Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

phương pháp đo lường dùng trong công tác kiểm tra của nhà quản trị ở công ty cổ phần sữa vinamilk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.96 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ, PHƯƠNG PHÁP ĐO
LƯỜNG DÙNG CHO CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA NHÀ QUẢN TRỊ. 3
1. Khái niệm về quản trị...........................................................................3
2. Khái niệm về nhà quản trị.....................................................................3
3. Kiểm tra trong hoạt động của Nhà quản trị.............................................5
3.1 Khái niệm..............................................................................................5
3.2 Vai trò của kiểm tra trong quản lý.........................................................6
3.3 Tiến trình kiểm tra.................................................................................6
3.4 Các nguyên tắc kiểm tra........................................................................8
4.Các phương pháp đo lường dùng trong công tác kiểm tra của nhà quản
trị...............................................................................................................10
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO
LƯỜNG DÙNG TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA NHÀ QUẢN
TRỊ Ở CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VINAMILK........................................13
1. Khái quát về công ty cổ phần Vinamilk................................................13
1.1 Giới thiệu chung về công ty cổ phần Vinamilk...................................13
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần sữa Vinamilk........13
1.3.Tình hình kinh doanh của công ty cổ phần Vinamilk trong những năm
qua.............................................................................................................15
1.4.Tầm nhìn, sứ mệnh và triết lý kinh doanh của công ty.......................16
1.5.Điểm mạnh, điểm yếu về hoạt động kinh doanh:...............................16
2.Thực trạng sử dụng các phương pháp đo lường trong công tác kiểm tra
của nhà quản trị ở công ty cổ phần Vinamilk............................................18
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, công tác kiểm tra
của nhà quản trị.........................................................................................18


2.2 Thực trạng sử dụng các phương pháp đo lường trong công tác kiểm tra
của nhà quản trị tại công ty cổ phần Vinamilk..........................................20


3.Đánh giá các phương pháp đo lường dùng cho công tác kiểm tra của nhà
quản trị......................................................................................................23
3.1 Ưu điểm...............................................................................................24
3.2 Nhược điểm.........................................................................................24
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG...........................................................25
KẾT LUẬN....................................................................................................27
DANH MỤC TAI LIỆU THAM KHẢO.....................................................28


LỜI MỞ ĐẦU
Để thực hiện chức năng quản trị, các nhà quản lý cần thục hiện nhiều những
nhiệm vụ và chức năng của mình để đưa công ty, doanh nghiệp mình phát triển bền
vũng. Sau khi tiến hành các chức năng hoạch định, tổ chức và lãnh đạo thì mô hình
hoạt động của doanh nghiệp vẩn chưa hoàn chỉnh. Do vậy nhà quản trị phải tiến
hành kiểm tra và đánh giá công việc nhằm hạn chế tới mức tối đa các sai sót, hay có
thể nói nhà quản trị đã tiến hành chức năng kiểm soát.
Kiểm tra được coi là mối nối cuối cùng trong chuỗi các hoạt động của nhà
quản trị. Kiểm tra là cách duy nhất để nhà quản trị biết được họ có đạt được mục
tiêu của tổ chức đặt ra không, cũng như lý do tại sao được hoặc không đạt được.
Đối với hầu hết mọi người, từ “kiểm tra”, “kiểm soát” thường mang ý nghĩa tiêu
cực, kiềm chế, thúc ép, định ranh giới, theo dõi hoặc lôi kéo. Nhiều nhân viên hay
khách hàng thường không bằng lòng với những hoạt động kiểm tra, kiểm soát bởi vì
chúng ảnh hưởng đến giá trị của sự tự do và tính cá nhân.
Vì lý do này, kiểm soát thường là tâm điểm của tranh luận và những đấu
tranh chính sách trong tổ chức. Tuy nhiên, kiểm tra là cần thiết và hữu ích. Kiểm tra
hiệu quả là một trong số các bí quyết để gia tăng lợi nhuận của các công ty lớn.
Kiểm tra là một chức năng mà mọi nhà quản trị đều phải thực hiện dù rằng kết quả
công việc của các bộ phận do họ quản lý đều đạt đúng theo kế hoạch đề ra.
Nhà quản trị không thể xác định mức độ hoàn thành công việc của bộ phận

nếu không đo lường được việc đã thực hiện và so sánh với tiêu chuẩn. Nó còn giúp
các nhà quản trị nhận thấy những khiếm khuyết trong hệ thống của tổ chức, trên cơ
sở đó có thể đưa ra những quyết định điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, các hoạt động
kiểm soát đảm bảo cho sự tồn tại và duy trì tính hiệu quả của mỗi cá nhân, mỗi
nhóm, mỗi bộ phận và tổ chức.
Tuy nhiên để thục hiện chức năng kiểm tra của mình, các nhà quản trị phải
sử dụng đến các phương pháp đo lường. Vì thế trong bài tiểu luận này, em sẽ tìm
hiểu về các phương pháp đo lường cho công tác kiểm tra của nhà quản trị. Cùng với
việc liên hệ việc áp dụng các phương pháp đo lường trong công ty cổ phần
Vinamilk sẽ làm rõ hơn vai trò, chúc năng của từng phương pháp.

1


Bài tiểu luận ngoài lời nói đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo gồm 3
chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản trị, phương pháp đo lường dùng trong công
tác kiểm tra của nhà quản trị.
Chương 2. Thực trạng áp dụng các phương pháp đo lường dùng trong công
tác kiểm tra của nhà quản trị ở công ty cổ phần sữa Vinamilk.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các phương pháp đo
lường.
Bài tiểu luận của em còn nhiều thiếu sót, kính mong nhân được sự giúp đỡ,
đóng góp của thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn!

2


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ, PHƯƠNG PHÁP ĐO

LƯỜNG DÙNG CHO CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA NHÀ QUẢN TRỊ
1. Khái niệm về quản trị
Thuật ngữ quản trị có nghĩa là một phương thức hoạt động hướng đến mục
tiêu được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua những người khác. Hoạt
động quản trị là những hoạt động tất yếu phát sinh khi con người kết hợp với nhau
để cùng hoàn thành mục tiêu. Trong bộ tư bản, Mác có đưa ra một hình ảnh về hoạt
động quản trị, đó là hoạt động của con người chỉ huy dàn nhạc, người này không
chơi một thứ nhạc cụ nào mà chỉ đứng chỉ huy các nhạc công tạo nên bản giao
hưởng.
Ngày nay, về nội dung, thuật ngữ quản trị có nhiều cách hiểu khác nhau, sau
đây là một vài cách hiểu:
Quản trị là một quá trình do một hay nhiều người thực hiện nhằm phối hợp
các hoạt động của những người khác để đạt được những kết quả mà một người hoạt
động riêng rẽ không thể nào đạt được. Với cách hiểu này, hoạt động quản trị chỉ
phát sinh khi con người kết hợp với nhau thành tổ chức.
Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị nhằm thực
hiện các mục tiêu đã vạch ra một cách tối ưu trong điều kiện biến động của môi
trường. Với cách hiểu này, quản trị là một quá trình, trong đó chủ thể quản trị là tác
nhân tạo ra các tác động quản trị; đối tượng quản trị tiếp nhận các tác động của chủ
thể quản trị tạo ra; mục tiêu của quản trị phải được đặt ra cho cả chủ thể quản trị và
đối tượng quản trị, được xác định trước khi thực hiện sự tác động quản trị.
Quản trị là quá trình hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm soát công việc
và những nổ lực của con người, đồng thời vận dụng một cách có hiệu quả mọi tài
nguyên, để hoàn thành các mục tiêu đã định.
2. Khái niệm về nhà quản trị
Nhà quản trị là tên gọi chung để chỉ những người hoàn thành mục tiêu thông
qua và bằng người khác, họ là những người thực hiện công việc quản trị. Nhà quản
trị thực hiện việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra việc phân bổ các
nguồn lực con người, cơ sở vật chất, tài chính và thông tin để đạt được các mục tiêu


3


của tổ chức.
- Vai trò của nhà quản trị.
Vai trò của Nhà quản tri với tổ chức gồm ba nhóm lơn như sau:
Thứ nhất: Nhóm vai trò quan hệ với con người
Vai trò đại diện, hay tượng trưng, có tính chất nghi lễ trong tổ chức : Có
nghĩa là bất cứ một tổ chức nào cũng đều phải có người đại diện cho tổ chức đó
nhằm thực hiện các giao dịch, đối thoại với các cá nhân và tổ chức bên ngoài. Ngay
cả từng bộ phận trong tổ chức cũng phải có người đứng đầu bộ phận đó để lĩnh hội
các ý kiến, chính sách, kế hoạch của cấp trên.
Vai trò lãnh đạo: Vai trò này phản ảnh sự phối hợp và kiểm tra của nhà quản
trị đối với cấp dưới của mình.
Vai trò liên lạc: Thể hiện mối quan hệ của nhà quản trị đối với người khác cả
bên trong và bên ngoài tổ chức
Thứ hai: Nhóm vai trò thông tin
Vai trò tiếp nhận và thu thập thông tin liên quan đến tổ chức : Nhà quản trị
phải thường xuyên xem xét, phân tích môi trường xung quanh tổ chức nhằm xác
định môi trường tạo ra những cơ hội gì cho tổ chức, cũng như những mối đe dọa
nào đối với tổ chức. Vai trò này được thực hiện thông qua việc đọc sách báo, văn
bản hoặc qua trao đổi tiếp xúc với mọi người…
Vai trò phổ biến thông tin : Có những thông tin cần tuyệt đối giữ bí mật,
nhưng cũng có những thông tin mà các nhà quản trị cần phổ biến đến cho các bộ
phận, các thành viên có liên quan trong tổ chức, thậm chí phổ biến đến cho những
người đồng cấp hay cấp trên của mình nhằm làm cho mọi người cùng được chia sẻ
thông tin để góp phần hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức.
Vai trò cung cấp thông tin cho bên ngoài: Tức nhà quản trị thay mặt cho tổ
chức của mình cung cấp các thông tin cho bên ngoài nhằm để giải thích, bảo vệ hay
tranh thủ một sự đồng tình, ủng hộ nào đó.

Thứ ba: Nhóm vai trò quyết định
Vai trò doanh nhân : Đây là vai trò phản ảnh việc nhà quản trị tìm mọi cách
cải tiến tổ chức nhằm làm cho hoạt động của tổ chức ngày càng có hiệu quả. Chẳng

4


hạn điều chỉnh kỹ thuật mà tổ chức đang áp dụng hay áp dụng một kỹ thuật mới nào
đó…
Vai trò giải quyết xáo trộn: Bất cứ một tổ chức nào cũng có những trường
hợp xung đột xảy ra trong nội bộ dẫn tới xáo trộn tổ chức như sự đình công của
công nhân sản xuất, sự mâu thuẫn và mất đoàn kết giữa các thành viên, bộ phận
….Nhà quản trị phải kịp thời đối phó, giải quyết những xáo trộn đó để đưa tổ chức
sớm trở lại sự ổn định
Vai trò phân phối các nguồn lực: Nếu các nguồn lực dồi dào (tiền bạc, thời
gian, quyền hành, máy móc, nguyên vật liệu, con người …) thì nhà quản trị sẽ tiến
hành phân phối một cách dễ dàng; Nhưng ngày nay, khi các nguồn lực ngày càng
cạn kiệt đòi hỏi nhà quản trị phải phân bổ các nguồn lực đó cho các thành viên, từng
bộ phận sao cho hợp lý nhằm đảm bảo cho các thành viên, bộ phận hoạt động một
cách ổn định và hiệu quả.
Vai trò thương thuyết : Tức phản ảnh việc thương thuyết, đàm phán thay mặt
cho tổ chức trong các giao dịch với các cá nhân, tổ chức bên ngoài. Ví dụ đàm phán
ký kết hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế….
3. Kiểm tra trong hoạt động của Nhà quản trị
3.1 Khái niệm
Kiểm tra là một tiến trình đo lường kết quả thực hiện so sánh với những điều
đã được hoạch định, đồng thời sửa chữa những sai lầm để đảm bảo việc đạt được
mục tiêu theo như kế hoạch hoặc các quyết định đã được đề ra.
Khi triển khai một kế hoạch, cần phải kiểm tra để dự đoán những tiến độ để
phát hiện sự chệch hướng khỏi kế hoạch và đề ra biện pháp khắc phục. Trong nhiều

trường hợp, kiểm tra vừa tạo điều kiện đề ra mục tiêu mới hình thành kế hoạch mới,
cải thiện cơ cấu tổ chức nhân sự và thay đổi kỹ thuật điều khiển.
Những công cụ kiểm tra trong quản trị là những tỷ lệ, tiêu chuẩn, con số
thống kê và các sự kiện cơ bản khác, có thể được biểu diễn bằng các loại hình đồ
thị, biểu bảng nhằm làm nổi bật những dữ kiện mà các nhà quản trị quan tâm.
Những biện pháp kiểm tra hiệu quả phải đơn giản (càng ít đầu mối kiểm tra
càng tốt) cần tạo sự tự do và cơ hội tối đa cho người dưới quyền chủ động sử dụng

5


kinh nghiệm, khả năng và tài quản trị của mình để đạt kết quả cuối cùng mong
muốn về những công việc được giao.
Kiểm tra là chức năng của mọi nhà quản trị, từ nhà quản trị cao cấp đến các
nhà quản trị cấp cơ sở trong một đơn vị. Mặc dù qui mô của đối tượng kiểm tra và
tầm quan trọng của sự kiểm tra thay đổi tùy theo cấp bậc của các nhà quản trị, tất cả
mọi nhà quản trị đều có trách nhiệm thực hiện các mục tiêu đã đề ra, do đó chức
năng kiểm tra là một chức năng cơ bản đối với mọi cấp quản trị.
3.2 Vai trò của kiểm tra trong quản lý
Chức năng kiểm tra giúp các nhà quản lý đảm bảo cho kế hoạch được thực
hiện với hiệu quả cao thông qua việc xác định lại các nguồn lực của tổ chức (ở đâu,
ai sử dụng, sử dụng như thế nào) để từ đó sử dụng hiệu quả hơn những nguồn lực
này.
Kiểm tra giúp các nhà quản lý đánh giá mức độ thực hiện kế hoạch, tìm kiếm
nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Kiểm tra giúp các nhà quản lý kịp thời ra các quyết định cần thiết để đảm
bảo thực thi quyền lực quản lý và hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra chức
năng kiểm tra còn giúp tổ chức theo sát và ứng phó với sự thay đổi của môi trường.
3.3 Tiến trình kiểm tra
Xây dựng các tiêu chuẩn và chọn phương pháp đo lường việc thực hiện:

Tiêu chuẩn là những chỉ tiêu của nhiệm vụ cần được thực hiện. Trong hoạt
động của một tổ chức, có thể có nhiều loại tiêu chuẩn. Do đó tốt nhất cho việc kiểm
tra, các tiêu chuẩn đề ra phải hợp lý và có khả năng thực hiện được trên thực tế. Xây
dựng một hệ thống tiêu chuẩn vượt quá khả năng thực hiện rồi sau đó phải điều
chỉnh hạ thấp bớt các tiêu chuẩn này là một điều nên tránh ngay từ đầu. Các phương
pháp đo lường việc thực hiện cần phải chính xác, dù là tương đối. Một tổ chức tự
đặt ra mục tiêu “phải là hàng đầu” nhưng không hề chọn một phương pháp đo lường
việc thực hiện nào cả, thì chỉ là xây dựng tiêu chuẩn suông mà thôi.
Nếu nhà quản trị biết xác định tiêu chuẩn một cách thích hợp, đồng thời nắm
vững kỹ thuật nhận định xem thực sự cấp dưới đang làm gì, đang đứng ở chỗ nào
thì sự việc đánh giá kết quả thực hiện công việc tương đối dễ dàng. Tuy nhiên trong

6


điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, cùng với sự phát triển công nghệ không ngừng,
sự đa dạng hóa các mẫu loại sản phẩm là những vấn đề thách thức kiểm tra.
Đo lường việc thực hiện:
Nếu các tiêu chuẩn được vạch ra một cách thích hợp và nếu có các phương
tiện để xác định một cách chính xác rằng cấp dưới đang làm gì, các nhà quản trị có
thể đánh giá thành quả thực tế của những nhân viên dưới quyền của họ. Tuy nhiên,
sự đánh giá đó không phải bao giờ cũng thực hiện được. Có nhiều hoạt động khó có
thể nêu ra các tiêu chuẩn chính xác, và có nhiều hoạt động khó cho sự đo lường. Ví
dụ, nếu người ta có thể đo lường số sản phẩm của một phân xưởng sản xuất một
cách tương đối dễ dàng, thì ngược lại rất khó để kiểm tra công việc của Phòng Giao
tế công cộng trong xí nghiệp. Gặp trường hợp này, các nhà quản trị thường dùng
những tiêu chuẩn gián tiếp, ví dụ thái độ của báo chí và công chúng đối với xí
nghiệp, hay uy tín của xí nghiệp trong xã hội.
Điều chỉnh các sai lệch:
Nếu những tiêu chuẩn đặt ra phản ánh được cơ cấu tổ chức và hoạt động của

doanh nghiệp thì hiệu quả công việc cũng được kiểm định trên cơ sở những tiêu
chuẩn đó. Khi khám phá ra sự sai lệch, người quản trị cần phải tập trung phân tích
sự kiện tìm nguyên nhân sai lệch. Nếu đã biết rõ nguyên nhân thì ông ta không khó
khăn gì thực hiện các biện pháp thích hợp để điều chỉnh.
Sự khắc phục những sai lầm trong công việc có thể là điều chỉnh sai lệch
bằng cách tổ chức lại bộ máy trong xí nghiệp, phân công lại các bộ phận, đào tạo lại
nhân viên, tuyển thêm lao động mới, thay đổi tác phong lãnh đạo của chính họ, hoặc
thậm chí có thể phải điều chỉnh mục tiêu.
Ở các trung tâm thương mại, các siêu thị, nhờ hoạt động kiểm tra thường
xuyên người ta có thể biết ngay số tồn kho, số lượng bán được, doanh số, lợi nhuận,
các sai lệch ngay khi chúng mới xuất hiện.
Ở các xí nghiệp sản xuất thường có hệ thống kiểm tra hữu hiệu để có thể báo
cáo bất kỳ thời điểm nào về mức sản xuất đã đạt, số giờ lao động đã được thực hiện
nhờ đó người ta biết được kế hoạch đúng hạn hay bị chậm trễ trong quá trình sản
xuất để có những điều chỉnh kịp thời, nếu cần thiết.

7


3.4 Các nguyên tắc kiểm tra
Tất cả các nhà quản trị đều muốn có một cơ chế kiểm tra thích hợp và hữu
hiệu để giúp họ trong việc duy trì các hoạt động trong tổ chức diễn ra theo đúng kế
hoạnh và đạt được mục tiêu đã đề ra. Vì mỗi tổ chức đều có những mục tiêu hoạt
động, những công việc, và những con người cụ thể riêng biệt, cho nên các biện pháp
và công cụ kiểm tra của mỗi xí nghiệp đều phải được xây dựng theo những yêu cầu
riêng. Có 7 nguyên tắc mà các nhà quản trị phải tuân thủ trong quá trình kiểm tra
của mình đó là:
Kiểm tra phải được thiết kế căn cứ trên kế hoạch hoạt động của tổ chức và
căn cứ theo cấp bậc của đối tượng được kiểm tra:
Cơ sở để tiến hành kiểm tra thường là dựa vào kế hoạch. Do vậy, nó phải

được thiết kế theo kế hoạch hoạt động tổ chức. Mặt khác, kiểm tra còn cần được
thiết kế căn cứ theo cấp bậc của đối tượng được kiểm tra.
Ví dụ như công tác kiểm tra các hoạt động và nội dung hoạt động của phó
giám đốc tài chánh sẽ khác với công tác kiểm tra thành quả của một cửa hàng
trưởng. Sự kiểm tra hoạt động bán hàng cũng sẽ khác với sự kiểm tra bộ phận tài
chánh. Một doanh nghiệp nhỏ đòi hỏi cách thức kiểm tra khác với sự kiểm tra các xí
nghiệp lớn.
Công việc kiểm tra phải được thiết kế theo đặc điểm cá nhân các nhà quản
trị:
Điều này sẽ giúp nhà quản trị nắm được những gì đang xảy ra, cho nên việc
quan trọng là những thông tin thu thập được trong quá trình kiểm tra phải được nhà
quản trị thông hiểu. Những thông tin hay những cách diễn đạt thông tin kiểm tra mà
nhà quản trị không hiểu được, thì họ sẽ không thể sử dụng, và do đó sự kiểm tra sẽ
không còn ý nghĩa.
Sự kiểm tra phải được thực hiện tại những điểm trọng yếu:
Khi xác định rõ được mục đích của sự kiểm tra, chúng ta cần phải xác định
nên kiểm tra ở đâu? Trên thực tế các nhà quản trị phải lựa chọn và xác định phạm vi
cần kiểm tra. Nếu không xác định được chính xác khu vực trọng điểm, như kiểm tra
trên một khu vực quá rộng, sẽ làm tốn kém thời gian, lãng phí về vật chất việc kiểm

8


tra không đạt được hiệu quả cao.
Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần dựa vào những chỗ khác biệt thì chưa đủ. Một
số sai lệch so với tiêu chuẩn có ý nghĩa tương đối nhỏ, và một số khác có tầm quan
trọng lớn hơn. Chẳng hạn, nhà quản trị cần phải lưu tâm nếu chi phí về lao động
trong doanh nghiệp tăng 5% so với kế hoạch nhưng sẽ không đáng quan tâm lắm
nếu chi phí về tiền điện thoại tăng 20% so với mức dự trù. Hậu quả là trong việc
kiểm tra, nhà quản trị nên quan tâm đến những yếu tố có ý nghĩa quan trọng đối với

hoạt động của doanh nghiệp, và những yếu tố đó được gọi là các điểm trọng yếu
trong doanh nghiệp.
Kiểm tra phải khách quan:
Quá trình quản trị dĩ nhiên là bao gồm nhiều yếu tố chủ quan của nhà quản
trị, nhưng việc xem xét các bộ phận cấp dưới có đang làm tốt công việc hay không,
thì không phải là sự phán đoán chủ quan.
Nếu như thực hiện kiểm tra với những định kiến có sẵn sẽ không cho chúng
ta được những nhận xét và đánh giá đúng mức về đối tượng được kiểm tra, kết quả
kiểm tra sẽ bị sai lệch và sẽ làm cho tổ chức gặp phải những tổn thất lớn.
Vì vậy, kiểm tra cần phải được thực hiện với thái độ khách quan trong quá
trình thực hiện nó. Đây là một yêu cầu rất cần thiết để đảm bảo kết quả và các kết
luận kiểm tra được chính xác.
Hệ thống kiểm tra phải phù hợp với bầu không khí của doanh nghiệp:
Để cho việc kiểm tra có hiệu quả cao cần xây dựng một qui trình và các
nguyên tắc kiểm tra phù hợp với nét văn hóa của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
phong cách lãnh đạo dân chủ, nhân viên được độc lập trong công việc, được phát
huy sự sáng tạo của mình thì việc kiểm tra không nên thiết lập một cách trực tiếp và
quá chặt chẽ. Ngược lại, nếu các nhân viên cấp dưới quen làm việc với các nhà quản
trị có phong cách độc đoán, thường xuyên chỉ đạo chặt chẽ, chi tiết và nhân viên
cấp dưới có tính ỷ lại, không có khả năng linh hoạt thì không thể áp dụng cách kiểm
tra, trong đó nhấn mạnh đến sự tự giác hay tự điều chỉnh của mỗi người.
Việc kiểm tra cần phải tiết kiệm và bảo đảm tính hiệu quả kinh tế:
Mặc dù nguyên tắc này là đơn giản nhưng thường khó trong thực hành.

9


Thông thường các nhà quản trị tốn kém rất nhiều cho công tác kiểm tra, nhưng kết
quả thu hoạch được do việc kiểm tra lại không tương xứng.
Việc kiểm tra phải đưa đến hành động:

Việc kiểm tra chỉ được coi là đúng đắn nếu những sai lệch so với kế hoạch
được tiến hành điều chỉnh, thông qua việc làm lại kế hoạch, sắp xếp lại tổ chức;
điều động và đào tạo lại nhân viên, hoặc thay đổi phong cách lãnh đạo. Nếu tiến
hành kiểm tra, nhận ra cái sai lệch mà không thực hiện việc điều chỉnh, thì việc
kiểm tra là hoàn toàn vô ích.
Kiểm tra là chức năng quản trị rất quan trọng, có liên quan mật thiết với các
chức năng hoạch định, tổ chức nhân sự. Về cơ bản, kiểm tra là một hệ thống phản
hồi, là bước sau cùng của tiến trình quản trị. Với quan niệm quản trị học hiện đại,
vai trò của kiểm tra bao trùm toàn bộ tiến trình này.
Kiểm tra là chức năng quản trị rất quan trọng, liên quan chặt chẽ đến các
chức năng khác, và về cơ bản, kiểm tra là một hệ thống phản hồi, là bước sau cùng
của tiến trình quản trị và không thể thiếu được đối với nhà quản trị giỏi.
4.Các phương pháp đo lường dùng trong công tác kiểm tra của nhà
quản trị
Đo lường việc thực hiện nhiệm vụ là sử dụng theo các tiêu chuẩn để xác định
kết quả thực hiện tại một thời điểm được xác định, để phát hiện được những sai lệch
có thể xảy ra và tránh được chúng bằng những phương thức hành động thích hợp.
Nếu các chỉ tiêu được vạch ra một cách thích hợp, và nếu các phương tiện có khả
năng xác định một cách chính xác các cấp dưới đang làm gì, thì đánh giá việc thực
hiện thực tế và khả năng thực hiện tương đối dể dàng.
Có nhiều loại hoạt động khác nhau, có loại có thể xây dựng tiêu chuẩn dễ
dàng, có loại hoạt động không thể định lượng được, đối với loại này đo lường kết
quả thực hiện là khó khăn. Trên thực tế, để đo lường những hoạt động có thể xác
định được chỉ tiêu cụ thể, người ta dựa trên những tiêu chuẩn mờ như: sức mạnh
của doanh nghiệp là không có đình công, tập thể đoàn kết và làm việc tự giác, tinh
thần hợp tác cao. Việc đánh giá theo tiêu chuẩn mờ cần phải được kết hợp với việc
đánh giá theo tiêu chuẩn đã được định lượng rõ ràng thì việc đánh giá chung mới

10



được coi là thích hợp.
Qua quá trình nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu các vấn đề thực tiễn về
các phương pháp đo lường phục vụ trong công tác kiểm tra của nhà quản trị, có thể
rút gọn trong 3 phương pháp đo lường sau đây:
Thứ nhất: Đo lường bằng đơn vị số lượng vật chất: giờ công, ngày công, số
lượng sản phẩm, phế phẩm. Trên thực tế, khi kiểm tra hoạt động lao động, làm việc
tại các công ty, các nhà quản lý thường dựa vào bảng chấm công, giờ công để đưa ra
những quyết định. Nhờ đó mà họ biết được tình hình làm việc của nhân viên, công
nhân cấp dưới để có những phương pháp điều chỉnh mang tính thích hợp và đưa ra
những quyết định hợp lý. Cùng với việc theo dõi ngày công, giờ làm, các nhà quản
trị cũng rất chú ý đến khối lượng sản phẩm làm ra hay số lượng phế phẩm. Nhờ vào
đó, họ phần nào nắm được một cách bao quát, tổng thể sự phát triển, vận hành của
cơ quan tổ chức mình. Phương pháp đo lường bằng số lượng đơn vị vật chất là một
phương pháp đơn giản và dễ áp dụng nhất để phục vụ cho công tác kiểm tra của nha
quản trị.
Thứ hai, đo lường bằng đơn vị tiền tệ như chi phí, doanh thu, lợi nhuận. Đây
là cách mà các nhà quản trị nắm được một cách rõ ràng nhất về hiệu quả hoạt động
của công ty, doanh nghiệp mà họ quản lý.
Đã từ lâu, khi bàn tới hiệu quá kinh doanh, nhiều nhà khoa học kinh tế đã đề
cập đến mức chuẩn hiệu quả (hay còn gọi lại tiêu chuẩn hiệu quả). Từ công thức
định nghĩa về hiệu quả kinh tế; chúng ta thấy khi thiết lập mối quan hệ tỉ lệ giữa
“đầu ra” và “đầu vào” sẽ có thể cho một dãy các giá trị khác nhau. Vấn đề được đặt
ra là trong các giá trị đạt được thì các giá trị nào phản ánh tính có hiệu quả (nằm
trong miền có hiệu quả), các giá trị nào sẽ phản ánh tính hiệu quả cao cũng như
những giá trị nào nằm trong miền không đạt hiệu quả (phi hiệu quả).
Chúng ta có thể hiểu mức chuẩn hiệu quả là giới hạn, là thước đo, là căn cứ,
là một cái “mốc” xác định ranh giới có hiệu quả hay không có hiệu quả về một chỉ
tiêu hiệu quả đang xem xét. Ở đây, xét một cách rõ ràng nhất là sự hạch toán giữa
chí phí và doanh thu để xác định mức lợi nhuận mà tổ chức thu về. Đây là phương

pháp đo lường vừa tổng quát, vừa cụ thể để nhìn nhận một cách trực tiếp hiệu quả

11


kinh doanh của tổ chức. Nó là một phương pháp hỗ trợ một cách tối ưu cho nhà
quản trị khi thực hiện chức năng kiểm tra của mình.
Thứ ba, đo lường bằng định tính như nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng, sự vui lòng của khách hàng, cải tiến uy tín của doanh nghiệp…Có thể nói
ngoài hai phương pháp đã nêu trên thì đây được đánh giá là phương pháp “mềm”
nhưng có một vị trí vô cùng quan trọng trong công tác kiểm tra cửa nhà quản trị.
Thực tế cho thấy, một thương hiệu tạo được lòng tin, là doanh nghiệp đó phải đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng, chất lượng phục vụ tốt, tạo nên uy tín của doanh
nghiệp. Như vậy có nghĩa là, hiệu quả càng cao thì uy tín càng lớn, càng nhận được
sự ủng hộ của quý khách hàng, bở khách hàng chính là nguồn sống cho doanh
nghiệp, cho tổ chức, công ty. Khi nhà quản trị sử dụng phương pháp này, giúp cho
họ có những cái nhìn không chỉ sâu sắc mà còn toàn diện hơn về công ty, tổ chức
mình, từ đó làm cơ sở để giao nhiệm vụ, ra quyết định cho các tổ chức, bộ phận cấp
dưới chấp hành và thực hiện.
Trên đây là các phương pháp đo lường cơ bản để cho các nhà quản trị sử
dụng trong công tác kiểm tra cua mình. Các phương pháp đo lường có thể sẽ biến
đổi theo từng môi trường cụ thể và từng hoàn cảnh cụ thể tùy thuộc vào yêu cầu
kiểm tra của nhà quản lý. Tuy nhiên ba phương pháp đo lường đã nêu trên đây là
những phương pháp mang tính cơ bản và được áp dụng rộng rãi trong hoạt động
quản trị hiện nay.

12


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG

DÙNG TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA NHÀ QUẢN TRỊ Ở CÔNG TY
CỔ PHẦN SỮA VINAMILK
1. Khái quát về công ty cổ phần Vinamilk
1.1 Giới thiệu chung về công ty cổ phần Vinamilk
Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam được thành lập trên cơ sở quyết định số
155/2003QĐ- BCN ngày 01 tháng 10 năm 2003 của Bộ Công nghiệp về việc
chuyển Doanh nghiệp Nhà nước Công ty Sữa Việt Nam thành Công ty Cổ phần Sữa
Việt Nam. Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty số 4103001932 do Sở Kế
hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp ngày 20/11/2003. Trước ngày 1 tháng 12 năm
2003, Công ty là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Công nghiệp.
- Tên đầy đủ: Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
- Tên viết tắt: VINAMILK
- Logo:

- Trụ sở: 36 - 38 Ngô Đức Kế, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh - Văn phòng giao
dịch: 184–186–188 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh.
- Văn phòng giao dịch: 184–186–188 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Tp Hồ
Chí Minh.
- Điện thoại: (08) 9300 358 Fax: (08) 9305 206
- Web site: www.vinamilk.com.vn - Email:
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần sữa Vinamilk.
Vinamilk là tên gọi tắt của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vietnam Dairy

13


Products Joint Stock Company) một công ty sản xuất, kinh doanh sữa và các sản
phẩm từ sữa cũng như thiết bị máy móc liên quan tại Việt Nam. Theo thống kê của
chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc, đây là công ty lớn thứ 15 tại Việt Nam vào
năm 2007.

Mã giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là
VNM. Công ty là doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa, hiện
chiếm lĩnh 75% thị phần sữa tại Việt Nam. Ngoài việc phân phối mạnh trong nước
với mạng lưới 183 nhà phân phối và gần 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64 tỉnh
thành, sản phẩm Vinamilk còn được xuất khẩu sang nhiều nước Mỹ, Pháp, Canada,
Ba Lan, Đức, khu vực Trung Đông, Đông Nam Á... Sau hơn 30 năm ra mắt người
tiêu dùng, đến nay Vinamilk đã xây dựng được 8 nhà máy, 1 xí nghiệp và đang xây
dựng thêm 3 nhà máy mới, với sự đa dạng về sản phẩm, Vinamilk hiện có trên 200
mặt hàng sữa tiệt trùng, thanh trùng và các sản phẩm được làm từ sữa.
Thời kỳ Cổ Phần Hóa (2003-Nay)
2003: Công ty chuyển thành Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Tháng 11). Mã
giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán là VNM.
2004: Mua thâu tóm Công ty Cổ phần sữa Sài Gòn. Tăng vốn điều lệ của
Công ty lên 1,590 tỷ đồng.
2005: Mua số cổ phần còn lại của đối tác liên doanh trong Công ty Liên
doanh Sữa Bình Định (sau đó được gọi là Nhà máy Sữa Bình Định) và khánh thành
Nhà máy Sữa Nghệ An vào ngày 30 tháng 06 năm 2005, có địa chỉ đặt tại Khu
Công Nghiệp Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An. Liên doanh với SABmiller Asia B.V để thành
lập Công ty TNHH Liên Doanh SABMiller Việt Nam vào tháng 8 năm 2005. Sản
phẩm đầu tiên của liên doanh mang thương hiệu Zorok được tung ra thị trường vào
đầu giữa năm 2007.
2006: Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh vào ngày 19 tháng 01 năm 2006, khi đó vốn của Tổng Công ty Đầu tư và
Kinh doanh Vốn Nhà nước có tỷ lệ nắm giữ là 50.01% vốn điều lệ của Công ty.
2007: Mua cổ phần chi phối 55% của Công ty sữa Lam Sơn vào tháng 9 năm
2007, có trụ sở tại Khu công nghiệp Lễ Môn, Tỉnh Thanh Hóa.

14



2009: Phát triển được 135.000 đại lý phân phối, 9 nhà máy và nhiều trang
trại nuôi bò sữa tại Nghệ An, Tuyên Quang.
2010 - 2012: Xây dựng nhà máy sữa nước và sữa bột tại Bình Dương với
tổng vốn đầu tư là 220 triệu USD. 2011: Đưa vào hoạt động nhà máy sữa Đà Nẵng
với vốn đầu tư 30 triệu USD.
1.3.Tình hình kinh doanh của công ty cổ phần Vinamilk trong những
năm qua
Năm 2008 Vinamilk (VNM) đã thể hiện nội lực thông qua kết quả kinh
doanh khá tốt. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2008, VNM đạt 7.076 tỉ đồng doanh thu
và 1.129 tỉ đồng lợi nhuận ròng, hoàn thành 86,3% và 99% kế hoạch năm. Xét về cổ
phiếu, với giá trị giao dịch bình quân đạt 706.000 USD/ ngày (hơn 12 tỉ đồng/ngày),
VNM chiếm gần 5% tổng giá trị giao dịch trên sàn TP.HCM và là một trong những
cổ phiếu niêm yết có tính thanh khoản cao nhất. Nền kinh tế vẫn còn khó khăn, mức
chi tiêu cho các mặt hàng tiêu dùng tại Việt Nam sẽ sụt giảm trong vòng 12 tháng
tới.
Ngoài ra, theo đánh giá của một công ty chứng khoán lớn tại TP.HCM, việc
nhà đầu tư nước ngoài bán cổ phiếu VNM gần đây càng mở ra một cơ hội hấp dẫn
để mua vào cổ phiếu này. Việc bán ra này chỉ là động thái phản ứng trước các sự
kiện kinh tế ở nước ngoài, còn khả năng tăng trưởng và những nhận định tốt về cổ
phiếu VNM vẫn không hề thay đổi. Phần lớn các công ty chứng khoán được chúng
tôi khảo sát đều cho rằng, trong năm 2009, VNM sẽ phát huy 3 thế mạnh:
+ Trước hết, cổ phiếu VNM có mức tăng trưởng cao, ổn định và giá hấp dẫn.
+ Thứ hai, về khả năng tài chính, VNM là công ty có dòng tiền ổn định và
khả năng tài trợ vốn tốt.
+ Thứ ba, tiềm năng tăng trưởng của VNM còn dựa vào một số yếu tố quan
trọng là thị phần, giá trị vốn hoá và mạng lưới phân phối.
Những thuận lợi trên là cơ sở để có thể đưa ra các số liệu lạc quan về sự tăng
trưởng của VNM trong thời gian tới. Dự ước tỉ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu
của VNM tăng từ 27% trong năm 2007 lên 33% trong năm 2008 và 2009. Các động
lực chính giúp làm tăng tỉ suất lợi nhuận gồm giá vốn giảm, giá bán tăng, hiệu quả


15


kinh doanh tăng nhờ quy mô sản xuất (giá đơn vị sản phẩm thấp hơn) và tái cơ cấu
sản phẩm. Tỉ suất lợi nhuận từ hoạt động được dự đoán cũng sẽ tăng đáng kể, từ 9%
năm 2006 lên 19% năm 2009, chủ yếu là dựa vào tỉ suất lợi nhuận gộp tăng và tỉ
trọng chi phí bán hàng trong doanh thu giảm (chỉ đạt 11% trong 6 tháng đầu năm
2008). Đến năm 2010, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực của công ty
và sự tin tưởng của người tiêu dùng, công ty đã đạt được kết quả cao nhất từ trước
đến nay.
1.4.Tầm nhìn, sứ mệnh và triết lý kinh doanh của công ty
Tầm nhìn: “Trở thành biểu tượng niềm tin hàng đầu Việt Nam về sản phẩm
dinh dưỡng và sức khỏe phục vụ cuộc sống con người“
Sứ mệnh: “Vinamilk cam kết mang đến cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng và
chất lượng cao cấp hàng đầu bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách nhiệm cao
của mình với cuộc sống con người và xã hội”
Triết lý kinh doanh: Vinamilk mong muốn trở thành sản phẩm được yêu
thích ở mọi khu vực, lãnh thổ. Vì thế chúng tôi tâm niệm rằng chất lượng và sáng
tạo là người bạn đồng hành của Vinamilk. Vinamilk xem khách hàng là trung tâm và
cam kết đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
1.5.Điểm mạnh, điểm yếu về hoạt động kinh doanh:
Điểm mạnh:
Danh mục sản phẩm đa dạng và mạnh, mạng lưới phân phối và bán hàng
rộng khắp.
Vinamilk tiêu thụ hơn một nửa sản lượng sữa tươi nguyên liệu sản xuất trong
nước.Điều này khiến cho Vinamilk có sức mạnh chi phối về giá sữa tươi nguyên
liệu trên thị trường.
Quan hệ bền vững với các nhà cung cấp, đảm bảo nguồn sữa đáng tin cậy.
Kinh nghiệm quản lý tốt được chứng minh bởi kết quả hoạt động kinh doanh bền

vững và thiết bị, công nghệ sản xuất đạt chuẩn quốc tế.
Với bề dày lịch sử có mặt trên thị trường Việt Nam, Vinamilk có khả năng
xác định, am hiểu xu hướng và thị hiếu tiêu dùng, điều này giúp công ty tập trung
những nỗ lực phát triển để xác định đặc tính sản phẩm do người tiêu dùng đánh giá.

16


Chẳng hạn, sự am hiểu sâu sắc và nỗ lực của mình đã giúp dòng sản phẩm Vinamilk
Kid trở thành một trong những sản phẩm sữa bán chạy nhất dành cho khúc thị
trường trẻ em từ 6 đến 12 tuổi tại Việt Nam trong năm 2007.
Chủ động về nguyên liệu cũng như học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi bò
sữa tiên tiến: công ty đã và đang có những dự án trực tiếp chăn nuôi bò sữa, ngoài
ra còn hỗ trợ nông dân nuôi bò sữa. Bên cạnh đó, công ty cũng đã có dự án nuôi bò
sữa ở New Zealand (quốc gia xuất khẩu sữa nguyên liệu và sữa thành phẩm nhiều
nhất vào thị trường Việt Nam).
Vinamilk cũng đầu tư mạnh vào hình ảnh và uy tín của công ty thông qua
các chương trình học bổng, hoạt động giúp đỡ người nghèo, cứu trợ bão lũ, nuôi
dưỡng bà mẹ Việt Nam Anh Hùng… Các hoạt động này đã nâng cao hình ảnh của
công ty đối với người tiêu dùng, từ đó tạo tính ổn định và tăng trưởng trong doanh
thu.
Điểm yếu:
Điểm mạnh của Vinamilk là có những thương hiệu mạnh, những sản phẩm
tốt với chất lượng rất cao nhưng năng lực marketing thì lại yếu, không tương xứng
với sức mạnh to lớn của hệ thống sản phẩm và lực lượng sản xuất rất hùng hậu.
Marketing chưa xây dựng được một chiến lược truyền thông và những thông
điệp hiệu quả để quảng bá đến người tiêu dùng về những điểm mạnh và ưu thế của
các thương hiệu và sản phẩm của Vinamilk.
Nói về sản phẩm sữa tươi thì tỷ trọng sữa tươi của các sản phẩm Vinamilk rất
cao, ít nhất từ 70% đến 99% sữa tươi so với các đối thủ chỉ có khoảng 10% sữa tươi

nhưng Vinamilk lại chưa hề có một thông điệp nào mạnh mẽ để khẳng định ưu thế
đó đến người tiêu dùng.
Chủ động trong nguồn nguyên liệu, giá thu mua sữa cao hơn, hệ thống xe
đông lạnh vận chuyển tốt, dây chuyền chế biến hiện đại là một lợi thế vượt trội của
Vinamilk nhưng tất cả thế mạnh hơn hẳn này lại không được chuyển tải đến người
tiêu dùng. Hoạt động Marketing của công ty chủ yếu tập trung ở miền Nam, trong
khi Miền Bắc lại chưa được công ty đầu tư mạnh cho các hoạt động Marketing, điều
này có thể dẫn đến việc công Vinamilk mất dần thị trường vào tay các đối thủ cạnh

17


tranh của mình như Dutch Lady, Abbott…30% doanh thu của công ty là từ xuất
khẩu, thị trường chính là Iraq, Campuchia và một số nước khác. Tình hình bất ổn ở
Iraq có thể khiến doanh thu từ hàng xuất khẩu sang thị trường này suy giảm.
2.Thực trạng sử dụng các phương pháp đo lường trong công tác kiểm
tra của nhà quản trị ở công ty cổ phần Vinamilk
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, công tác kiểm tra
của nhà quản trị
Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả quản lý của bất cứ công ty, doanh nghiệp
nào cũng bị tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Với công
ty cổ phần Vinamilk, những ảnh hưởng đó cũng được thể hiện rất rõ ở hai mặt: Môi
trường vĩ mô và môi trường vi mô.
Thứ nhất, xét về môi trường vì mô. Việt Nam có môi trường chính trị ổn
định, nhà nước chú trọng đến công bằng xã hội, trong sản xuất – kinh doanh giữa
các Doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các Doanh nghiệp có thể yên
tâm sản xuất.
Thuế đánh vào sản phẩm sữa nhập khẩu cao làm tăng giá sữa nhập khẩu tạo
điều kiện cho sản xuất sữa trong nước phát triển.Việc hội nhập kinh tế khu vực và
toàn cầu hóa tạo điều kiệncho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến sữa tiếp cận

với công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Chủ trương của nhà nước ta là mong muốn cho người dân có quyền được
hưởng những quyền lợi tự nhiên đó. Dù đất nước ta không phải là một lợi thế cạnh
tranh tốt cho sản xuất và chế biến các sản phẩm sữa với khối lượng lớn. Những
những ưu tiên của đảng và nhà nước vẫn dành cho lĩnh vực này thông qua việc
thành lập các ban ngành hệ thống, ban hành các chính sách văn bản hướng dẫn chỉ
đạo để hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp.
Đối với Vianmilk nói riêng, Nhà nước có những biện pháp hỗ doanh nghiệp
trong việc đảm bào nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào, có sở hạ tầng, các chuyên
gia, tín dụng, hỗ trợ thị trường, quảng bá hình ảnh thương hiệu Vinamilk….
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế, mức thu nhập của người dân tăng
lên, đời sống được cải thiện làm người tiêu dùngquan tâm nhiều hơn đến chất lượng

18


và vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là việc sử dụng các sản phẩm sữa.
Nhờ việc mức sống của người dân tăng cao, chi tiêu cho tiêudùng các sản
phẩm sữa trong các hộ gia đình cũng ngày càngtăng tạo điều kiện cho ngành sữa
Việt Nam phát triển. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát tăng
caobuộc người dân phải cắt giảm chi tiêu, đặc biệt là ở các vùng nôngthôn, cắt giảm
tiêu dùng sữa là việc làm có thể diễn ra trước,chính điều này là nguyên nhân gây
khó khăn cho ngành sữa.
Cho đến nay, công ty Cổ phần Sữa Vinamilk vẫn đang là doanh nghiệp hàng
đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa của Việt Nam. Ban lãnh đạo Vinamilk luôn
coi trọng yếu tố khoa học và công nghệ, tuỳ thuộc vào nguồn vốn, nhu cầu của thị
trường, cơ cấu sản phẩm để đầu tư chuyển đổi công nghệ kịp thời. Vinamilk đã triển
khai 3 đợt đánh giá trình độ công nghệ của sản xuất.
Việc tổ chức đánh giá trình độ công nghệ nhằm mục tiêu nhận biết xuất phát
điểm của từng thời kỳ, mà ở đó, có thể so sánh trình độ công nghệ của Công ty so

với trình độ công nghệ của thế giới. Sau mỗi đợt đánh giá trình độ công nghệ,
Vinamilk lại điều chỉnh hoạt động đầu tư chuyển đổi công nghệ. Hiện nay, có thể
khẳng định được rằng, lĩnh vực chế biến sữa Việt Nam nói chung và của Vinamilk
nói riêng đã đạt tới trình độ tiên tiến, hiện đại của thế giới cả về công nghệ lẫn trang
thiết bị.
Khi gia nhập WTO thì một trong những cam kết của Việt Nam là mở cửa thị
trường trong nước cho các công ty nước ngoài nhảy vào. Tuy nhiên, như chúng ta
nhận thấy, từ xưa đến nay các ngành kinh doanh trong nước đều được chính sách
bảo hộ của Nhà nước, do đó sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn rất kém trên
rất nhiều khâu: chất lượng, giá cả, chủng loại sản phẩm, quy mô phân phối, dịch vụ
tư vấn hỗ trợ khách hàng, nguồn vốn.... gây khó khăn rất lớn cho các công ty của
chúng ta. Xét riêng, so với nhiều công ty khác trong toàn ngành, Vinamilk là một
thương hiệu nổi tiếng với chủng loại đa dạng hơn hẳn, mạng lưới tiêu thụ rộng khắp
cả nước cùng với hơn 30 năm kinh nghiệm là lợi thế đi đầu trước các mối đe doạ
xâm nhập của các đối thủ nước ngoài. Nhưng cũng không thể chủ quan, vì các sản
phẩm của công ty Vinamilk có sự hàm lượng nhập khẩu quá nhiều các nguyên liệu

19


đầu vào xuất sứ từ nước ngoài. Và khi giá nguyên nhiên vật liệu này tăng thì ảnh
hưởng vô cùng lớn đến hoạt động sản xuất của công ty này.
Thứ hai về môi trường vi mô. Thị trường sữa ở Việt Nam hiện nay rất đa
dạng về chủng loại sản phẩm và chất lượng hàng hóa. Với dân số hơn 90 triệu dân
và mức tiêu thụ sữa trên đầu người còn khá thấp, Việt Nam là một thị trường tiêu
thụ khá hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chia sẻ, cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sữa Việt Nam đang là mối quan tâm hàng đầu của các
công ty chế biến sữa. Trong những năm vừa qua, tiêu thụ sữa ở Việt Nam tăng
mạnh.
Một số yếu tố vi mô của môi trường tác động đến Công ty sữa Vinamilk

trong hoạt động kinh doanh và hoạt động quản trị như: Sự cạnh tranh nội bộ ngành;
áp lực từ nhà cung cấp; áp lực từ người mua; áp lực từ sản phẩm thay thếvà áp lực
từ những đối thủ mới.
Đó là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh từ
đó nó cũng mang những ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động điều hành, quản lý, trong
đó có kiểm tra của nhà quản trị.
2.2 Thực trạng sử dụng các phương pháp đo lường trong công tác kiểm
tra của nhà quản trị tại công ty cổ phần Vinamilk
Cũng như các doanh nghiệp khác, Công ty cổ phần Vinamilk nhờ có chiến
lược kinh doanh hợp lý cũng như phương pháp quản trị đúng đắn đã đem lại được
thành công và tạo được niềm tin đối với quý khách hàng trong cả nước. Công tác
kiểm tra trong hoạt động quản lý cũng được diễn ra một cách nghiêm túc, chính
hiệu quả kinh tế đã chứng minh điều đó.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, nhà quản trị tại công ty cổ
phần Vinamilk đã vận dụng một cách đúng đắn, linh hoạt các phương pháp đo
lường để phục vụ cho công tác kiểm tra được khách quan và chính xác.
Đối với việc chấm công ngày làm việc, giờ làm việc hay làm thêm giờ cho
công nhân, ban quản lý chia thành các bộ phận cụ thể, theo dõi một cách chặt chẽ,
có hệ thống để đảm bảo công việc được diễn ra theo đúng quy trình và cũng là cách
đảm bảo cho quyền lợi của người lao động tại công ty.

20


Ngày nay, hệ thống phần mềm chấm công đã trở lên hiện đại hơn và được
nhiều công ty, doanh nghiệp áp dụng đê rđảm bảo tính chính xác. Công ty Cổ phần
Vinamilk cũng vậy, đã đầu tư hệ thống chấm công bằng quét vân tay tự động để
chấm công, điều này mang lại những hiệu quả vô cùng to lớn.
Công ty đã xây dựng các văn bản, quyết định để quy định rõ về cách thức,
cũng như hướng dẫn thực hiện chi tiết để cho nhân viên, công nhân dễ dàng thực

hiện. Việc đầu tư hệ thống chấm công hiện đại đó vừa mang lại hiệu quả cho công
tác kiểm tra quản lý, vừa đem lại hiệu quả, tiết kiệm thời gian cho chính những
người tahm gia lao động.
Không chỉ quy định rõ ràng việc chấm công, quy định chấm công, ban giám
đốc công ty Vinamilk cũng có những quy định về các trường hợp nghỉ phép, nghỉ
ốm,.. đảm abor quyền lợi cho người lao động. Việc này được sự nhát trí và ủng hộ
của 100% nhân viên trong toàn bộ các công ty, chi nhánh, đại lý trực thuộc công ty
cổ phần vinamlik. Nhờ có việc chấm công tự động và theo dõi tính hình làm việc sát
sao đó, ban lãnh đạo công ty có thể nắm bắt được toàn bộ diễn biến công việc, theo
dõi được quá trình cùng với đó so sánh kết quả đjat được để đưa ra những điều
chỉnh hợp lý và mang tính kịp thời, tránh lãng phí tiền của, tời gian và công sức.
Như vậy, có thể thấy, phương pháp kiểm tra bằng đơn vị vật chất này rất hữu
ích, có vai trò to lớn trong việc giúp nhà quản trị có thể kiểm tra được tình hình, kỷ
luật tong công ty, giúp cho hoạt động ra quyết định được kịp thời, đúng đắn cũng
như việc thực hiện, lao động ở công ty Vinamilk được diễn ra một cách nghiêm túc
và hiệu quả.
Tiếp theo là phương pháp đo lường bằng đơn vị tiền tệ như chi phí, doanh
thu và lợi nhuật. Do đặc thù có nhiều các công ty, doanh nghiệp trục thuộc tổng
công ty, cũng như mạng lưới bán hàng ở khắp cả nước, nên việc đo lường bằng chi
phí, doanh thu và lợi nhuận lại càng trở lên quan trọng hơn bao giờ hết.
Việc xác định các chi phí sản xuất là rất quan trọng do đặc thù của các đơn vị
trực thuộc công ty Vinamilk. Chi phí sẽ được xác định trong từng lĩnh vực như dây
chuyền sản xuất, giá mua nguyên liệu, tiền công trả cho người lao động, thiết bị làm
việc, chi phí đầu tư cho đơn vị bán hàng đại diện,.. Ở từng vùng, tùng thời kỳ, từng

21


lĩnh vực sẽ có cách tính toán và số liệu khác nhau sau đó được tổng hợp thành một
số liệu nhất định để ban giám đốc công ty cổ phần Vinamilk kiểm tra để đưa ra các

chiến lược kinh doanh, quyết định quản lý đúng đắn, kịp thời.
Sauk hi xá định được chi phí, nhà quản trị, ban giám đốc sẽ yêu cầu các bộ
phận có chức năng phải tổng hợp lại doanh thu của công ty. Công ty Vinamilk kiểm
soát doanh thu của mình bằng cách kiểm soát kết quả của bán hàng. Để kiểm soát
mức độ bán hàng của doanh nghiệp, thường ta cần phân tích ba mức độ khác nhau:
về con người, về sản phẩm, về thị trường, qua đó đánh giá thành tích của các cá
nhân trong cơ cấu tổ chức có trách nhiệm trong doanh nghiệp. Có ba trường hợp sau
về kiểm tra kết quả bán hàng:
-Một giám đốc vùng sẽ kiểm tra hoạt động các đại diện của họ về giá và khối
lượng bán ra.
-Một giám đốc kinh doanh sẽ phải kiểm tra hoạt động của các vùng khác
nhau. Sự thay đổi về khối lượng và giá bán theo sản phẩm cũng là kiểm tra về thành
tích của giám đốc vùng.
-Tổng giám đốccông ty Vinamilk sẽ kiểm tra tổng doanh thu cũng như sự
thay đổi doanh thu từng sản phẩm. Việc kiểm tra này cũng nhằm xem xét lãi gộp
của từng sản phẩm, qua đó ra quyết định duy trì hoặc tiếp tục sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm, do công ty luôn tìm cách thay đổi mẫu mã sản phẩm, loại sản phẩm
bán ra thị trường.
Kiểm soát kết quả đại diện bán hàng, nội dung kiểm soát này nhằm mục đích
xem xét kết quả của từng người bán cũng như chênh lệch giữa thực tế đạt được so
với dự toán đã được duyệt. Công việc này giúp các giám đốc vùng đánh giá hiệu
quả của từng người bán, đồng thời phân tích được các nguyên nhân, xác định được
các biện pháp điều chỉnh, giúp công ty Vinamilk có những chiến lược hợp lý.
Kiểm soát kết quả doanh thu theo vùng, Giám đốc kinh doanh của công ty
Vinamilk sẽ kiểm tra hiệu quả các giám đốc vùng đối với việc tiêu thụ sản phẩm của
đơn vị. Để thực hiện mục tiêu này thì việc kiểm tra chênh lệch giữa doanh thu thực
tế và doanh thu dự toán ít có ý nghĩa. Do vậy, khi nghiên cứu doanh thu theo vùng
cần thiết phải tách biệt các khoản chênh lệch giữa doanh thu thực hiện và doanh thu

22



dự toán thành ảnh hưởng của 2 nhân tố:
- Ảnh hưởng của sự thay đổi khối lượng tiêu thụ;
- Ảnh hưởng của sự khác nhau của giá bán sản phẩm.
Kiểm soát doanh thu chung là điểm quan trọng nhất, mọi thời điểm tổng
giám đốc phải biết được kết quả và hiệu quả của mạng lưới kinh doanh thông qua
việc đánh giá kết quả của từng cá nhân, bộ phận. Hiệu quả này gắn chặt với sản
phẩm kinh doanh của đơn vị, một sản phẩm tồi hoặc không phù hợp với nhu cầu
của thị trường sẽ không cho phép mạng lưới kinh doanh của đơn vị đạt được hiệu
quả cao.
Sauk hi xác định được chi phí và doanh thu, nhà quản trị công ty Vinamilk sẽ
yêu cầu các bộ phận có chức năng hạch toán tính toán lãi suất thu về để đưa ra các
quyết định tiếp tục mở rộng hoạt động hay không.
Có thể thấy, việc sử dụng phương pháp đo lường này là một công cụ hữu
hiệu cho công tác kiểm tra của nhà quản lý, giúp việc ra quyết định trở nên dễ dàng
cũng như chính xác hơn.
Cuối cùng, xây dựng thương hiệu, tạo được lòng tin của khách hàng, đối tác
làm ăn cũng luôn được các nhà quản trị, giám đốc các công ty lớn hay nhỏ quan tâm
đến. Trước tiên để tạo được niềm tin, các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư vào
khâu sản xuất và tập trung vào chất lượng sản phẩm. Ở công ty cổ phần Vinamilk,
các nhà quản trị giao cho bộ phận marketing chịu trách nhiệm khâu quảng cáo,
quảng bá thương hiệu của mình đến rộng rãi người tiêu dùng.
Kết quả của sự chỉ đạo và nỗ lực của từng bộ phận công ty đã chứng minh,
Vinamilk đã là một thuong hiệu quen thuộc trong thị trường sữa Việt Nam, nhận
được sự tin cậy và ủng hộ mạnh mẽ của khách hàng. Hoạt động này là một trong
những hương pháp đo lường mềm, nhưng nó lại có vị trí quan trọng, phục vụ đắc
lực, hỗ trợ cho nhà quản trị làm tốt công tác kiểm tra của mình.
3.Đánh giá các phương pháp đo lường dùng cho công tác kiểm tra của
nhà quản trị.

Có thể thấy rõ ràng rằng, việc áp dụng một cách hợp lý các phương pháp đo
lường trong công tác kiểm tra là một cách để nâng cao hiệu quả quản lý, giúp nhà

23


×