì Cai
xét giảm việc chấp hành hình phạt, tha tù có điều kiện, trừ trường hợp Bộ luật này
Khoản 4
có quy định khác.
phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, chức vụ, quyền hạn
càng cao thì xử phạt càng nặng; nghiêm trị cá nhân hoặc pháp nhân phạm tội dùng
thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng. Khoan hồng đối với cá nhân, pháp nhân tự thú, thành khẩn khai
báo, lập công chuộc tội, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.

7. Cá nhân đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống Đề nghị bổ sung cụm từ “man rợ” sau từ “côn đồ”. Lý do: Vì thực tế xu
lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa thế tội phạm những năm gần đây cho thấy nhiều đối tượng phạm tội,
trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội như “giết người” thể hiện
án tích.
tính man rợ, dã man tàn ác, của tội phạm trái với đạo đức xã hội, gây
Pháp nhân đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện tiếp tục sản xuất, kinh nhiều bức xúc trong quần chúng nhân dân và xã hội như: Sau khi giết
doanh và khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
người thì cắt rời các bộ phận cơ thể của nạn nhân để phi tang, ném xác
trôi sông, mổ bụng nạn nhân lấy nội tạng... (Tỉnh Tuyên Quang)
Đề nghị có chính sách khoan hồng với người đầu thú sẽ phù hợp với
Điểm q khoản 1 Điều 51 (Tp Hồ Chí Minh)
Đề nghị bỏ, không quy định cụm từ “Chức vụ, quyền hạn càng cao thì
xử phạt càng nặng; nghiêm trị… dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức”
vì chỉ cần quy định “Nghiêm trị người...lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội” là đầy đủ. (Hà Giang); cần quy định tại tình tiết tăng nặng
trách
nhiệm

hình
sự
(Phú
thọ)
- Đề nghị không bỏ tình tiếp “phạm tội ít nghiêm trọng”, đồng thời đề
nghị bổ sung trường hợp “trong trường hợp ít nghiêm trọng” (Đồng
Tháp)
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “ăn năn hối cải” vào khoản này,
cụ thể “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu…. Khoan hồng đối với cá
nhân,……, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội,...”.
Bởi các ý kiến cho rằng, tình tiết ăn năn hối cải cũng là một tình tiết
5


được xem xét hưởng khoan hồng. (An Giang, bến tre)
Khoản 5:
Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “đã hối cải” vào khoản này như
sau “Cá nhân phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã
hối cải thì có thể…”. (An Giang). Đề nghị sửa thành “Đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội trong trường hợp ít nghiêm
trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn mức hình phạt mà
điều luật quy định” (Hải Dương)
Đề nghị bổ sung thêm điều kiện “đã ăn năn hối cải” vào sau cụm từ
“phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” tại khoản 5 Điều 3
dự thảo. Điều này sẽ phù hợp hơn trong quá trình giải quyết án. Đối với
những người phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng
quanh co chối tội, không tỏ ra ăn năn hối cải thì phải trừng phạt nghiêm
khắc để mang tính răn đe. (Tỉnh: Bến Tre)
Khoản 6:
Một số ý kiến đề nghị bổ sung từ “nhiều” vào trước cụm từ “tiến bộ”, vì

người bị phạt tù cần phải có sự tiến bộ trong quá trình chấp hành hình
phạt tù thì mới được xem xét giảm việc chấp hành hình phạt. (An Giang,
)
- Đề nghị bổ sung thêm điều kiện “đã ăn năn hối cải” vào - Khoản 6 Điều
này: đề nghị không bỏ từ “nhiều” và bổ sung “lập công lớn”, vì: vì chỉ
người bị phạt tù nào có nhiều tiến bộ trong quá trình chấp hành hình
phạt tù thì mới được xét giảm việc chấp hành hình phạt và người lập
công lớn cũng nên được giảm. (Bắc Ninh)
Đề nghị bổ sung “nhiều” trong có tiến bộ, vì phải có nhiều tiền bộ thì
mới được xét giảm hình phạt. (Hải Dương)
Khoản 7: đề nghị bỏ nội dung “Pháp nhân đã chấp hành.........thì được
xóa án tích” tại khoản này. (An Giang)

Điều 4. Trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (sửa đổi)
1. Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án và các cơ quan hữu quan khác có trách

- Đồng tình với việc quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
vệ cá nhân, tổ chức khi họ tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm.
6


nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp Quy định này có ý nghĩa thiết thực trong việc đẩy mạnh phong trào đấu
đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân phòng ngừa và đấu tranh tranh phòng chống tội phạm. Song cùng với nghĩa vụ đấu tranh phòng
chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
chống tội phạm thì mọi người cũng có quyền đòi hỏi nhà nước phải có
2. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý nghĩa vụ bảo vệ mình khi tham gia phòng, chống tội phạm. Vì vậy đề
của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp luật, tôn nghị bổ sung trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ người thamg
trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. (Tỉnh Nam Định)
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
3. Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.


- Khoản 2 dùng cụm từ “tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa” là chưa phù hợp với thực tiễn bởi chưa có khái niệm cụ thể nói về quy
tắc cuộc sống xã hội chủ nghĩa do vậy nên thay bằng cụm từ “ tôn trọng các
quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức xã hội Việt Nam”(Ninh Bình)
- Đề nghị quy định thêm “Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ tuyên
truyền, vận động, giáo dục những người thuộc quyền quản lý của
mình…” để làm tăng vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan đối với
việc phòng chống tội phạm. (An Giang)
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ công dân bằng cụm từ cá nhân tại
khoản 1, bởi vì theo tinh thần chung Dự thảo quy định trách nhiệm bảo
vệ tính mạng, sức khỏe danh dự nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch trên lãnh thổ
Việt Nam chứ không chỉ bảo vệ riêng công dân Việt Nam. Vì vậy cần
quy định người nước ngoài, người không quốc tịch cũng có trách nhiệm
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tương tự như vậy đề nghị thay cụm từ
mọi công dân bằng cụm từ mọi người tại khoản 3, tức là: “Mọi người có
nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.” (Hà Nội)
- Đề nghị bỏ cụm từ “xã hội chủ nghĩa” , vì hiện nay không thể xác
định chính xác quy tắc nào là quy tắc cuộc sống xã hội chủ nghĩa, quy
tắc nào không phải quy tắc cuộc sống xã hội chủ nghĩa. (Bắc Ninh, Phú
Thọ)
- Khoản 2 Điều này đề nghị viết lại thành: “2. Các cơ quan, … quản lý
của mình; các bậc ông, bà, cha, mẹ có nhiệm vụ giáo dục con cháu của
mình nâng cao cảnh giác, …trong cơ quan, tổ chức và gia đình của
mình.” Vì, trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa tội phạm cần phải gắn với
gia đình chứ không phải chỉ riêng của các cơ quan, tổ chức. (Ninh
Thuận)
7



-Khoản 4 Điều này đề nghị sửa thành “ Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ
cá nhân, tổ chức khi họ tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Vì,
góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm
Chương II
HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

- Tiêu đề của Chương II và các Điều 5, Điều 6, Điều 7 của Chương này
trong Dự thảo đều được sửa từ “hiệu lực” sang “áp dụng”. Việc sử dụng
từ “áp dụng” trong các quy định này là không chính xác. “Áp dụng pháp
luật” là hoạt động mang tính nhà nước, do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành để các cá nhân, các chủ thể pháp luật tuân thủ và
thi hành, bảo đảm các quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi các
quyền đó bị xâm hại. “Áp dụng pháp luật” còn được thực hiện khi sử
dụng pháp luật không đúng, làm tổn hại đến quyền của các chủ thể pháp
luật khác. Như vậy, “áp dụng pháp luật” bao giờ cũng mang tính cưỡng
chế nhà nước. Các biện pháp cưỡng chế, hoạt động cưỡng chế đều mang
tính quyền lực nhà nước. Nếu sử dụng thuật ngữ “áp dụng” có nghĩa là
Chương II chỉ dành cho các hoạt động mang tính nhà nước, do các cơ
quan có thẩm quyền của nhà nước mà không phải là cho tất cả mọi
người, mọi tổ chức. Hiệu lực của BLHS theo quy định tại các Điều 5,
Điều 6, Điều 7 của Chương này là hiệu lực về thời gian, về không gian,
về tội phạm hóa, hình sự hóa, phi tội phạm và phi hình sự. Do vậy,
chúng tôi đề nghị không sửa thuật ngữ “hiệu lực” trong tiêu đề của
Chương II và trong các Điều 5, Điều 6, Điều 7. (Tỉnh Nam Định)

Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh - Đề nghị bổ sung cụm từ “vùng tiếp giáp lãnh hải” vào câu “Quy
định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi)

của hành vi phạm tội xảy tra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch
1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh
Việt Nam hoặc tại vùng tiếp giáp lãnh hải , vùng đặc quyền kinh tế,
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
thềm lục địa Việt Nam”. Vì theo Công ước Biển 1982 thì vùng tiếp
Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành giáp lãnh hải là một bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế mà
vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt
đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài và để thống nhất với
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ quy định của điểm c khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc (Lào Cai)
lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã - Đề nghị sửa cụm từ trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách trong khoản 1 thành cụm từ trên phương tiện giao thông mang quốc tịch
8


nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của các điều ước quốc tế đó; Việt Nam để mang tính toàn diện, ổn định dự trù các phương tiện giao
trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định thì trách nhiệm hình sự của họ thông mới hình thành trong tương lai, ví dự như hiện nay Việt Nam cho
phép ô tô nhà lưu động của người nước ngoài được vào Việt Nam theo
được giải quyết theo các quy phạm pháp luật quốc tế.
con đường du lịch, thì việc phạm tội trên các phương tiện này, sẽ do
quốc gia nào xử lý? (Hà Nội)
- Khoản 2, Điều 5 đề nghị bổ sung thêm cụm từ “hoặc theo tập quán
quốc tế” sau cụm từ “trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo
các qui phạm pháp luật quốc tế”. Như vậy, đối tượng được miễn trừ
ngoại giao hoặc lãnh sự có thể theo: Một là: Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên; hai là: Tập quán quốc tế. Vấn đề trách nhiệm hình sự
của họ được giải quyết theo: Một là: Điều ước quốc tế; hai là: Nếu điều
ước quốc tế không qui định thì theo luật pháp quốc tế. (Phú Thọ)
Điều 6. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài + Khoản 1 Điều 6: đề nghị bổ sung thêm từ “ nước” vào trước cụm từ:

lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi)
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong đoạn nội dung: Quy định này
1. Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở Cộng
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để đảm bảo phù hợp về cách gọi tên một
phạm, nếu chưa bị Tòa án nước ngoài xét xử thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình quốc gia, nâng cao vị trí, vai trò của quốc gia trong quan hệ pháp luật
quốc tế. (Tỉnh Hòa Bình)
sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này.
Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở Việt + Khoản 2 Điều 6 đề nghị bổ sung thêm cụm từ “quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức ở Việt Nam” sau cụm từ “quyền, lợi ích hợp pháp của công
Nam.
dân” Vì quy định như dự thảo chưa bảo hộ đầy đủ, quyền, lợi ích hợp
2. Người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng cho pháp nhân, tổ chức Việt Nam (Phú Thọ)
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ + Bỏ từ “có thể” trong đoạn “có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự” tại
nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội khoản 1, 2 và 3. (Tỉnh Cà Mau)
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay,
tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng
trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người phạm
tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật này tại Việt Nam theo quy
định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Điều 7. Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian (sửa đổi)

- Đề nghị bỏ khoản 2 Điều này, vì khoản 1 đã bao gồm nội dung của
9


1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi là điều luật đang có hiệu lực thi
hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.

2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng
nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định
khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi
phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định
một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng
án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời
hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì
được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu
lực thi hành.
Chương III. TỘI PHẠM

Điều 8. Khái niệm tội phạm (sửa đổi)
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do pháp nhân hoặc người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý
hình sự.

khoản này (Cao Bằng).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “loại trừ trách nhiệm hình sự” vào khoản 3
của Điều luật, bởi vì cùng với các tình tiết miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, thì tình tiết “loại trừ trách nhiệm hình sự” có giá trị
tương đương, nếu không ghi nhận thêm cụm từ này thì Điều luật sẽ
không mang tính bao quát. (An Giang)
- Khoản 3: theo dự thảo không có tội Cố ý làm trái quy định của Nhà

nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (quy định tại Điều
165 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009), vì vậy, đề nghị sửa để bảo đảm
sự phù hợp (Phú Thọ)
- Đề nghị tách Khoản 2, 3 thành Điều mới quy định với tên điều: “Hiệu
lực hồi tố của Bộ luật hình sự”. Để bảo đảm nguyên tắc nhân đạo trong
luật hình sự Việt Nam. (Ninh Thuận)
Đề nghị điều chỉnh tên Chương từ “Tội phạm” thành “Tội phạm và trách
nhiệm hình sự”, để bao quát nội dung chương đề cập đến các vấn đề
chung nhất về tội phạm và trách nhiệm hình sự (Ninh Thuận)
- Đề nghị giữ nguyên theo Điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành về khái
niệm tội phạm. (Đắk Nông, Vĩnh Long)
- Đề xuất điều chỉnh tên điều thành “Khái niệm tội phạm và phân loại
tội phạm”. (Ninh Thuận)

- Định nghĩa tội phạm theo Điều 8 dự thảo là quá khái quát, cần bổ
sung vào định nghĩa này dấu hiệu có lỗi. Bởi vì, từ trước đến nay
trong luật hình sự Việt Nam và cả trong lý luận đều khẳng định tội
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã phạm là hành vi... có lỗi, có lỗi là một nguyên tắc cơ bản của luật
hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp hình sự Việt Nam, bỏ dấu hiệu có lỗi trong định nghĩa tội phạm dễ
dẫn đến hiểu lầm mọi hành vi nguy hiểm (gây thiệt hại hoặc đe dọa
khác.
gây thiệt hại cho xã hội đều là tội phạm). Đề nghị chỉnh lý định
nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi , được quy định trong Bộ luật hình sự”. (Lào Cai)
10


- Khoản 1 mơi chỉ đề cập đến chủ thể, năng lực trách nhiệm hình sự,
yếu tố lỗi mà không đề cập đến hậu quả của hành vi và hình phạt.
(Ninh Bình)

- Cần bổ sung một điều khoản riêng để quy định về khái niệm tội
phạm của pháp nhân, vì nội hàm tội phạm của pháp nhân rất khác so
với nội hàm khái niệm tội phạm nói chung từ trước đến nay ví dụ
như không thể đưa yếu tố lỗi cố ý hay vô ý trong nội hàm khái niệm
để xác định tội phạm của pháp nhân. (TP. Hồ Chí Minh)
- Khoản 2 Điều này quy định “Những hành vi…tính chất nguy hiểm
không đáng kể…”, đề nghị cần xác định rõ như thế nào là “tính chất
nguy hiểm cho xã hội không đáng kể”, vì vậy, dự thảo nên bỏ khoản này,
khái niệm về tội phạm chỉ cần quy định như khoản 1 của Điều là đủ,
theo đó tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
cụ thể trong các điều luật của Bộ luật hình sự - khi hành vi đủ các yếu tố
cấu thành một tội được quy định trong Bộ luật thì đó là tội phạm và sẽ bị
xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật. (Tỉnh: Cao Bằng)
- Đề nghị sửa cụm từ “Công dân” thành từ “Cá nhân” bởi vì cụm từ
“Công dân” được hiểu như là công dân Việt Nam, như vậy đối tượng là
người nước ngoài nếu bị xâm phạm thì không được bảo vệ, điều này sẽ
không đảm bảo sự bình đẳng. (Vĩnh Long)
- Đề nghị sửa thành: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do pháp nhân hoặc người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật.”. Lý do: Quy định như vậy đảm bảo đủ
ý nghĩa của câu và câu trở nên súc tích, rõ ràng, chặt chẽ hơn. (Đồng
Nai)
- Khoản 1: Một số ý kiến đề nghị chia thành từng điểm cụ thể để đảm
bảo tính logic và rõ ràng (An Giang)
- Đề nghị cần xác định rõ như thế nào là “tính chất nguy hiểm cho xã

11


hội không đáng kể” tại khoản 2 Điều này(Cao Bằng, Ninh Thuận, An
Giang, Ninh Bình)
- Một số ý kiến cho rằng, kế thừa quy định của Bộ luật Hình sự hiện
hành về khái niệm tội phạm là cá nhân nhưng chưa quy định khái niệm
cụ thể về tội phạm là pháp nhân. (An Giang)
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng cá nhân, pháp nhân phạm tội” thay
cho cụm từ “người phạm tội” trong các điều luật có nội dung điều chỉnh cả
hai đối tượng (người có năng lực TNHS và pháp nhân) đảm bảo chính xác,
phù hợp, thống nhất. Vì quy định như dự thảo thì tội phạm có thể do
pháp nhân hoặc người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
(Quảng Bình)
- Đề nghị giữ nguyên nội dung của khoản 3 Điều 8 BLHS hiện hành, bởi
lẽ, quy định như khoản 2 Điều 9 dự thảo BLHS (sửa đổi) sẽ rất khó xác
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định
định được thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng đối với
trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 4 loại sau đây:
một số tội (ví dụ tội trộm cắp tài sản với khung của khoản 1 Điều 108,
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà khoản 1 Điều 118, khoản 1 Điều 128, khoản 2 Điều 172). (Tỉnh Bắc
hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo Giang, Tuyên Quang, Ninh Bình)
không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao - Đề nghị xem xét, bổ sung quy định về phân loại tội phạm đối với pháp
nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm nhân. Lý do: Vì việc phân loại tội phạm theo quy định tại Điều 9 vẫn dựa
theo khung hình phạt tù, mà hình phạt đối với pháp nhân không có loại hình
đến 07 năm tù;
phạt này. (Tuyên Quang , Lào Cai)
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 - Về phân loại tội phạm đã được sửa đổi thành một điều riêng tại dự thảo

năm đến 15 năm tù;
Bộ luật Hình sự (sửa đổi), nội dung phân loại tội phạm cũng được phân
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội chia thành 04 loại như quy định tại Bộ luật Hình sự hiện hành gồm tội
mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, cách quy định lại
trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
khác so với khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành, vì Bộ luật Hình
sự hiện hành lấy mức thời gian quy định phạt tù tối đa làm căn cứ xác
định cho mỗi loại tội phạm, dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) quy định
mỗi loại tội phạm được giới hạn bởi mức phạt tù tối thiểu đến mức phạt
tù tối đa để làm căn cứ xác định. Đối chiếu với các điều trong phần các
tội phạm cụ thể ở phần thứ hai (từ Chương XIII đến Chương XXVI) cho
12
Điều 9. Phân loại tội phạm (sửa đổi)


thấy có sự mâu thuẫn về mặt logic học, nhiều tội danh quy định mức
phạt tù vượt giới hạn thời gian hình phạt tù được quy định tại khoản 2,
khoản 3, khoản 4 dự thảo Điều này. (An Giang)
- Một số ý kiến đề nghị bỏ các khung hình phạt sau 04 loại tội phạm, vì
các ý kiến cho rằng khung hình phạt chỉ nên quy định tại những tội cụ
thể. Ví dụ, tại khoản 1 Điều 128 của dự thảo quy định hình phạt cho tội
vô ý làm chết người là “Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ
06 tháng đến 05 năm”; quy định này cho thấy, mức tối thiểu nằm trong
giới hạn tội phạm ít nghiêm trọng (đến 03 năm tù), mức tối đa nằm trong
giới hạn tội phạm nghiêm trọng (từ trên 03 năm đến 07 năm tù), vậy tội
này sẽ nằm trong loại tội phạm nào? (An Giang)
- Khoản 1 Điều 118 dự thảo, quy định hình phạt đối với tội phá rối an
ninh: “Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà kích động, lôi
kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ,

cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 109 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm”.
Nếu lấy mức tối đa để xác định là tội phạm rất nghiêm trọng (đến 15
năm tù) thì đã phù hợp với khoản 3 Điều 9 của dự thảo (tức là tội phạm
rất nghiêm trọng), với mức thấp nhất là 05 năm tù, thấp hơn mức tối
thiểu trên 07 năm. Trong khi đó mức thấp nhất 05 năm tù lại được quy
định tại khoản 2 Điều 9 dự thảo (tội phạm nghiêm trọng). Như vậy, nội
dung diễn giải về phân loại tội phạm tại Điều 9 của dự thảo không thống
nhất với quy định hình phạt trong nhiều tội danh ở phần các tội phạm cụ
thể. (An Giang)
- Nội dung tại Điều 9 dự thảo BLHS (sửa đổi) không thống nhất với quy
định hình phạt trong nhiều tội danh ở phần các tội phạm và có sự khác
biệt với khoản 3, Điều 8 BLHS hiện hành, luật hiện hành lấy mức thời
gian quy định phạt tù tối đa làm căn cứ xác định cho mỗi loại tội phạm,
còn dự thảo quy định mỗi loại tội phạm được giới hạn bởi mức phạt tù
tối thiểu đến mức phạt tù tối đa để làm căn cứ xác định. Đối chiếu với
các điều luật cụ thể trong các tội phạm cụ thể ở Phần hai cho thấy có sự
mâu thuẫn về mặt logic học, nhiều tội danh quy định mức phạt tù vượt
ra ngoài giới hạn thời gian phạt tù được quy định trong khoản 2, khoản
3, khoản 4 Điều 9 dự thảo, như: khoản 1, Điều 128 của dự thảo quy định
13


hình phạt cho tội “Vô ý làm chết người” là “Người nào vô ý làm chết
người thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”. Quy định này cho thấy, mức
tối thiểu nằm trong giới hạn tội ít nghiêm trọng (đến 3 năm tù), mức tối
đa nằm trong giới hạn tội nghiêm trọng (từ trên 3 năm đến 7 năm tù),
vậy tội này được xác định là loại tội phạm nào; hay khoản 1, Điều 118;

Như vậy, việc diễn giải về phân loại tội phạm tại Điều 9 không thống

nhất với quy định hình phạt trong nhiều tội danh ở phần các tội phạm cụ
thể, đây là mâu thuẫn trong xây dựng quy phạm pháp luật cần phải xem
xét, chỉnh lý.(Tỉnh: Quảng Ninh, Quảng Bình)
Khoản 1
+ Khoản này quy định tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại không lớn cho xã hội mà hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm. Nhằm đảm bảo nội dung tại khoản này thống nhất với Khoản 2, 3,
4 Điều 9 dự thảo, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung thêm cụm từ “mà
mức cao nhất của khung” vào trước cụm từ “hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với” tại Khoản 1 Điều 9 dự thảo Bộ luật Hình sự. (Tỉnh:
Bến Tre, Phú Thọ)
+ Đề nghị bỏ cụm từ “gây nguy hại không lớn cho xã hội” (Bắc Ninh)
Khoản 2:
+ Đề nghị bỏ cụm từ “gây nguy hại lớn cho xã hội” (Bắc ninh)
Khoản 3:
+ Đề nghị bỏ cụm từ “gây nguy hại rất lớn cho xã hội” (Bắc ninh)
Khoản 4:
+ Đề nghị bỏ cụm từ “gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội” (Bắc ninh)
+ Bỏ cụm từ “đến 20 năm” trong đoạn “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm
đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Vì quy định trên 15 năm tù
14


là đầy đủ (Tỉnh Cà Mau)
Điều 10. Cố ý phạm tội
(Giữ nguyên)


- Đề nghị bổ sung chủ thể cố ý phạm tội là “pháp nhân”.Lý do: Vì Điều
10 mới chỉ đề cập đến chủ thể là cá nhân và đảm bảo thống nhất với nội
dung dự thảo Bộ luật hình sự có bổ sung chủ thể phải chịu trách nhiệm
hình sự là “pháp nhân”. (Tuyên Quang )
- Đề nghị thay từ “người” ở đầu các khoản 1, khoản 2 của Điều bằng
cụm từ “Cá nhân, pháp nhân” cho thống nhất với nội dung dự thảo
Bộ luật hình sự khi đã bổ sung chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự
là “pháp nhân”. (Lào Cai)

Điều 11. Vô ý phạm tội
(Giữ nguyên)
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (sửa đổi)

- Khoản 2 dòng cuối đề nghị thay từ "và" thành từ "hoặc" để làm rõ
người nào có hành vi mà thỏa mãn một trong hai tình huống hoặc cả hai
tình huống đều thuộc trường hợp phạm tội vô ý (Phú Thọ)

Phương án 1: Nam Định, Cần Thơ
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Lý do: Vì cho đây là phương án phù hợp với thực tiễn, đồng thời cho
rằng việc bổ sung quy định “Trừ những trường hợp khác do Bộ luật này
2. Phương án 1:
quy định” sẽ khắc phục được thiếu sót khi trong phần các tội phạm có
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình những điều luật quy định người chưa thành niên không phải chịu trách
sự về tội giết người, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội nhiệm hình sự. (Tỉnh Nam Định, Bến Tre, Bắc Ninh, Ninh Thuận)
cướp tài sản, tội cướp giật tài sản và tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
Phương án 2: Trà Vinh, Tuyên Quang, ĐỒng Nai, Hà Nội, Phú Thọ,
a) Điều 133 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người Quảng Bình

khác); Điều 142 (tội cưỡng dâm);
Lý do: Không loại trừ khả năng người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa
b) Điều 168 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 169 (tội cưỡng đoạt tài
đủ 16 tuổi có thể thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào do BLHS hiện
sản); Điều 172 (tội trộm cắp tài sản); Điều 177 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
hành quy định, nếu bỏ quy định này dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm. (Tỉnh
tài sản);
Trà Vinh)
c) Điều 249 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội tàng trữ, trái phép
chất ma túy); Điều 251 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội mua Ý kiến khác:
bán trái phép chất ma túy); Điều 253 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
- Đề nghị nghiên cứu quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cho phù
15


d) Điều 275 (tội đua xe trái phép);

hợp giữa các luật (dự thảo Luật Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em quy định
đ) Điều 294 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần “trẻ em là dưới 18 tuổi”). (Đắk Nông)
mềm dùng để tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử);
Điều 295 (tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 296 (tội cản
trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử); Điều 298 (tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông
hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 299 (tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều
300 (tội truy cập trái phép tài khoản ngân hàng của tổ chức, cá nhân chiếm đoạt tài
sản); Điều 304 (tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa thông tin về
tài khoản ngân hàng); Điều 305 (tội sản xuất mua bán, tàng trữ, lưu hành thẻ ngân
hàng giả để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);

e) Điều 311 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 316 (tội phá hủy
công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia).
Phương án 2: Giữ nguyên như quy định hiện hành.
Điều 13. Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích - Đề nghị xem lại từ “say” vì có thể các chất kích thích khác làm cho
mạnh khác (sửa đổi)
người phạm tội không tỉnh táo đầu óc nhưng lại không làm họ say như
Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích khác, rượu, bia, ví dụ như ma túy đá tạo ra ảo giác. Đồng thời, đề nghị bổ
sung từ “bia” vào tên gọi của điều cụ thể như sau: “Phạm tội trong
thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác”
nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa tên điều và nội dung được quy
định tại điều này. Cùng với đó, đề nghị bỏ từ “vẫn”, vì việc sử dụng
hay không sử dụng từ này không làm thay đổi nội dung điều nhưng nếu
sử dụng sẽ làm giảm sức nặng, tính trang nghiêm của quy định. (Tỉnh
Hà Tĩnh)
- Đề nghị điều chỉnh nội dung Điều này từ “Người phạm tội trong tình
trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích khác, thì vẫn phải chịu
trách nhiệm hình sự” thành “Người phạm tội trong tình trạng say do
dùng rượu, bia hoặc chất kích thích khác vẫn chịu trách nhiệm hình sự”.
Vì các ý kiến cho rằng, xã hội hiện nay hay nói cách khác là tại nhiều
địa phương, một số đối tượng (thanh niên) sử dụng các chất kích thích
16


như rượu, bia, heroin...quá nhiều, dẫn đến tình trạng quá khích, không
làm chủ được những hành vi của bản thân gây ra, làm mất an ninh trật
tự, do đó việc quy định hình phạt là nhằm hạn chế những đối tượng này
phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh
khác. Có ý kiến đề nghị bỏ từ “mạnh” tại tiêu đề Điều luật để phù hợp

với nội dung của Điều luật. (An Giang)
- Dự thảo có ghi phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất
kích thích mạnh khác: đề nghị nghiên cứu sửa lại là: “Phạm tội trong
tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác”, bỏ từ “mạnh” .
Vì người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất kích
thích khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc sử dụng chất kích
thích dẫn đến tình trạng say, mất khả năng điều khiển hành vi do vậy
không phụ thuộc chất kích thích đó là chất kích thích mạnh hay yếu.
(Tỉnh: Quảng Ninh, Phú Thọ)
- Đề nghị sửa tên Điều này thành: Trách nhiệm hình sự trong tình trạng
say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác. Vì: (1) mối quan hệ giữa
tên và nội dung chưa phù hợp; (2) về kết cấu của Chương III quy định
về tội phạm và trách nhiệm hình sự nếu quy định như tên Điều này thì
mới chỉ thể hiện được một trường hợp phạm tội cụ thể mà chưa mang
tính bao quát. (Phú Thọ)
- Bổ sung từ “bia” sau cụm từ “… dùng rượu” vào tên của điều luật cho
phù hợp với quy định của điều luật để có “Điều 13. Phạm tội trong tình
trạng do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích khác”. (Bắc Ninh, Phú
Thọ)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp bị người khác ép
buộc bằng vũ lực hoặc đe dọa, uy hiếp tinh thần” trước cụm từ “thì vẫn
phải chịu trách nhiệm hình sự”. Vì trên thực tế có những trường hợp
người phạm tội lâm vào tình trạng say do dùng rượu hoặc các chất kích
thích khác do người khác dùng vũ lực đe dọa, uy hiếp.... buộc người
phạm tội phải sử dụng trong khi bản thân người phạm tội không thể
kháng cự được (Quảng Bình)
Điều 14. Chuẩn bị phạm tội (sửa đổi)

- Đề nghị, nghiên cứu theo từng trường hợp cụ thể sẽ áp dụng quy định
này đối với người chưa thành niên nhằm nghiêm khắc răn đe để không

17


1. Chuẩn bị phạm tội bao gồm các trường hợp sau đây:

xảy ra những vụ phạm tội nguy hiểm, tránh trường hợp các tổ chức tội
a) Tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để phạm lợi dụng đối tượng chưa thành niên để phát tán thông tin, tư liệu
thực hiện tội phạm;
chống Nhà nước. (Tỉnh Đắk Nông)
b) Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể.
- Theo quy định tại Điều 17 BLHS hiện hành thì “Chuẩn bị phạm tội là
2. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng tìm kiếm sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
quy định tại một trong các điều sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự:
khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng
a) Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về
quyền nhân dân); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh tội định thực hiện”. Đa số ý kiến cho rẳng nếu không quy định cụ thể
thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền việc chuẩn bị phạm tội và trách nhiệm hình sự của việc chuẩn bị phạm
nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã tội thì sẽ bỏ lọt tội phạm, việc ngăn ngừa sẽ kém hiệu quả, mặt khác sẽ
hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (tội làm, phát tán thông tin, tài liệu nhằm chống không đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, theo
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 118 (tội phá rối an ninh); quy định của Luật phòng, chống khủng bố thì nhiều hành vi mới chỉ
chuẩn bị đã bị coi là hành vi khủng bố và bị xử lý, tuy nhiên chuẩn bị
Điều 119 (tội chống phá trại giam);
phạm tội chỉ nên xử lý với một số loại tội đặc biệt nghiêm trọng chứ
b) Điều 123 (tội giết người);
không phải đối với tất cả các tội. Mặc khác, không nêu quy định trực
tiếp ở các tội phạm cụ thể mà vẫn quy định ở phần chung như BLHS
c) Điều 167 (tội cướp tài sản); Điều 168 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);
hiện hành thì về kỹ thuật lập pháp sẽ gọn hơn, khoa học hơn. (Nam
d) Điều 312 (tội khủng bố); Điều 313 (tội tài trợ khủng bố); Điều 314 (tội bắt cóc
Định)

con tin); Điều 315 (tội cướp biển); Điều 336 (tội rửa tiền).
3. Không áp dụng quy định này đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi.
Khoản 1
Theo quy định hiện hành thì chỉ người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm
một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện. Thực tiễn cho thấy việc
chứng minh một người có hành vi chuẩn bị phạm tội về một tội phạm cụ
thể là rất khó và luôn tiềm ẩn nguy cơ suy đoán theo hướng có tội, trái
với nguyên tắc suy đoán vô tội mà BLHS đã quy định, vì vậy việc dự
thảo thu hẹp và chỉ tập trung vào một số loại tội cần thiết ngăn chặn sớm
là phù hợp, vừa ngăn ngừa, răn đe được tội phạm vừa hạn chế được oan,
sai. Tuy nhiên đề nghị bỏ quy định tại điểm b khoản 1 điều 14 quy định
chuẩn bị phạm tội là trường hợp “Thành lập hoặc tham gia nhóm tội
phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể”. Vì thực tế rất khó chứng minh,
18


xác định việc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một
tội phạm cụ thể để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. (Tỉnh Bắc
Giang)
+ Đề nghị không đưa vào dự thảo nội dung Điểm b Khoản 1. Vì đây mới
chỉ là thể hiện sự thống nhất về mặt ý chí chứ chưa tạo điều kiện được
về mặt vật chất để thực hiện tội phạm. Có ý kiến đề xuất điều chỉnh nội
dung này thành: “Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm để thực hiện
một hành vi phạm tội cụ thể”. (Ninh Thuận)
Khoản 2:
- Khoản 2, đề nghị thay bằng Điều 17 Bộ luật Hình sự hiện hành (Người
chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện). Lý do: Quy định

như dự thảo là chưa đầy đủ, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm, giảm khả
năng phòng ngừa tội phạm, thúc đẩy cá nhân thực hiện tội phạm đến
cùng; các tội danh khác có khung hình phạt cao đến chung thân như tội:
Cướp giật tài sản, hủy hoại tài sản... thì ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội
không là tội phạm. (Tỉnh Tuyên Quang)
Việc quy định các tội danh cụ thể như tại khoản 2, Điều 14 sẽ dễ dẫn
đến bỏ sót tội phạm, cần quy định khái quát hơn trên cơ sở phân loại tội
phạm theo hướng giữ nguyên quy định như BLHS hiện hành đối với quy
định này. (Tỉnh: Quảng Ninh)
Khoản này quy định người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 123 và Điều 167
thì phải chịu trách nhiệm hình sự là không hợp lý vì hành vi chuẩn bị
phạm tội chưa phải là hành vi khách quan của tội phạm, nên mặc dù có
tính chất nguy hiểm nhưng ở mức độ thấp. Mặt khác, việc chứng minh
người phạm tội (mới chỉ có hành vi chuẩn bị) về một tội phạm cụ thể là
rất khó và luôn tiềm ẩn nguy cơ suy đoán theo hướng có tội đối với
người chuẩn bị. Trong trường hợp này cần quy định cụ thể đối với
những tội danh này phải có tình tiết “có tổ chức” mới phải chịu TNHS
khi thực hiện một tội trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. (Cao Bằng)
Khoản 3:
+ Đề nghị bỏ khoản 3 Điều này vì tỷ lệ tội phạm ngày càng trẻ hóa và số
19


lượng tội phạm ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi ngày càng gia
tăng với nhiều hình vi phạm tội tinh vi, man rợ, nguy hiểm hơn. (An
Giang)
+ Đề nghị sửa khoản 3 Điều 14 thành “không áp dụng quy định này đối
với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trừ các tội quy
định tại điều 123, 167, 168” Vì: quy định “không áp dụng quy định này

đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi” như vậy
đối với một số tội sẽ bị bỏ lọt tội phạm như: tội giết người quy định điều
123, tội cướp tài sản quy định tại Điều 167, tội cướp bóc nhằm chiếm
đoạt tài sản quy định tại Điều 168. Thực tế tình hình tội phạm những
năm gần đây cho thấy tội phạm có tổ chức càng ngày càng gia tăng đặc
biệt ở lứa tuổi chưa thành niên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
tội phạm lập thành băng nhóm và có sự chuẩn bị trước khi phạm tội. (Hà
Nội)
+ Đề nghị không đưa vào dự thảo nội dung Khoản 3, để phòng ngừa
trong trường hợp các tổ chức phản động lôi kéo người trong độ tuổi từ
đủ 14 đến dưới 16 thực hiện các công việc chuẩn bị cho khủng bố, bạo
loạn lật đổ. (Ninh Thuận)
Điều 15. Phạm tội chưa đạt
(giữ nguyên)

- Đề nghị cân nhắc đối với trường hợp "người chưa thành niên" phạm
tội chưa đạt. Không nên quy định người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) về phạm tội chưa đạt. Nếu
xét thấy cần tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm ở lứa tuổi này
thì cũng chỉ cần xử lý đối với người chưa thành niên ở lứa tuổi từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi nếu phạm tội chưa đạt đối với các tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng chứ không phải chịu
TNHS về mọi tội phạm. (Tỉnh Lạng Sơn, Nam Định)
- Không nên quy định người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về phạm tội chưa đạt. Vì nếu xét thấy cần tăng cường đấu
tranh, phòng chống tội phạm ở lứa tuổi này thì cũng chỉ cần xử lý đối
với người chưa thành niên ở lứa tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Ngay cả
lứa tuổi này cũng chỉ nên quy định họ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu
phạm tội chưa đạt đối với các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc
biệt nghiêm trọng chứ không phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm. (Hà

20


Giang)
- Đề nghị bổ sung thêm một đoạn/một khoản: “Không áp dụng quy định
này đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Bởi
vì, nếu xét thấy cần tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm ở lứa
tuổi này thì cũng chỉ cần xử lý đối với người chưa thành niên ở lứa tuổi
từ đủ 16 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi. Ngay cả lứa tuổi này cũng chỉ nên
quy định họ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm tội chưa đạt đối với
các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng chứ
không phải là phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm. (Hà Nội)
Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
(giữ nguyên)

Điều 17. Đồng phạm (sửa đổi)
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

+ Khoản 1, đề nghị bổ sung đồng phạm đối với pháp nhân. Lý do: dự
thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) đã bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm hình
sự là pháp nhân. (Tỉnh Tuyên Quang, Lào Cai, Hà Nam)

2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những + Đề nghị sửa đổi, bổ sung: Trong đồng phạm, người tổ chức có vai trò
người cùng thực hiện tội phạm.
quan trọng nhất nên phải thỏa mãn nhiều yếu tố như chủ mưu, cầm đầu,
3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, chỉ huy do vậy có thể tách ra một đến hai loại vai trò trong đồng phạm
nữa, tức là người cầm đầu chỉ huy thực hiện tội phạm. Trong thực tiễn
người giúp sức.
người cầm đầu chỉ huy thực hiện tội phạm có vai trò cao hơn người giúp
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

sức nhưng thấp hơn người tổ chức. (Phú Thọ)
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
+ Khoản 4 Điều 17: đề nghị quy định thêm nội dung về: Người đồng
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực người thực hành. Tuy nhiên, với quy định chỉ mang tính chung, chưa
xác định cụ thể thế nào là hành vi vượt quá của người thực hành sẽ khó
hiện tội phạm.
khăn cho việc áp dụng trong thực tiễn. (Tỉnh Hòa Bình)
4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của
người thực hành.

- Khoản 2 đề nghị bổ sung thêm đối tượng không phải chịu TNHS theo
quy định tại điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005: cụ nội, cụ ngoại; bác
1. Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột để phù hợp và thống nhất trong
che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác
Điều 18. Che giấu tội phạm (sửa đổi)

21


cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hệ thống pháp luật. (Tỉnh Lạng Sơn)
hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định. - Đề nghị bổ sung vào khoản 2 dự thảo đối tượng được giảm nhẹ
2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc trách nhiệm hình sự khi che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm
chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại là “cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi của người phạm tội”. Vì trên thực tế
khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc có nhiều trường hợp mối quan hệ giữa người phạm tội và cha nuôi,
mẹ nuôi hay con nuôi cũng gắn bó như cha, mẹ, con đẻ. (Lào Cai)
các tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 402 của Bộ luật này.
- Đề nghị bỏ Khoản 3 Điều 19, vì trái với quy định tại khoản 3 Điều 4.
(Tuyên Quang)

- Nên loại trừ trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm đối
với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhất là trường
hợp họ là người thân thích của người phạm tội. Hành vi không tố giác
tội phạm là hành vi không hành động, tính nguy hiểm thấp hơn hành vi
che giấu tội phạm. (Nam Định)
- Đề nghị chỉ nên giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với người che giấu
tội phạm không có quan hệ ruột rà, thân thích chứ không nên loại trừ
trách nhiệm hình sự. (Tuyên Quang, Ninh Bình)
- Việc dự thảo bổ sung vào Khoản 2 quy định: Người che giấu tội phạm
là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em ruột của người phạm tội
không phải chịu TNHS theo quy định tại khoản 1 Điều này là không hợp
lý bởi vì người phạm tội che giấu tội phạm trước hết đã phạm vào tội
không tố giác tội phạm nhưng không những không tố giác tội phạm mà
còn dùng hành động, suy nghĩ, tính toán của mình để giúp cho người
phạm tội trốn tránh sự truy đuổi của pháp luật, gây cản trở hoạt động
điều tra của cơ quan chức năng gây hậu quả nghiêm trọng thì không thể
miễn trừ tội này cho những người này theo khoản 2 Điều này. Tuy
nhiên, trong trường hợp không tố giác tội phạm là những người thân
thích của người phạm tội không phải chịu TNHS thì cần bổ sung vào dự
thảo vì xã hội có sự thông cảm cho những người cùng huyết thống
không thể tố giác người thân thích của họ. (Vĩnh Long)
+ Khoản 2 Điều 18: đề nghị bổ sung thêm nội dung: Người thực hiện
hành vi che giấu tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này được giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý; đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý, nếu người đó là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu,
22


anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, để đảm bảo phù
hợp với nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta, không nên truy cứu trách

nhiệm hình sự khi những người thân trong gia đình che giấu hành vi
phạm tội của vợ, chồng, con, cháu của mình chỉ với tội phạm ít nghiêm
trọng như tội trộm cắp tài sản có giá trị không lớn. (Tỉnh Hòa Bình)
- Chỉ quy định TNHS của người thân thích khi che giấu người phạm tội
đối với tội phạm về ANQG và các tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
(Đồng Tháp)
- Một số ý kiến thống nhất với quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối
với người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em
ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội...vì các ý kiến cho rằng đây là
quan hệ tình thân, quan hệ huyết thống, vì vậy họ không thể bỏ mặc
người phạm tội. Có ý kiến đề nghị quy định rõ và cụ thể hơn những
người thân thích, nếu không trong quá trình thực hiện sẽ phát sinh
những quan điểm khác nhau trong quá trình xử lý. (An Giang)
- Trong mọi trường hợp người che dấu tội phạm đều phải chịu trách
nhiệm hình sự, không nên quy định thêm khoản 2 về các trường hợp
ngoại lệ như trong Dự thảo nhằm tăng tính răn đe trong công tác đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Bắc Ninh)
- Đề nghị bổ sung thêm 02 chủ thể loại trừ trách nhiệm hình sự khác là
“thầy cô giáo” và “người nuôi dưỡng” (Phú Thọ) và bạn bè (Ninh
Thuận). Vì các chủ thể nêu trên không có quan hệ huyết thống, song họ
có quan hệ tình cảm thiêng liêng hoặc gần gũi, lệ thuộc với người phạm
tội.

Điều 19. Không tố giác tội phạm (sửa đổi)

+ Khoản 1, đề nghị bổ sung thành:“1. Người nào biết rõ tội phạm đang
1. Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không
được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố tố giác mặc dù có đủ điều kiện tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều
giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 402 của Bộ luật này.

402 của Bộ luật này” (Tình Bình Phước)
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc
chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy định tại khoản 1 + Khoản 2: đề nghị bổ sung thêm nội dung: Người thực hiện hành vi
23


Điều này trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các không tố giác tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này không phải chịu
tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 402 của Bộ luật này.
trách nhiệm hình sự về tội ít nghiêm trọng; tội nghiêm trọng; tội rất
3. Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 nghiêm trọng do vô ý nếu người đó là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh
Điều này trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội. Vì trên thực tế, rất
nhiều trường hợp do hành vi không tố giác tội phạm của những người
chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện.
thân thích của tội phạm đối với những tội phạm rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý đã gây khó khăn cho cơ quan tố tụng và gây
ra dư luận bức xúc rất lớn nếu không tìm ra tội phạm. đảm bảo tính
nghiêm minh, không bỏ sót, bỏ lọt tội phạm nguy hiểm. (Tỉnh Cà Mau)
Đề nghị bổ sung vào khoản 2 dự thảo đối tượng được giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khi che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm là
“cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi của người phạm tội”. Vì trên thực tế có
nhiều trường hợp mối quan hệ giữa người phạm tội và cha nuôi, mẹ
nuôi hay con nuôi cũng gắn bó như cha, mẹ, con đẻ. (Lào Cai)
+ Khoản 3: Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp không tố giác tội phạm
do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực
hiện. (Tỉnh Hà Nam)
+ Đề nghị bỏ khoản 3 quy định về việc Người bào chữa không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội này trong trường hợp không tố giác tội phạm
do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực
hiện. Lý do: Người bảo chữa cũng phải có trách nhiệm chung như mọi

công dân trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm như tại Khoản 3,
Điều 4 đã quy định; ngoài ra còn có trách nhiệm làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án, không được che dấu tội phạm, vì vậy nếu Người
bào chữa trong quá trình bào chữa mà không tố giác hành vi phạm tội
của thân chủ thì vẫn phải chịu TNHS như mọi công dân khác. (Tỉnh Bắc
Giang, Ninh Bình, Vĩnh Long, Bến Tre, Ninh Thuận)
+ Khoản 3, đề nghị bổ sung thêm trường hợp: “người bảo vệ quyền và
lợi ích của người bị hại” vào sau “người bào chữa”; (Tình Bình Phước)
- Đề nghị bổ sung về xử lý trách nhiệm hình sự đối với Luật sư trong
trường hợp không tố giác tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. (Tỉnh Lạng
Sơn)
24


- Một số ý kiến cho rằng, người tham gia bào chữa, bảo vệ cho thân chủ
không có nghĩa vụ, trách nhiệm tố giác tội phạm, người bào chữa phải
đảm bảo nguyên tắc bí mật nghề nghiệp, họ không thể tố giác hành vi
phạm tội của thân chủ. Vì vậy, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 3 “Người bào chữa không phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp
không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện
hoặc đã tham gia thực hiện”, bởi vì tại Điều 3 của Luật Luật sư quy định
chức năng xã hội của Luật sư là góp phần bảo vệ công lý và tại điểm d
khoản 3 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trách nhiệm của
người bào chữa là tôn trọng sự thật và pháp luật, nên trách nhiệm tố giác
tội phạm không thể loại trừ đối với người bào chữa. Đặt trường hợp
người đại diện hợp pháp đứng ra bào chữa cho người thân của mình về
tội giết người, nếu họ không tố giác hành vi phạm tội giết người của
người thân, thì có phạm tội “Không tố giác tội phạm” không? (An
Giang)

- Có ý kiến đề nghị cần phân biệt rõ về hành vi không tố giác tội phạm
của người bào chữa để có quy định thỏa đáng phù hợp với Luật Luật sư
và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trường hợp người bào chữa
trong vụ án biết rõ thân chủ của mình đã thực hiện một tội phạm khác,
có các tình tiết tăng nặng khác trong vụ án đó mà không tố giác thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự. (Quảng Bình)
- Quy định ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng
của người phạm tội “biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị” nhưng
không tố giác thì không bị truy cứu TNHS về tội không tố giác tội phạm
(khoản 2 Điều 19) như dự thảo là chưa phù hợp, không phát huy tinh
thần, trách nhiệm của người thân của người phạm tội trong việc có trách
nhiệm kịp thời ngăn chặn tội phạm “đang được chuẩn bị” để ngăn ngừa
tội phạm sắp sửa xảy ra. (Quảng Bình)
- Đề nghị bổ sung thêm chủ thể loại trừ trách nhiệm hình sự khác là
“thầy cô giáo” và “người nuôi dưỡng” (Phú Thọ) và bạn bè (Ninh
Thuận) người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (Quảng
Bình). Vì các chủ thể nêu trên không có quan hệ huyết thống, song họ có
quan hệ tình cảm thiêng liêng hoặc gần gũi, lệ thuộc với người phạm tội
25


×