Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMGIÚP HỌC SINH YẾU HỌC TỐT LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.69 KB, 13 trang )



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÚP HỌC SINH YẾU HỌC TỐT LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ở cấp tiểu học phân môn luyện từ và câu có nhiệm vụ làm phong phú vốn
từ và tích cực hóa vốn từ cho học sinh: cung cấp một lượng từ ngữ nhất định
theo quy định của chương trình, giúp học sinh hiểu được nghĩa của từ trong hệ
thống, hiểu đúng nghĩa và cái hay của nghĩa từ trong hoạt động thực hiện
chức năng giao tiếp của mình. Luyện từ và Câu còn giúp cho các em chiếm
lĩnh ngôn ngữ trong giao tiếp, học tập, hoạt động tạo ra hứng thú và động cơ
học học tập. Khi chúng ta nói, một người nào đó nắm được ngôn ngữ là chúng
ta khẳng định người đó có một số lượng từ nhất định và biết sử dụng vốn từ
đúng với quy tắc ngữ pháp, với nghi thức lời nói trong hoạt động giao tiếp của
mình. Hơn thế nữa, nhờ có vốn từ dồi dào, cũng giúp cho các em trở nên tư
duy chính xác và chặt chẽ hơn. Không có vốn từ các em sẽ không có đủ điều
kiện thể hiện một cách sinh động ý nghĩ của mình. Vì lẽ đó, ở trường tiểu học
giáo viên có nhiệm vụ dạy cho học sinh một cách có hệ thống các phương
pháp để hình thành và phát triển năng lực dùng từ cho học sinh. Phân môn
này còn giúp học sinh tích cực hóa vốn từ, đưa các từ vào tạo câu, tạo lời nói
trong học tập vui chơi, sinh hoạt thường ngày.
Ngoài ra, Luyện từ và câu ở tiểu học còn giúp học sinh trang bị một số hiểu
biết về ngữ pháp như: giúp nắm được một số khái niệm ngữ pháp, biết dùng
một số câu, kiểu câu. Mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học là
nhằm đào tạo, cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản để khi các em
học xong Tiểu hoc thì các em sẽ có một trình độ dùng từ, dùng câu chính xác;
nói được, viết được những gì muốn nói, muốn viết, thể hiện theo đúng ngữ
pháp tiếng Việt. Đó cũng chính là đào tạo ra con người biết giao tiếp trong đời
sống. Phân môn Luyện từ và câu còn giáo dục cho
người học những tư tưởng tốt đẹp: yêu tiếng nói và yêu chữ viết của dân tộc.
Nói – Viết Tiếng Việt chính xác.


II. NỘI DUNG
1. Thực trạng của việc dạy học luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.


1.1. Thực trạng của việc dạy học phân môn luyện từ và câu nói chung.
Phân môn Luyện từ và câu có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học
sinh Tiểu học. Do đó, vấn đề dạy học phân môn Luyện từ và câu hiện nay rất
được chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất
lượng dùng từ, dùng câu của các em nâng lên. Nhưng nhìn chung chủ yếu chỉ
tập trung đến các lớp đầu cấp; lớp khá giỏi để làm sao các em đọc đúng, đọc
trôi chảy là được. Còn ở các lớp yếu, giáo viên chỉ tập trung nhận xét cách đọc
đúng, đọc trơn chứ chưa có biện pháp cụ thể để dành cho việc luyện cách
dùng từ, dùng câu sao cho các em đọc mà phải hiểu nghĩa của câu mình đọc,
nói /viết thì phải hiểu nghĩa của câu mình nói/viết. Hiện nay vẫn còn tồn tại
một số giáo viên kỹ năng dùng từ, dùng câu chưa thực sự tốt, chưa chú ý sửa
sai cho học sinh. Các kỹ năng giao tiếp được hình thành và phát triển bằng
con đường truyền giảng thụ động theo hướng một chiều…
1.2. Thực trạng dạy học phân môn luyện từ và câu ở trường Tiểu học Phong
Thạnh Đông huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu.
Qua thực tế giảng dạy lớp 5. Tôi nhận thấy rằng: Nhìn chung đa số các em
học còn yếu phân môn này, thậm chí vẫn còn một số em chưa biết chấm câu,
đặt câu không đúng…có một vài em đọc chưa thành câu, diễn đạt ý còn lung
tung lộn xộn. Có nhiều em khi đã nghĩ ra ý nhưng lại không biết diễn đạt như
thế nào để thực hiện được ý nghĩ, tình cảm đó trong bài làm. Việc dạy của
giáo viên vẫn bám vào phương pháp dập khuôn máy móc, chưa tìm ra
phương pháp để nâng cao chất lượng giờ học. Giáo viên hầu hết chưa kiểm
soát hết việc dùng từ, dùng câu của học sinh nên chưa kịp thời sửa sai. Đây là
nguyên nhân làm cho học sinh hoạt động không tích cực và nhàm chán khi
học Luyện từ và Câu
Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy học Luyện từ và câu, bên

cạnh những thành công, còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Học sinh của chúng ta
chưa diễn đạt được từ, câu như mong muốn, kết quả qua giao tiếp của các em
chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng sử dụng từ, câu. Các
giờ Luyện từ và câu thì hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, nói đúng một
số câu theo mẫu, số lượng học sinh biết diễn đạt tốt còn rất hạn chế. Giáo viên
tiểu học còn lúng túng khi dạy Luyện từ và câu, đồng thời những phương pháp
cụ thể hướng dẫn rèn cho học sinh Tiểu học cũng rất ít được quan tâm, đề cập
đến trong các lần sinh hoạt chuyên môn. Một số học sinh mới chỉ ở mức độ
đọc đúng, đọc trơn, đọc to, đọc nhanh là được; hay trong giao tiếp chỉ nói cho
xong chuyện là được. Các em chẳng cần quan tâm mình có diễn đạt được tình


cảm bài thơ, bài văn đó hay không, hoặc trong lời nói mình đã dùng từ, câu có
phù hợp hay chưa?
*Qua tìm hiểu tôi rút ra được một số nguyên nhân sau:
- Do cách dùng từ, dùng câu theo phương ngữ, thường phát âm lệch chữ viết,
cụ thể các em thường mắc lỗi sau:
+ Các lỗi về tiếng và từ: Có thể tách câu thành nhiều tiếng. Khi nói, từng
tiếng có thể ngắt ra rõ ràng. Khi viết, mỗi tiếng thành một chữ. Còn khi lưu
tiếng thì có những lúng túng nhất định: Tiếng có lúc không có nghĩa – Tiếng có
thể có nghĩa rõ ràng hoặc không rõ ràng.
Ví dụ: Từ con gà là một tổ hợp. Trong nói năng thực tế , tiếng việt không
thể chấp nhận con x gà (không thể nói con béo gà, con tơ gà…). Nhưng không
phải vì thế mà từ con gà có cấu tạo chặt chẽ để có thể xem xét đó chỉ là một
từ duy nhất. Ta có thể dùng một phép thử khác. Với câu: Chúng ta đã bị mất
năm con gà.
Người ta có thể chuyển thành: Gà, chúng ta đã bị mất năm con. Vậy trong
trường hợp này từ con x gà được chấp nhận, và đây là 2 từ chứ không phải là
một tổ hợp (1 Từ duy nhất).
+ Các lỗi về thanh: Các em còn nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh hỏi. Ví dụ:

suy nghĩ/ suy nghỉ; nghĩ kĩ/ nghỉ kỉ…
3 + Do các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết
nhấn giọng, lên giọng hạ giọng những từ cần thiết.
+ Do khả năng xác định từ loại của các em còn hạn chế.
+ Do các em lười đọc sách không chịu khó rèn luyện, hoặc do ít tiếp xúc với
môi trường ngoài xã hội.


Nên ngay từ đầu năm học, trong phạm vi nghiên cứu, tôi đã thống kê chất
lượng phân môn Luyện từ và câu của học sinh lớp 5 (lớp yếu) do tôi chủ nhiệm
như sau:
Bảng 1: Chất lượng khảo sát phân môn Luyện từ và câu lớp 5:
Lớp Tổng số HS Số em dùng từ, câu chưa đạt yêu cầu- Số em dùng từ,
câu trung bình- Số em dùng từ, câu khá- Số em dùng từ, câu tốt
SL % SL % SL % SL %
5.4 29 20 68.96 6 20.69 3 10.34 0 0
Qua việc điều tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh dùng từ, câu chưa đạt yêu
cầu và số em dùng từ, câu trung bình chiếm hơn 80%. Tỉ lệ học sinh dùng từ,
câu khá – tốt còn thấp. Từ lí do trên tôi quyết định nghiên cứu đề tài “ Giúp
học sinh yếu học tốt luyện từ và câu lớp 5”.
Đây là một việc làm thiết thực mà trong mỗi giáo viên đứng lớp như
chúng ta băn khoăn, suy nghĩ nên dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các
giờ dạy trên lớp nói chung và dạy luyện từ và câu cho học sinh cuối bậc Tiểu
học nói riêng.
2. Các biện pháp giúp học sinh yếu học tốt luyện từ và câu lớp 5.
Để đưa chất lượng dùng từ, câu đúng, phong phú và có sự thay đổi về
vốn từ ở học sinh, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:
2.1. Hướng dẫn học sinh luyện tập một cách linh hoạt, khéo léo:
Như chúng ta đã biết luyện từ và câu chỉ thực hiện được trên cơ sở học
sinh đã biết đọc đúng và dùng từ lưu loát. Đọc đúng là không đọc thừa, không

sót tiếng. dùng từ lưu loát phải thể hiện được hệ thống ngôn ngữ âm chuẩn,
tức là đọc hoặc dùng từ, câu phải đúng chính âm. Bởi vậy việc rèn cho học
sinh luyện đọc đúng là khâu đầu tiên của việc rèn kĩ năng dùng từ, câu và đã
thực hiện từ các lớp 1, 2, 3. Đối với học sinh lớp 5 thì việc luyện tập được rèn
luyện như sau:


a) Luyện tập về từ và câu thông qua việc luyện đọc đúng:
- Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị chia
tạm thời, không phải bao giờ cũng đồng nhất với cách chia đoạn theo bố cục
của văn bản mà giáo viên căn cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để
chia văn bản thành các đoạn), sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá
chênh lệch nhau về số chữ, cách ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho
học sinh đọc theo dõi và đọc nối tiếp.
- Dựa vào số đoạn, giáo viên chỉ định trước số học sinh tham gia đọc nối tiếp ở
mỗi vòng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng
đọc nối tiếp, đây là cách rèn cho các em cách sẵn sàng ứng phó với việc sử
dụng từ ngữ trong giao tiếp.
- Để giúp học sinh yếu tiếp thu bài tốt, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thực
hiện qua 3 vòng như sau:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện những
hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp hướng
dẫn đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để học sinh biết cách
diễn đạt theo một yêu cầu nhất định.
+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp, kết hợp nắm nghĩa của một số từ, nó có tác
dụng góp phần nâng cao kĩ năng diễn đạt từ ngữ của các em. Nếu học có sai
sót, giáo viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục
hướng dẫn hoặc nhắc nhở.
Việc luyện tập như thế sẽ tạo điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia

vào việc nh thành kĩ năng giao tiếp. Qua thực hành mà học sinh được gắn hay
động viên, khích lệ để đạt được vững chắc kĩ năng luyện tập dùng từ đúng ngữ
nghĩa, dùng câu phù hợp.
- Đối với loại hình văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn


cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp học sinh hiểu biết thể hiện tình cảm,
thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh cảm xúc, tính cách nhân
vật trong bài…( Bước đầu biết làm chủ được ngữ điệu và âm sắc, diễn tả đúng
nội dung). Tuy nhiên, học sinh diễn đạt như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm
nhận riêng của từng em, giáo viên không nên áp đặt học sinh một cách theo
khuôn mẫu.
- Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác
định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những
thông tin cơ bản, giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng
hay nổi bật trong văn bản) khắc phục những cách đọc thiên về hình thức diễn
cảm của học sinh Tiểu học.
b) Các hình thức luyện tập:
Để hướng dẫn học sinh luyện tập, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt
động theo các hình thức sau:
- Luyện tập cá nhân qua việc nghe, nói, đọc, viết kết hợp với các môn học
khác như: tập đọc, chính tả, kể chuyện, tập làm văn, hoạt động ngoại khóa…
- Luyện tập qua việc sử dụng vật thật, tranh ảnh; dùng yếu tố từ vựng;
giải thích bằng tập theo nhóm: nhiều học sinh hợp tác luyện tập, tham gia
các trò chơi luyện tập (thi nói câu theo hình thức nối tiếp, đố vui,…).
- Luyện tập thông qua miêu tả lôgic (dùng định nghĩa); đặt từ trong câu,
đặt câu trong bài…
- Luyện tập qua một số từ tượng thanh mô phỏng: tiếng cười nói, tiếng
chim kêu, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy…
2.2. Khai thác vốn từ của học sinh thông qua việc tìm hiểu bài và luyện tập.

- Vận dụng một vài biện pháp tích cực – đặc thù bộ môn thể hiện tính tích
hợp (về nội dung) và tính tích cực (về phương pháp) trong mỗi bài soạn để
giúp học sinh có kiến thức cơ bản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và văn bản từ
đó giúp các em có kĩ năng dùng từ, đặt câu, liên kết câu và sử dụng dấu câu.


- Hoạt động tôi thường dạy trong tiết Luyện từ và Câu là hoạt động thực
hành.
Thực hành dùng từ, đặt câu, dựng đoạn hoặc chữa các lỗi về từ, câu đoạn.
Giáo viên cần khuyến khích học sinh thảo luận, tranh luận và thực hiện hoạt
động học tập theo tất cả các chiều quan hệ: Thầy - trò, trò - thầy, trò - trò
khắc phục tình trạng suốt giờ học chỉ có thầy hỏi trò trả lời đơn điệu và thiếu
dân chủ (Truyền thụ kiến thức một chiều).
- Khi thấy học sinh nói sai và dẫn đến viết sai thì giáo viên phải chỉ cho
học sinh cách diễn đạt, dùng từ, đặt câu để các em không cảm thấy khó khăn,
lúng túng trong khi nói và viết .
- Tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, giáo viên có thể đưa ra nguyên văn câu
hỏi, bài tập trong sách giáo khoa hoặc chia tách câu hỏi thành các ý nhỏ để
học sinh dễ thực hiện hoặc bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh
trả lời câu hỏi, thực hiện yêu cầu của bài tập.
- Bằng nhiều hình thức khác nhau (làm việc cá nhân hoặc theo cặp, theo
nhóm…). Giáo viên tạo điện kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực.
Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách trả lời
câu hỏi, luyện tập, trao đổi ý kiến.
Nghiên cứu đề tài này được tiến hành trên lớp 5.4 ở trường Tiểu học
Phong Thạnh Đông. Được thực hiện biện pháp tích cực khi dạy bài “Từ trái
nghĩa”. Kết quả cho thấy tác động có ảnh hưởng tốt hơn đến chất lượng học
tập của học sinh, đa số học sinh trong lớp đã có khả năng hiểu được từ trái
nghĩa và tác dụng của nó. Biết tìm từ và đặt câu phân biệt những từ trái
nghĩa. Kết quả cho thấy các em tiến bộ rất nhiều, rất ít học sinh có điểm dưới

trung bình.
2.3. Giáo viên hướng dẫn mẫu.
- Mẫu, đòi hỏi giáo viên hướng dẫn phải đúng, rõ ràng, phù hợp với mọi
đối tượng học sinh. Đó là việc thể hiện đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã
gửi gắm qua yêu cầu từng bài tập, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ
của người học đối yêu cầu, với tác phẩm.


- Giáo viên làm mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học
sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách làm bài. Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng,
từ đó có cách làm bài bộc lộ sự sáng tạo riêng của mình.
- Muốn học sinh dùng từ hay, đặt câu đúng, diễn đạt được trọn vẹn ý theo
yêu cầu thì trước hết người giáo viên phải có vốn từ tốt để thâm nhập, lây
truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học sinh trong tiết học. Để học
sinh luyện tập tốt thì người giáo viên luôn coi trọng việc “làm mẫu” để từ đó
cả thầy và trò có ý thức tự điều chỉnh cách dùng từ, đặt câu, phân tích cấu tạo
câu của mình đúng hơn và phải có lòng đam mê khi tìm hiểu về phân môn
này.
2.4. Luyện tập thực hành
- Để giờ học được nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả thiết thực (nhất là đối với
học sinh còn yếu về phân môn này), khi dạy giáo viên cần tập trung vào
những kiến thức cơ bản, cần linh hoạt hơn trong phương pháp nhằm đạt đến
hiệu quả thiết thực. Đối với học sinh lớp 5 các em cần được trang bị những
kiến thức sơ giảng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và văn bản; rèn kĩ năng
dùng từ, đặt câu, liên kết câu và sử dụng dấu câu. Để đạt yêu cầu này giáo
viên cần sử dụng linh hoạt các biện pháp, hình thức tổ chức cho học sinh thực
hành.
- Hướng dẫn học sinh thực hành dùng từ, đặt câu, dựng đoạn hoặc chữa lỗi
câu, đoạn. Giáo viên nên chia nhỏ ý từng từ, từng câu lần lượt cho nhiều học
sinh tích cực tham gia đặt câu, qua đó bộc lộ năng lực của từng cá nhân. Lắng

nghe học sinh đặt câu để cảm nhận ưu điểm hay hạn chế kỹ năng dùng từ, đặt
câu của các em để từ đó có biện pháp động viên hay giúp đỡ kịp thời. Giáo
viên cần khuyến khích cho học sinh thảo luận, tranh luận và thực hiện hoạt
động học tập theo tất cả các chiều quan hệ: Thầy - trò, trò - thầy; trò – trò,
khắc phục tình trạng suốt giờ học chỉ có thầy hỏi, trò trả lời .
- Được đặt câu và nghe bạn đặt câu bằng trực giác học sinh nhận thức được
đơn vị nhỏ nhất của lời nói là câu và câu được diễn đạt trọn ý, từ đó giúp học
sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn và các môn học khác.
*Trong khi giảng dạy phân môn Luyện từ và câu đối với học sinh lớp 5:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu: giúp học sinh nắm yêu
cầu của bài tập. Yêu cầu học sinh đọc thành tiếng, trình bày lại yêu cầu của


bài tập. Giáo viên hướng dẫn giải thích cho rõ yêu cầu, tổ chức cho học sinh
thực hiện làm mẫu mộphần của bài tập để cả lớp nắm được yêu cầu đó.
- Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập: Giáo viên có thể tổ chức cho học
sinh làm việc cá nhân hoặc theo cặp, theo nhóm để thực hiện bài tập. Sau đó
báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức khác nhau. Giáo viên tổ chức cho học
sinh trao đổi, sửa lỗi hoặc góp ý cho nhau, đánh giá trong quá trình làm bài.
Giáo viên sơ kết, tổng kết lại ý kiến của học sinh.
2.5. Xây dựng trò chơi học tập trong giờ luyện từ và câu tạo không khí hào
hứng, say mê học tập cho học sinh.
- Tùy theo loại bài tập mà giáo viên sẽ tổ chức trò chơi phù hợp. Sẽ thu hút
được hầu hết học sinh tham gia tích cực trong việc rèn kĩ năng dùng từ, đặt
câu và sử dụng dấu câu ở các giờ Luyện từ và Câu.
- Nó sẽ rèn cho học sinh cách dùng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu của học
sinh có hiệu quả, qua đó sẽ làm cho khả năng dùng từ - câu trong nói và viết
thành câu của các em được nâng lên.
Ví dụ: Dạy bài Từ trái nghĩa (tiết 1- tuần 4).
* Khi dạy loại bài này, tôi sử dụng trò chơi “đố nhau”. Tôi dùng bài thơ sau

để giúp học sinh thực hiện trò chơi và nhận biết từ trái nghĩa.
+ Cách thực hiện: Các nhóm thảo luận (nhóm 4) tìm cặp từ trái nghĩa
trong từng dòng thơ, sau đó học sinh các nhóm đố nhau (nhóm 1 đọc 1 dòng
thơ, nhóm 2 tìm cặp từ trái nghĩa trong dòng thơ đó. Sau đó nhóm 2 sẽ làm
ngược lại…và cứ tiếp tục cho đến hết).
Dòng sông bên lở bên bồi
Bên lở thì đục bên bồi thì trong
Khôn nhà dại chợ long đong
Việc này hẳn có tay trong tay ngoài


Lươn ngắn lại chê trạch dài
Vụng chèo khéo chống khen ai vững vàng
Vào sinh ra tử gian nan
Ăn không nói có làm càn chớ nên
Xấu người đẹp nết là hơn
Đầu đuôi kể rõ dưới trên ngọn ngành
Trống xuôi kèn ngược sao đành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
(TNTP số 19 tháng 3/2007)
+ Muốn tìm được cặp từ trái nghĩa, trước các cặp từ còn đang “Nghi
vấn”, học sinh cần trả lời 2 câu hỏi nhỏ sau: thứ nhất “nghĩa của 2 từ trong
mỗi câu thơ có đối lập nhau không, trái ngược nhau không?”, thứ hai : “cơ sở
chung của sự đối lập về nghĩa của 2 từ là gì ?”. Trả lời được 2 câu hỏi trên, học
sinh đã xác định có cơ sở chắc chắn về từ trái nghĩa.
* Cuối tiết, tôi củng cố kiến thức bằng cách tổ chức thi sử dụng từ trái
nghĩa dưới dạng 2 loại bài tập sau:
+ Loại bài tập 1: Điền từ trái nghĩa vào chỗ trống trong từng câu thơ sau
Ví dụ :


Yếu trâu còn hơn …………… bò .( khoẻ)
Bé lại xé ra ............đáng buồn .(to)
Lành làm gáo, ……. làm muôi . (vỡ)


Ở ……. người cười, ở hẹp người chê. ( rộng)
(TNTP số 39A + 39B tháng 3/2002).
+ Loại bài tập 2: Đặt câu với cặp từ trái nghĩa.
dạng bài tập điền từ, học sinh cần được dựa vào từ cho sẵn (từ in đậm trong câu thơ), coi đó là từ
“điểm tựa” để tìm từ có nghĩa trái ngược, tạo nên một cặp từ trái nghĩa hoàn chỉnh. Còn ở dạng bài
tập đặt câu, học sinh cần căn cứ vào đặc trưng về nghĩa của cặp từ trái nghĩa đó để đặt câu có nội
dung thích hợp.
Kết quả cho thấy tất cả học sinh trong nhóm đã chú ý tham gia học tập một cách tích cực đã mang
lại kết quả cao cũng như chất lượng cao hơn cho phân môn Luyện từ và Câu ở lớp 5.
* Hạn chế: Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tích cực hóa trong phân môn Luyện từ và câu
nên khi dạy giáo viên phải chuẩn bị bài rất công phu.
2.6. Hiệu quả của sáng kiến:
Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên, hiệu quả giờ dạy
được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, các em mạnh dạn hơn, tự
tin hơn khi dùng từ, đặt câu và sử dụng từ - câu khi làm bài cũng như trong giao tiếp. Số em sử
dụng từ, câu chưa đạt yêu cầu đã giảm đi. Số em sử dụng từ, câu khá, tốt được nâng lên rõ rệt. Kết
quả thực nghiệm được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Kết quả thực nghiệm
Tổng Lớp số Số em dùng từ, Số em dùng
câu chưa đạt từ, câu trung
yêu cầu
HS
SL
%
5.4

29
0
0
Như vậy với một thời gian Số em dùng Số em dùng từ, câu khá từ, câu tốt bình
SL
%
SL
%
SL
%
11
37.93
8
27.59
10 34.48
ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi


đưa ra đã thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện pháp này một
cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn sẽ giúp được các em học tốt phân môn luyện từ và câu ở
lớp 5.
* Bài học kinh nghiệm:
Qua nghiên cứu lý luận và thực tế tôi đã rút ra bài học như sau:
+ Giáo viên cần phải thương yêu, gần gũi giúp đỡ học sinh, luôn quan tâm tìm hiểu xem các em
vấp phải khó khăn gì trong cách dùng từ - câu, cách diễn đạt từ câu, để từ đó khắc phục những khó
khăn mà các em vướng mắc.
+ Việc hướng dẫn mẫu của giáo viên là khâu quan trọng giúp học sinh luyện
tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài học qua cách diễn đạt, đồng thời các em học
tập cách diễn đạt của giáo viên.
+ Việc giúp các em biết lắng nghe và lắng nghe tích cực trong lúc giáo viên làm mẫu cũng như

trong lúc bạn trình bày là một yếu tố cơ bản giúp học sinh thấu hiểu vấn đề và cảm thụ tốt hơn.
+ Cần phát huy luyện tập theo cặp, theo nhóm để trong quá trình học các em có điều kiện hỗ trợ
lẫn nhau trong khi tiếp thu bài mới hay trong lúc luyện tập thực hành.
+ Trong quá trình giảng dạy nên tổ chức trò chơi học tập để thay đổi không khí học tập gây hứng
thú cho học sinh.
+ Việc rèn học sinh có thói quen học ở nhà là một việc làm cần thiết trong khâu đọc diễn cảm, bởi
vì ở lớp thời gian học tập rất ít. Các em chuẩn bị bài ở nhà tốt thì đến lớp tiếp thu bài nhanh hơn,
luyện tập tốt hơn.
III. KẾT LUẬN
1. Kết Luận trong nghiên cứu:
- Luyện từ và câu ở Tiểu học có nhiệm vụ làm phong phú vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho học
sinh. Nắm vững được cách dùng từ, đặt câu sẽ giúp cho các em có khả năng diễn đạt được các vấn
đề trong đời sống hàng ngày, tăng hiệu quả giao tiếp, giúp các em vững vàng, tự tin hơn trong cuộc
sống.
Bởi lẽ đó, việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học có tầm quan trọng rất lớn trong việc hình thành cho
các em năng lực sử dụng từ và sử dụng câu là hết sức cần thiết.
- Muốn rèn cho học sinh học tốt phân môn này thì trước hết mỗi giáo viên phải có nghiệp vụ sư
phạm tốt. Đặc biệt phải thực hiện đúng yêu cầu đề ra của phân môn
Luyện từ và câu, phải có vốn từ nhất định, sử dụng từ và câu phải chuẩn, hay, có sức cuốn hút học
sinh. Khi giáo viên làm mẫu, các em sẽ “lắng nghe và lắng nghe tích cực”, coi đó là chuẩn mực để
bắt chước, để so sánh, đánh giá với bài làm của mình.
Chính vì vậy, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo. Mỗi từ ngữ, mỗi câu nói của giáo viên
đều phải chuẩn mực.
- Giáo viên cần phải nắm chắc từng đối tượng học sinh để có biện pháp dạy học đạt kết quả cao.
Nhất là tính phát huy tích cực trong học tập, tổ chức nhiều hình thức, phương pháp dạy học tích
cực sẽ thu hút, lôi cuốn được tất cả các đối tượng học sinh trong lớp tham gia học tập, tăng khả
năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh nhằm đạt đến kết quả cao nhất.
- Giáo viên cần phải tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa, sách hướng
dẫn, sách soạn bài và một số tài liệu tham khảo khác có liên quan. Phải nắm vững sách, hiểu ý đồ
của người biên soạn.

- Giáo viên phải giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong công tác giảng dạy, kiên
trì uốn nắn, sửa chữa cách dùng từ, đặt câu và việc sử dụng dấu câu của học sinh thật tận tình chu
đáo.


- Giáo viên cần giảm bớt hoặc sửa lại câu hỏi cho sát với từng đối tượng học sinh, tránh giảng triền
miên (nói nhiều). Phải luôn luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em tiến bộ. Rèn cho các
em mạnh dạn nói trước đám đông.
- Phối hợp nhịp nhàng về chương trình phân môn Luyện từ và câu với các phân môn khác trong bộ
môn Tiếng Việt đặc biệt như: Tập làm văn, Kể chuyện…
Trên đây là việc làm cụ thể của tôi về vấn đề giúp học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Phong Thạnh
Đông biết sử dụng vốn từ để đặt câu và sử dụng dấu câu cho phù hợp khi nói và viết. Với phương
pháp dạy học tích cực đối với phân môn này sẽ là tiền đề, tạo điều kiện cho các em học tốt hơn các
bộ môn khác ở Tiểu học
Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp hàng ngày tôi đi đến kết luận rằng: Muốn rèn học sinh biết
sử dụng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu tốt thì vai trò của giáo viên hết sức quan trọng bởi mỗi giáo
viên là tấm gương sáng, mẫu mực để học sinh noi theo.
Trong dạy học mục đích cuối cùng của người giáo viên là phải có tâm huyết là làm sao cho học
sinh học tốt, học giỏi. Đối với tôi chất lượng luôn đặt lên hàng đầu trong
công tác giảng dạy…Muốn trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năngvề tiếng mẹ đẻ, giúp
các em nắm được công cụ giao tiếp và tư duy thì bản thân mỗi giáo viên phải chú ý thực hiện
những yêu cầu đề ra của phân môn Luyện từ và Câu.
Mỗi giáo viên phải luôn trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm của cácbạn
đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy và học các phân môn khác.
2. Kiến nghị, đề xuất:
- Cần có sự quan tâm, chỉ đạo của các ngành và các cấp quản lý giáo dục sâu sát và kịp thời hơn.
- Thường xuyên tổ chức các hội thảo chuyên đề, mở các lớp tập huấn chuyên đề về phân môn
Luyện từ và câu lớp 5; cần cung cấp đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo,…
Tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh tham gia học tập trau dồi kiến thức. Cần quan tâm nhiều
hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, nhất là phân môn Luyện từ và câu. Cần
cung cấp đầy đủ và kịp thời đồ dùng dạy học cho giáo viên.
Trên đây là đề xuất sáng kiến của tôi. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý lãnh đạo.
Xin chân thành cảm ơn!
Phong Thạnh Đông, ngày 21 tháng 4 năm 2014
Người viết
Lê Hoàng Nhân

Ví dụ :

Đặt câu với cặp từ béo - gầy



×