Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Nghiên cứu vận dụng các phương pháp tính khấu hao phù hợp với các điều kiện cụ thể trong các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.19 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển và đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống kế
toán Việt Nam đã không ngừng phát triển và hoàn thiện, góp phần tích cực
vào việc tăng cường và nâng cao chất lượng quản lý tài chính của nhà nước
và trong quản lý doanh nghiệp. Với tinh thần chung đó, hệ thống kế toán
doanh nghiệp mới đã được xây dựng phù hợp với đặc điểm kinh tế, yêu cầu
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để phù hợp với những quy định mới về cơ chế tài chính đối với
các doanh nghiệp hiện nay thì hệ thống kế toán phải thường xuyên bổ sung,
hoàn thiện để phù hợp với thực tế.
Trong những vấn đề cần đề cập hiện nay, thì việc các phương pháp
khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) cũng rất cần được xem xét, đánh giá. Bởi
vậy, các doanh nghiệp khi tính toán và phân bổ giá trị của TSCĐ vào chi
phí kinh doanh trong từng kỳ cần phải lựa chọn một phương pháp tính khấu
hao hợp lý với tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp
mình.
Xuất phát từ mục tiêu và tầm quan trọng của việc thực hiện công tác
khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp là rất cần thiết nên chúng tôi đã chọn
đề tài :
“Nghiên cứu vận dụng các phương pháp tính khấu hao phù hợp với các
điều kiện cụ thể trong các doanh nghiệp”.
Sau đây, tôi xin trình bày vào nội dung chính của đề tài.
1
1. Cơ sở lý luận về tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định.
1.1. Mục tiêu, đối tượng, phương pháp nghiên cứu tái sản cố định và khấu
hao tài sản cố định.
1.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu : các phương pháp KHTSCĐ trong doanh
nghiệp theo các quy định của bộ tài chính.
- Phạm vi nghiên cứu: các phương pháp KHTSCĐ trong các doanh
nghiệp thuộc các lĩnh vực SXKD khác nhau: Doanh nghiệp sản xuất, doanh


nghiệp thương mại-dịch vụ.
1.1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về các phương pháp tính KHTSCĐ
trong các loại hình doanh nghiệp.
- Đưa ra sự khác biệt giữa các phương pháp và vận dụng vào các loại
hình doanh nghiệp một cách linh hoạt và phù hợp.
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp biện chứng.
1.2. Những vấn đề chung về vốn cố định và tài sản cố định.
1.2.1. Tổng quan về vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản sau: sức lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động. Để có các yếu tố này đòi hỏi doanh
nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định phù hợp với quy mô và điều kiện
kinh doanh để thực hiện các khoản đầu tư ban đầu như chi phí thành lập
doanh nghiệp, chi phí mua nguyên nhiên vật liệu, trả lương, trả lãi tiền vay,
nộp thuế… Ngoài ra còn đầu tư công nghệ, mua sắm máy móc, thiết bị để
tái sản xuất mở rộng, phát triển doanh nghiệp…
Vốn là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất không chỉ
trong doanh nghiệp mà còn trong toàn xã hội. Đối với mỗi doanh nghiệp,
vốn kinh doanh không chỉ là điều kiện quyết định đối với sự ra đời của
doanh nghiệp mà còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định
trong quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Vậy vốn kinh
doanh là gì?
“Vốn là phạm trù kinh tế cơ bản, vốn gắn liền với nền tảng sản xuất
hàng hóa. Vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và quá trình tiếp theo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể hiểu: Vốn kinh doanh của doanh

nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử
dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.”
2
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên biến động và
chuyển hóa từ hình thái ban đầu là tiền sang hình thái hiện vật và cuối cùng
lại trở về hình thái đầu tiên là tiền. Sự vận động của vốn kinh doanh như
vậy được gọi là sự tuần hoàn của vốn. Quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục, không ngừng. Do đó, sự tuần hoàn
của vốn kinh doanh cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ
tạo thành sự chu chuyển của vốn kinh doanh. Sự chu chuyển của vốn kinh
doanh chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành
kinh doanh.
Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn, có thể chia vốn kinh
doanh ra thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động.
1.2.2. Vốn cố định.
1.2.2.1. Khái niệm.
Trong nền kinh tế thị trường để có được tài sản cố định cần thiết cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn tiền
tệ nhất định. Số vốn mà doanh nghiệp ứng ra để hình thành lên tài sản cố
định được gọi là vốn cố định. Vậy ta có thể rút ra khái niệm về vốn cố
định: “Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của
doanh nghiệp.”
1.2.2.2. Đặc điểm:
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định
nên quy mô của vốn cố định lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến quy mô tính
đồng bộ của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang thiết bị kĩ
thuật và công nghệ sản xuất, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Mặt khác, trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh, vốn cố định thực hiện chu chuyển giá trị của nó. Sự chu chuyển này
chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế kỹ thuật của tài sản cố định.

Những đặc điểm chủ yếu chu chuyển của vốn cố định trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp như sau:
- Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn cố định
chu chuyển dần từng phần và được thu hồi giá trị từng phần sau mỗi kì
kinh doanh. Vốn cố định đầu tư vào sản xuất được phân ra làm hai phần.
Bộ phận vốn cố định tương ứng với giá trị hao mòn của tài sản cố định
được dịch chuyển vào chi phí kinh doanh hay giá thành sản phẩm dịch vụ
được sản xuất ra, bộ phận giá trị này sẽ được bù đắp và tích lũy lại mỗi khi
hàng hóa hay dịch vụ được tiêu thụ. Bộ phận còn lại của vốn cố định nằm
ở tài sản cố định dưới hình thức giá trị còn lại của của tài sản cố định.
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh mới hoàn thành
một vòng chu chuyển.
3
- Vốn cố định chỉ hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất
được tài sản cố định về mặt giá trị- tức là thu hồi đủ tiền khấu hao tài sản
cố định.
Vốn cố định là bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh. Việc tăng
thêm vốn cố định trong các doanh nghiệp nói riêng và trong các ngành nói
chung có tác động lớn đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của
doanh nghiệp và nền kinh tế. Do giữ vị trí then chốt và đặc điểm vận động
của vốn cố định tuân theo quy luât riêng, nên việc quản lý vốn cố định
được coi là một trọng điểm của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
1.2.3. Tài sản cố định.
1.2.3.1. Khái niệm.
* Khái niệm tài sản cố định.
“Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị
lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên một năm hoặc trên một
chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 1 năm), đồng
thời phải thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn của tài sản cố định.”
Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng,

chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất
kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã
mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn
thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử
dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc
về TSCĐ.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, tài sản cố định là những tư liệu
lao động đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn sau:
+ Thời gian sử dụng: Từ một năm trở lên
+ Tiêu chuẩn về giá trị: Phải có giá trị tối thiểu ở một mức nhất định
do Nhà nước quy định phù hợp với tình hình kinh tế của từng thời kỳ (theo
chế độ kế toán ban hành theo quyết định 203/2009/TT-BTC, ngày 12 tháng
10 năm 2009 thì TSCĐ có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên).
+ Chắc chắn phải thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử
dụng tài sản đó.
+ Nguyên giá của tài sản phải được xác định một cách tin cậy.
* Đặc điểm của tài sản cố định:
+ Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng không thay
đổi về hình thái vật chất ban đầu cho tới khi bị hư hỏng.
+ Giá trị tài sản cố định dần và dịch chuyển hoàn toàn vào chi phí
sản xuất kinh doanh trong kỳ.
+ Vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định thường lớn, thời gian thu
hồi vốn dài.
4
Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định đặc biệt
là đối với thiết bị, công nghệ là một trong các yếu tố quyết định đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi vì:
- Tài sản cố định là yếu tố quyết định đến năng lực sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng

sản phẩm tốt, chi phí tạo ra sản phẩm thấp tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm, tăng doanh thu và do đó doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh tranh
trên thị trường. Xét trên góc độ này, đầu tư đổi mới tài sản cố định trở
thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp .
- Đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc giảm biên chế, giải phóng lao động thủ công nặng nhọc, đảm
bảo an toàn lao động.
- Xét trên góc độ tài chính doanh nghiệp, đầu tư đổi mới tài sản cố
định là nhân tố quan trọng để giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
Với những ý nghĩa trên, việc đòi hỏi đổi mới tài sản cố định trong
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đòi hỏi tất yếu khách quan trong
quy luật kinh tế thị trường hiện nay.
Thông qua công tác hạch toán kế toán tài sản cố định, các nhà quản
lý và người quan tâm có thể nắm bắt được tình hình tài sản cố định trong
doanh nghiệp. Từ đó giúp các nhà quản trị đưa ra những chiến lược sản
xuât kinh doanh chính xác và hiệu quả cho doanh nghiệp.
1.2.3.3. Phân loại tài sản cố định:
* Phân loại theo hình thái biểu hiện:
Dựa theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp
được chia làm hai loại:
- Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật
chất cụ thể do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động sản xuẩt kinh doanh.
Thuộc loại này, dựa vào công cụ kinh tế có thể chia thành các nhóm sau:
+ Nhà cửa, vật kiến trúc: Là toàn bộ các công trình kiến trúc như nhà
làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, đường xá, cầu cống…
+ Máy móc thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong
hoạt động của doanh nghiệp như máy móc thiết bị chuyên dùng, máy móc
thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ…
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Gồm các loại phương tiện
vận tải đường bộ, đường sông, đường biển… và các thiết bị truyền dẫn về

thông tin, điện nước, băng truyền vật tư, hàng hóa…
+ Thiết bị, dụng cụ quản lý: Là những thiết bị, dụng cụ dùng trong
công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: máy vi tính,
thiết bị điện tử, thiết bị đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút bụi, hút
ẩm…
5
+ Vườn cây lâu năm (như cà phê, cao xu, cây ăn quả…), súc vật làm
việc (như trâu, bò,…), hoặc súc vật cho sản phẩm (bò sữa..).
- Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật
chất nhưng xác định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối
tượng khác thuê hoặc dùng với mục đích quản lý.
Tài sản cố định vô hình chỉ được thừa nhận khi xác định được giá trị
của nó, thể hiện một lượng giá trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp
đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, tài sản cố
định vô hình gồm các loại sau:
- Quyền sử dụng đất có thời hạn.
- Nhãn hiệu hàng hóa.
- Quyền phát hành.
- Phần mềm máy vi tính.
- Bản quyền, bằng sáng chế,…
Phương pháp phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu
đầu tư vào tài sản cố định theo hình thức biểu hiện, là căn cứ để quyết định
đầu tư dài hạn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp và có biện pháp quản
lý phù hợp với mỗi loại tài sải cố định .
* Phân loại theo mục đích sử dụng :
Dựa theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp
chia làm hai loại:
- Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: Là những tài sản
cố định đang dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt

động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
- Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh,
quốc phòng: Là những tài sản cố định không mang tính chất sản xuất kinh
doanh do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp và các hoạt động an ninh, quốc phòng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp thấy được
kết cấu tài sảncố định theo mục đích sử dụng, từ đó tạo điều kiện thuận lơi
cho việc quản lý và tính khấu hao tài sản cố định có tính chất sản xuất, có
biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố định.
* Phân loại theo tình hình sử dụng:
Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định có thể chia toàn bộ tài
sản cố định của doanh nghiệp thành các loại sau:
- Tài sản cố định đang dùng: Là những tài sản đang hoạt động hoặc
đang nằm trong khâu dự phòng hoặc sửa chữa.
- Tài sản cố định chưa cần dùng: Là những tài sản chưa cần dùng
đến trong thời điểm hiện tại.
6
- Tài sản cố định không dùng: Là những tài sản cố định không hoạt
động do không cần dùng hoặc hư hỏng trước hạn không thể sửa chữa.
Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng thường dùng để
nghiên cứu tình trạng sử dụng máy móc thiết bị của từng doanh nghiệp cụ
thể, nghiên cứu tính đồng bộ của máy móc thiết bị được đầu tư.
* Phân loại theo hình thức đầu tư:
Căn cứ vào hình thức đầu tư có thể chia tài sản cố định của doanh
nghiệp thành các loại sau:
- Tài sản cố định mua sắm: Là tài sản cố định hữu hình được đầu tư
bằng hình thức mua sắm trực tiếp hoặc gián tiếp trao đổi qua tài sản khác
có giá trị tương đương.
- Tài sản cố định xây dựng hoặc tự sản xuất: Là tài sản cố định hữu
hình được đầu tư bằng hình thức tự xây lắp (ví dụ như nhà xưởng, vật kiến

trúc…)
- Tài sản cố định thuê tài chính: Là những tài sản cố định được
doanh nghiệp đầu tư bằng hình thức thuê của công ty cho thuê tài chính.
- Tài sản cố định không phải đầu tư: Là những tài sản cố định có
đựợc do được cấp, được điều chuyển đến, được tặng, nhận góp vốn liên
doanh…
Phân loại tài sản cố định theo hình thức đầu tư thường áp dụng để
nghiên cứu xác định đúng, đủ giá trị của tài sản cố định của doanh nghiệp
phù hợp với chế độ quản lý sử dụng và khấu hao tài sản cố định.
Trên đây là các cách phân loại chủ yếu. Ngoài ra còn có các cách phân loại
tài sản cố định theo quyền sở hữu v.v… Mỗi cách phân loại đáp ứng những
yêu cầu nhất định của công tác quản lý. Trong thực tế doanh nghiệp có thể
kết hợp nhiều phương pháp phân loại tài sản cố định tùy theo yêu cầu quản
lý của từng thời kỳ.
1.3. Khấu hao tài sản cố định.
1.3.1. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định.
1.3.1.1. Hao mòn của tài sản cố định.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do
chịu tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau nên tài sản cố định bị hao
mòn dần, vậy: “Hao mòn tài sản cố định là sự giảm dần về giá trị sử dụng
và giá trị hoặc giảm giá trị của tài sản cố định.”
Sự hao mòn tài sản cố định được chia làm 2 loại: Hao mòn hữu hình
và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình: Là sự giảm dần về giá trị sử dụng và theo đó
giảm dần về giá trị của tài sản cố định.
Sự hao mòn hữu hình của tài sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian sử
dụng và cường độ sử dụng của tài sản cố định đó. Ngoài nguyên nhân chủ
7
yếu trên, trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài sản cố định còn bị hao
mòn do tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, nắng, mưa.v.v.

Sự hao mòn tài sản cố định còn chịu ảnh hưởng của sức bền vật liệu cấu
thành nên tài sản cố định đó.
- Hao mòn vô hình: Là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản
cố định.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hao mòn vô hình là do sự tiến bộ của
khoa học công nghệ. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ, các máy móc thiết bị không ngừng được cải tiến, đổi mới nên có các
tính năng , công dụng ,và công suất cao hơn. Vì vậy, những máy móc, thiết
bị được sản xuất trước đó trở nên lạc hậu, lỗi thời và bị mất giá.
Tình trạng mất giá này của tài sản cố định chính là do hao mòn của
tài sản cố định. Nó liên quan tới việc giảm sút giá trị sử dụng của tài sản cố
định. Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ diễn ra rất nhanh
chóng đã khiến cho nhiều tài sản cố định bị hao mòn vô hình rất nhanh,
thậm chí cả những tài sản cố định còn mới nguyên, chưa qua sử dụng
nhưng chúng đã bị mất giá trị vì bị hao mòn vô hình.
Ví dụ: Máy móc thiết bị trong ngành tin học điện tử… Hao mòn vô
hình còn xuất hiện cả khi chu kỳ sống của sản phẩm bị chấm dứt dẫn đến
những tài sản cố định để chế tạo ra sản phẩm đó cũng bị mất tác dụng.
Thậm chí có những trường hợp máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ…
mới chỉ nằm trên các dự án, các dự thảo, phát minh dã trở nên lạc hậu trong
chính thời điểm đó. Điều này cho thấy hao mòn vô hình không chỉ diễn ra
đối với tài sản cố định hữu hình mà ngay cả đối với tài sản vô hình.
Để thu hồi lại giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn (hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình) nhằm tái sản xuất tài sản cố định khi hết thời
gian sử dụng cần tính đến việc chuyển tái sản cố định vào giá trị sản phẩm
tạo ra bằng việc khấu hao tài sản cố định.
1.3.1.2. Khấu hao tài sản cố định.
“Khấu hao tài sản cố định là sự phân bố một cách có hệ thống giá trị
phải thu hồi của tài sản cố định trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài
sản cố định đó.”

Vì thế, khấu hao tài sản cố định là một yếu tố chi phí và được tính vào giá
thành sản phẩm.
- Xét về mặt kinh tế, khấu hao tài sản cố định là một khoản chi phí
sản xuất kinh doanh trong kỳ nhưng không phải là khoản chi tiêu bằng tiền
trong kỳ.
- Xét về mặt tài chính, khấu hao tài sản cố định là một cách thu hồi
vốn đầu tư ứng trước, vì sau khi sản phẩm được tiêu thụ, một số tiền được
trích ra từ tiền thu bán hàng tương ứng với số đã khấu hao trong kỳ được
gọi
8
- Xét về mặt nguyên lý, khi chưa tới thời hạn tái sản xuất tài sản cố
định thì số tiền khấu hao được tích luỹ lại dần dần dưới hình thái một quỹ
tiền tệ dự trữ gọi là quỹ khấu hao.
Nhưng trên thực tế hiện nay, các doanh nghiệp có quyền sử dụng
linh hoạt số tiền trích khấu hao sao cho có hiệu quả và phải hoàn trả đúng
hạn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng tài sản cố định khi
có nhu cầu.
Mục đích của khấu hao tài sản cố định là nhằm thu hồi vốn để tái
sản xuất ra tài sản cố định. Nếu doanh nghiệp tổ chức quản lý và sử dụng
tốt thì tiền khấu hao không chỉ có tác dụng tái sản xuất giản đơn mà còn có
thể tái sản xuất mở rộng tài sản cố định.
Về nguyên tắc, việc tính khấu hao tài sản cố định phải dựa trên cơ sở
xem xét mức độ hao mòn của tài sản cố định. Doanh nghiệp phải tính khấu
hao hợp lý, đảm bảo thu hồi đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu và tài sản cố
định.
Thực hiện khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý có ý nghiã kinh
tế lớn đối với doanh nghiệp:
- Khấu hao hợp lý tài sản cố định là một biện pháp quan trọng để
thực hiện bảo toàn vốn cố định. Thông qua thực hiện khấu hao hợp lý
doanh nghiệp có thể thu hồi đầy đủ vốn cố định khi tài sản cố định hết thời

hạn sử dụng.
- Khấu hao hợp lý tài sản cố định giúp cho doanh nghiệp có thể tập
trung được vốn từ tiền khấu hao để thực hiện kịp thời đổi mới máy móc,
thiết bị và công nghệ.
- Việc khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý là nhân tố quan
trọng để xác định đúng giá thành sản phẩm và đánh giá kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ.
Việc lựa chọn các phương pháp tính khấu hao thích hợp là biện pháp
quan trọng để bảo toàn vốn cố định và cũng là một căn cứ quan trong để
xác định thời gian hoàn vốn đầu tư vào tài sản cố định từ các nguồn tài chợ
dài hạn.
Như vậy, việc nghiên cứu lựa chọn các phương pháp khấu hao
TSCĐ là một trong nhưng nội dung quan trọng của công tac quản lý vốn
đầu tư nói chung của doanh nghiệp. Thông thường người ta sử dụng các
phương pháp khấu hao chủ yếu sau đây:
1.4.1. Phương pháp khấu hao tuyến tính (hay phương pháp khấu hao theo
đường thẳng).
Đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng,
được sử dụng phổ biến để tính khấu hao cho các loại TSCĐ hữu hình có
mức độ hao mòn đều qua các năm
9
* Mức khấu hao TSCĐ:
Theo phương pháp này, mức khấu hao bình quân hàng năm của
TSCĐ được xác định theo công thức sau.
Mức khấu hao hàng năm
của TSCĐ =
Giá trị phải khấu hao TSCĐ
Thời hạn sử dụng của TSCĐ
Giá trị phải khấu hao

TSCĐ
= Nguyên giá của
TSCĐ
- Giá trị thanh lý
ước tính
“Nguyên giá của TSCĐ: là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp
đã chi ra để có TSCĐ cho tới khi đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng.”
Nguyên giá của TSCĐ bao gồm:
- Giá mua thực tế phải trả: giá ghi trên hóa đơn trừ đi các khoản
giảm giá, chiết khấu mua hàng (nếu có).
- Các chi phí kèm theo trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng như chi phí
vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử lần đầu, điều chỉnh, lệ phí trước bạ,
lãi tiền vay đầu tư TSCĐ khi chưa đưa vào sử dụng và thuế không được
hoàn. Đối với TSCĐ doanh nghiệp xây dựng thì nguyên giá là giá trị thực
tế đã chi ra để xây dựng TSCĐ. Đối với TSCĐ vô hình: Nguyên giá là tổng
chi phí thực tế đã đầu tư vào tài sản đó.
Giá trị thanh lý ước tính được xác định bằng kết quả thanh lý ước
tính trừ đi chi phía thanh lý ước tính. Để đơn giản hóa vấn đề người ta quy
ước thu thanh lý bằng chi phí thực hiện thanh lý TSCĐ nên ta có công thức
tính mức khấu hao năm như sau:
M
kh
=
T
NG
Trong đó: + M
kh
: Mức khấu hao hàng năm.
+ NG : Nguyên giá TSCĐ.

+ T: Thời gian sử dụng TSCĐ.
Thời hạn sử dụng TSCĐ (T): là thời gian sử dụng dự tính cho cả đời
TSCĐ. Việc xác định thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ dựa vào 2 yếu
tố chủ yếu sau:
- Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ là thời gian sử dụng TSCĐ dự theo
thiết kế kỹ thuật.
- Tuổi thọ kinh tế là thời gian sử dụng TSCĐ có tính đến sự lạc hậu,
lỗi thời của TSCĐ do sự tiên bộ về khoa học công nghệ.
* Tỷ lệ khấu hao TSCĐ:
10
“Tỷ lệ khấu hao hàng năm của TSCĐ (T
KH
) là tỷ lệ phần trăm giữa
mức khâu hao (M
KH
) và nguyên giá của TSCĐ (NG).”
Công thức tính:
T
kh
=
NG
M
kh
x 100%
Từ đó: Tỷ lệ khấu hao tháng của TSCĐ:
T
th
=
12
T

kh
Trong công tác quản lý, người ta sử dụng các loại tỷ lệ khấu hao:
- Tỷ lệ khấu hao của từng TSCĐ
- Tỷ lệ khấu hao của từng loại TSCĐ
- Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân của các loại TSCĐ trong doanh
nghiệp. Và có thể được tính bằng 2 cách :
Cách 1:
kh
T
=
k
kh
NG
M
Trong đó: +
kh
T
: Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân năm.
+ M
kh
: Tổng số tiền khấu hao TSCĐ trong năm.
+
k
NG
: Tổng nguyên giá TSCĐ bình quân phải tính khấu hao
trong năm.
Cách 2:
kh
T
=


i
f(
x T
khi
)
Trong đó: +
i
f
: Tỷ trọng về giá trị của từng loại TSCĐ thứ i.
+ T
khi
: Tỷ lệ khấu hao của loại TSCĐ thứ i.
+ i=
n,1
: Số loại TSCĐ.
Tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân có thể được sử dụng trong việc
lập kế hoạch khấu hao TSCĐ và trong công tác kế toán để xác định số khấu
hao TSCĐ trong kỳ.
TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo
phương pháp khấu hao đường thẳng. Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
kinh tế cao được khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu
hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công
nghệ. Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu
hao nhanh là máy móc, thiết bị; dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm;
thiết bị và phương tiện vận tải; dụng cụ quản lý; súc vật, vườn cây lâu năm.
Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo kinh
doanh có lãi. Trường hợp doanh nghiệp trích khấu hao nhanh vượt 2 lần
mức quy định tại khung thời gian sử dụng tài sản cố định nêu tại Phụ lục 1
11

kèm theo thông tư 206/2003QĐ-BTC, thì phần trích vượt mức khấu hao
nhanh (quá 2 lần) không được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu
nhập trong kỳ.
Ưu điểm: Việc tính toán đơn giản, dễ tính.Tổng mức khấu hao của
TSCĐ được phân bố đều đặn vào các năm sử dụng TSCĐ nên không gây ra
sự biến động quá mức khi tính chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm
hằng năm. Thông qua việc xem xét tỷ lệ khấu hao thực tế TSCĐ có thể
đánh giá được tỷ lệ khấu hao và thu hồi vốn cố định của doanh nghiệp.
Phương pháp này biết trước được thời hạn thu hồi vốn.
Hạn chế: Phương pháp này không thật phù hợp đối với loại TSCĐ
mà có mức độ không đều nhau giữa các kỳ trong năm hay giữa các năm
khác nhau trong trường hợp không lường được hết sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ doanh nghiệp có thể bị mất vốn cố định.
Đồ thị biểu diễn mức khấu hao hàng năm theo
phương pháp đường thẳng.
1.4.2. Phương pháp khấu hao nhanh.
Để khắc phục những nhược điểm của phương pháp khấu hao đường
thẳng và thúc đẩy thu hồi nhanh hơn vốn cố định người ta sử dụng phương
pháp khấu hao nhanh. Hai phương pháp khấu hao nhanh thường được đề
cập là:
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
- Phương pháp khấu hao theo tổng số thư tự năm sử dụng gọi tắt là
phương pháp khấu hao theo tổng số.
1.4.2.1.Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
Theo phương pháp này số khấu hao hành năm của TSCĐ được xác
định bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm tính khấu hao nhân
năm
M
kh
12

×