Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Thuyết trình kinh tế vĩ mô Khủng hoảng tài chính Mỹ 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.27 KB, 8 trang )

Sinh viên: Trần Thị Linh

Lớp:K54-Khối 1- KTQT

MSV:1510074

Đề tài 1: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH HOA KÌ 2008
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2008 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính
(tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007 cho đến tận nay. Đặc biệt là năm 2008.Cuộc
khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn
gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010
Phần 1: Nguyên nhân
1.1 Chứng khoán hóa
a/ Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh
trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.
- Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm
bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại
tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính.
- Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa, vì sự
xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn
thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc
biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã
tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý.
- Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ
năng lực giám sát các rủi ro này.
1.2 Những rủi ro mang tính hệ thống ( Bong bóng nhà ở)
- Khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra,thì những rủi ro này sẽ làm mất
lòng tin ghê gớm của các bên liên quan.
- Việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra
toàn hệ thống ngân hàng.
- Việc mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình


thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
- Thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất
lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo;
- Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào
tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO , một số tổ chức tài
chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ.
- Khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV
cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả
những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ.


Bong bóng thị trường nhà ở

Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh).

Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở.
- Bong bóng nhà ở vỡ làm nhiều người vay tiền ngân hàng đầu tư nhà không trả được nợ
dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Nhưng giá nhà xuống khiến cho tài sản tịch biên
không bù đắp nổi khoản ngân hàng cho vay, khiến các ngân hàng rơi vào khó khăn.
- Sau khi bong bóng Dot-com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện
11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền
kinh tế nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng.
Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên
ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1,75%.Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất
theo. Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng
làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức
tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm[8], kể cả cho những người nhập cư bất hợp
pháp vay[9]. Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong
bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và



12% mua hỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và
vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm
3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị lũy tích các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600
tỷ dollar.
- Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức
tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm
nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của
collateralized debt obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS viết tắt của mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá
nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng
tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ
cấp nổ ra.

Phần 2: Diễn biến của khủng hoảng

Tình hình phá sản 2007-2008
Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial
Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất
giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã
lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó
khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị
chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng đòi rút tiền gửi của mình ra.
Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức
độ thanh khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các
loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ đảm bảo theo
tín dụng nhà ở
Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo
kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mô
của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên



bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng
không có hiệu quả như mong đợi.
Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng
không nổi. Công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa
là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra.
Việc này đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính
gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stern đã đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và lâu đời nhất
của Mỹ, bị phá sản.
Tháng 9 năm 2008, Thượng viện Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ổn định Kinh tế Khẩn cấp
2008 cho phép bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ chi tới 700 tỷ USD cứu nền tài chính của nước này bằng
cách mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, đặc biệt là các chứng khoán đảm bảo bằng bất động
sản.

Phần 3: Tác động
3.1 Đối với Hoa Kỳ

Chỉ số bình quân công nghiệp Dow-Jones giảm liên tục từ cuối quý III năm 2007.
- Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy
thoái từ tháng 12 năm 2007.
- Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao
động Hoa Kỳ bị mất việc làm.
- Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị
phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng.
- Doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu
vào.
- Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và tiêu dùng của các hộ gia
đình làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa.

- Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá sản.
- Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên
tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.


- Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện thanh
toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng
cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất
khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.
3.2 Đối với thế giới

Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi kinh tế thế giới xấu
đi.
- Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái,
xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất
khẩu ở Đông Á
- Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm trọng cả về
tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành khủng
hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là
Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng.
Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành
lập.
- Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên cũng bị
ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm
mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
- Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất
và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm.
- Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm
trọngXem thêm: Khủng hoảng tài chính 2007-2010.


Phần 4: Giải pháp
4.1 Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kì


Cục Dự trữ Liên bang

Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007.
Sự thay đổi trong bảng cân đối tài sản của Fed phản ánh sự hoạt động của cơ quan này nhằm đối
phó với khủng hoảng.
- Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ
lãi suất và tăng mua MBS.
- Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Fed đã
tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài
chính.
- Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ
mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm
2008, Fed tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
- Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì chương
trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84
ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Tính đến tháng 11
năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo chương trình này. FED còn
tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6
nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.
4.2 Chính phủ


Tổng thống George W. Bush trong một buổi làm việc tại Nhà Trắng với một số thành viên của Quốc
hội. Hai ứng viên Tổng thống John McCain và Barack Obamacũng có mặt.
Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký Economic Stimulus Act of
2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu

dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân.
Trước tình hình khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, chính quyền Bush đã trình quốc hội
thông qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Sau khi kế hoạch sử dụng 700 tỷ dollar được điều chỉnh sang
hướng chi cho cả các chương trình phục vụ đông đảo người dân nhằm kích thích tiêu dùng, qua đó
vực dậy nền kinh tế, nó đã được Thượng viện thông qua.
Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký Emergency Economic Stabilization
Act of 2008 cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ dollar này.
4.4 Kế hoạch của Barack Obama

Barack Obama - khi đó hãy còn là ứng viên Tổng thống Hoa Kỳ - phát biểu trước Thượng viện về
cuộc khủng hoảng 2007.
Barack Obama, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, sau khi trúng cử đã nêu ra một chương
trình kích thích kinh tế trong đó Hoa Kỳ sẽ tiến hành kích cầu bằng:
- Những dự án phát triển cơ sở hạ tầng chưa từng có kể từ thập niên 1950;
- Nâng cấp hệ thống sử dụng năng lượng của các văn phòng cơ quan chính phủ Hoa Kỳ
theo hướng tiết kiệm năng lượng; Đầu tư lớn cho phát triển công nghệ nhất là thông tin
y tế điện tử, hệ thống máy tính cho các trường phổ thông và phát triển mạng Internet
băng thông rộng;
- Cấp thêm ngân sách cho Chương trình bảo hiểm y tế (Medicaid).
- Cấp thêm 50 tỷ dollar ngoài khoản 20 tỷ dollar đã được đồng ý cho ngành công nghiệp
ô tô với điều kiện là ngành này phải cải tổ đáng kể.

Obama ký American Recovery and
Chương trình nghị sự
Phó Tổng thống mới có nội dung:

Reinvestment Act
phục hồi kinh tế của Tổng thống và

- Hành động khẩn cấp để tạo việc làm cho người Mỹ;



- Trợ giúp khẩn cấp cho các hộ gia đình gặp khó khăn;
- Trợ giúp trực tiếp và khẩn cấp cho người sở hữu nhà, thay vì cứu trợ các tổ chức tài
chính cho vay nhà ở thế chấp vô trách nhiệm;
- Phản ứng nhanh, mạnh với khủng hoảng tài chính bằng tất cả các công cụ mà nước Mỹ
có.
Ngày 17 tháng 2 năm 2009, Barack Obama đã ký American Recovery and Reinvestment
Act. Đạo luật này cho phép Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ hai kể từ khi khủng hoảng nổ ra.
Gói kích thích này trị giá 787 tỷ dollar.



×