Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN Một số biện pháp giúp cho học sinh học tốt Luyện từ và câu lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.96 KB, 24 trang )

PHẦN I: Thông tin tác giả sáng kiến.
- Họ và tên tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Minh Thìn
- Sinh ngày 02 tháng 4 năm 1976
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường TH xã Mông Sơn
- Trình độ chuyên môn: Cao đẳng
- Tên đề tài, sáng kiến đề nghị công nhận: “Một số biện pháp giúp cho học
sinh học tốt Luyện từ và câu lớp 4”
- Đề nghị xét, công nhận sáng kiến: Chiến sĩ thi đua cơ sở
“Năm học 2013 – 2014” .
- Lĩnh vực áp dụng: “Trong ngành giáo dục” Nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 trong trường tiểu học xã Mông Sơn
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Đặc điểm chung của tổ chuyên môn lớp 4+5 trường tiểu học xã
Mông Sơn .
Năm học 2013 – 2014 tổ chuyên môn khối lớp 5 gồm có 3 đồng chí cán
bộ giáo viên, nhân viên giảng dạy ở 3 lớp với tổng số 74 học sinh được chia làm
3 lớp. Tất cả các em đều được học tập 5 buổi/tuần. Tất cả các thầy cô giáo của tổ
chuyên môn lớp 5 đều đạt trình độ trên chuẩn. Đảm bảo có đủ năng lực chuyên
môn để tham gia giảng dạy và bồi dưỡng học sinh, cuối năm tất cả 100% học
sinh đều hoàn thành chương trình tiểu học.
1
a. Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch được giao
Năm học Số lớp Số học sinh
Số lớp Tỉ lệ so với KH Số học sinh Tỉ lệ so với KH
2013- 2014 3 3/3 = 100% 74
74/74 = 100%
b. Chất lượng giáo dục năm học 2012 – 2013.
Năm học
Học sinh giỏi
đạt giải các cấp


HSG cả
năm học
Học sinh
tiên tiến
Kết quả XL các mặt
GD
HK từ TB
trở lên
Học lực từ
TB trở lên
2012 - 2013
02 em đạt giải ba và giải
khuyến khích cấp huyện.
01 em đạt giải khuyến
khích cấp tỉnh
35/171 =
20,5%
60/171 =
35,1%
171/171=
100%
171/171
= 100%
- Năm học 2012 - 2013 tôi trực tiếp dạy học và chủ nhiệm lớp 4B, kết quả
đạt được như sau: Ngay từ đầu năm học, tôi đã tích cực và nghiêm túc thực hiện
đầy đủ kế hoạch hoạt động của tổ chuyên môn và của nhà trường. Bổ sung kịp
thời các hoạt động của từng tháng từng tuần và từng ngày. Trên mọi lĩnh vực
công tác mình được phân công và phụ trách. Trong năm học cùng với tổ chuyên
môn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học. Qua đó đánh giá đúng chất lượng
việc học tập của học sinh. Kết thúc năm học chất lượng giáo dục của lớp chủ

nhiệm 4B đạt được như sau:
+ Xếp loại hạnh kiểm: 37/37 HS = 100% xếp loại hạnh kiểm: Đạt
+ Học lực: Lên lớp thẳng: 37/37 = 100%. Trong đó học sinh được xếp
loại chia ra:
+ HS Giỏi: 7/37 = 18,9%; Khá : 16/37 = 43,2%; Trung bình: 14/37 = 37,9%
- Năm 2012 - 2013: 100 % học sinh xếp loại hạnh kiểm Đạt, tỷ lệ học
sinh được lên lớp thẳng đạt 100%, tỷ lệ học sinh khá giỏi đạt 52,1% tăng so với
năm học trước 6,7% không có học sinh rèn luyện trong hè, không có học sinh vi
phạm kỷ luật.
2. Lý do chọn sáng kiến.
Trong tư bản luận, Các Mác đã từng nói:” Cùng với lao động và ngôn
ngữ, loài người là nhân tố quyết định sự phát triển của mình”. Vậy con người và
xã hội loài người phát triển mạnh mẽ đạt đến trình độ văn minh hiện đại phải kể
đến yếu tố quan trọng là ngôn ngữ.
Nhờ có ngôn ngữ con người có khả năng tư duy. Ngôn ngữ là công cụ
hiện thực của tư duy. Vì thế tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại với nhau. Người có tư duy tốt sẽ giao tiếp tốt. Trong việc
đào tạo con người, việc cung cấp kỹ năng và sử dụng ngôn ngữ chính là cung
cấp phương tiện để tư duy chiếm lĩnh kiến thức.
Lê-Nin đã từng khẳng định: “ Ngôn ngữ còn là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người”. Con người sống thành xã hội. Trong xã hội nhất thiết
2
phải có sự giao tiếp để con người trao đổi thông tin, biểu đạt tâm tư, nguyện
vọng và cảm xúc. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp chủ yếu của xã hội loài người.
Con người học ngôn ngữ từ tuổi còn thơ và suốt cuộc đời không ngừng trau dồi
ngôn ngữ cho chính mình. Con người học ở nhà trường và chính trong cuộc
sống. Nhưng ở nhà trường con người được học ngôn ngữ một cách hệ thống và
chuẩn mực nhất.
Luyện từ và câu là một phân môn của môn Tiếng Việt ,thông qua phân
môn này, học sinh được rèn luyện về khả năng dùng từ chính xác, đúng chính tả.

Phân môn Luyện từ và câu vận dụng các hiểu biết về kĩ năng về Tiếng Việt do
các phân môn khác mang lại, rèn luyện hoăc cung cấp, đồng thời góp phần hoàn
thiện chúng. Để làm được một bài tập Luyện từ và câu, học sinh phải hoàn thiện
cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt
vào quá trình viết bài. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó
được học sinh hoàn thiện và nâng cao dần.
Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kỹ năng sử dụng Tiếng
Việt ở bậc tiểu học là giúp học sinh biết sử dụng từ một cách phù hợp trong các
bài viết, đặc biệt trong phân môn Luyện từ và câu. Dùng từ đúng, phù hợp với
nội dung văn cảnh, giúp các em thể hiện ý văn sáng sủa, rõ ràng, mặt khác giúp
người đọc hiểu nội dung bài văn, câu văn một cách dễ dàng, chính xác.
Trong quá trình giảng dạy tại trường Tiểu học xã Mông Sơn, qua việc trực
tiếp hướng dẫn học sinh làm các bài tập môn học, tôi thấy để giúp các em biết sử
dụng từ ngữ đúng nghĩa, sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, nhận biết đầy đủ bố cục
một câu văn, một đoạn văn. Chính vì thế tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp giúp cho học sinh học tốt Luyện từ và câu lớp 4”
3. Mục đích của sáng kiến.
Là giáo viên đã công tác lâu năm trong nghề. Hàng năm được tham gia
tập huấn bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Tôi luôn muốn làm sao có
phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp nhất để truyền thụ hết tri thức cho học
sinh. Là một giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 4 theo chương trình sách
giáo khoa mới, tôi không khỏi băn khoăn suy nghĩ về vấn đề này. Làm thế nào
để đồng nghiệp và bản thân có được phương pháp dạy "Luyện từ và câu"cho học
sinh một cách tối ưu. Làm thế nào để sự tiếp thu kiến thức của các em có hiệu
quả. Để học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt là
chiếc chìa khoá mở cánh cửa tri thức khoa học.
Qua nghiên cứu bài giảng cụ thể, qua thực tế giảng dạy của bản thân và
đồng nghiệp trong nhà trường từ năm học 2012 - 2013. Qua thực tế đánh giá kết
quả học tập của học sinh khối lớp 4 của trường TH xã Mông Sơn, chúng tôi
3

nghiên cứu tìm ra phương pháp day học tích cực và phù hợp nhất đối với học
sinh, cũng như biện pháp dạy học thống nhất trong dạy phân môn Luyện từ và
câu lớp 4 trong nhà trường.
Với sáng kiến kinh nghiệm này tôi chủ yếu nghiên cứu về phân môn
Luyện từ và câu ở môn Tiếng Việt lớp 4. Đồng thời cùng với đồng nghiệp xây
dựng thành chuyên đề chuyên môn, trực tiếp áp dụng trong giảng dạy từ năm
học 2012-2013 và năm học 2013 - 2014 ở trường tiểu học xã Mông Sơn.
4. Phương pháp nghiên cứu viết sáng kiến.
Việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng phân môn "Luyện từ và câu" sẽ
giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Xuất phát từ nhu cầu của
bản thân, xác định tốt, đúng phương pháp giảng dạy phân môn "Luyện từ và
câu", người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng
giáo dục . Qua thực tế nghiên cứu và giảng dạy tôi đã kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc sách báo, tạp chí, sách giáo
viên, sách tham khảo…
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, phỏng vấn, phương
pháp phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê.
- Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác
như Phương pháp kiểm tra, đánh giá, so sánh.
5. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
5.1. Cơ sở hình thành và phát triển kĩ năng tiếng Việt:
-Thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử
dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Sách giáo khoa tiếng Việt 4 tiếp tục lấy nguyên
tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản. Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt
thông qua tất cả các phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu.
Phân môn luyện từ và câu được học từ lớp 2, song đến lớp 4 mới có những tiết
học dành riêng để trang bị kiến thức cho học sinh. Các em được mở rộng, hệ

thống hoá vốn từ, được trang bị kiến thức sơ giản về từ, câu, kĩ năng dùng từ đặt
câu, sử dụng dấu câu. Giai đoạn này, trẻ em có sự thay đổi đáng kể. Các em
thích diễn đạt, thích vận dụng từ ngữ hay để nói, viết Thế nhưng tư duy các em
phát triển chưa hoàn thiện, các em chưa hiểu nghĩa từ, chưa nắm chắc kiến thức
ngữ pháp tiếng Việt. Vì vậy, việc giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng
sử dụng tiếng Việt là rất quan trọng. Các em nắm chắc kiến thức về từ ngữ, ngữ
4
pháp tiếng Việt để học tốt các phân môn tiếng Việt và các môn học khác, là cơ
sở, nền tảng cho việc học tập các bậc học trên.
Thông qua các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và
câu học sinh được rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng ngay từ các bài thơ,
bài văn Các em hiểu tác dụng của cách dùng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu để
nói, viết đúng, viết hay, vận dụng một số biện pháp tu từ. Từ đó, các em có thể
trau dồi kĩ năng vận dụng từ ngữ đưa vào ngữ cảnh phù hợp, sinh động, có thói
quen dùng từ đúng, nói viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá
trong giao tiếp và thích học tiếng Việt.
5.2.Cơ sở chương trình SGK Tiếng Việt lớp 4:
Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 được xây dựng theo hai trục chủ điểm và kỹ
năng trong đó chủ điểm được lấy làm khung cho cả cuốn sách, còn kỹ năng
được lấy làm khung cho từng tuần từng đơn vị học.
Sách bao gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm, học trong
ba tuần ( Riêng chủ điểm Tiếng sáo diều học trong 4 tuần )
Nếu như ở các lớp dưới, chủ điểm học tập xoay quanh những lĩnh vực rất
gần gũi với học sinh như gia đình , trường học, thiên nhiên và xã hội thì ở lớp 4
chủ điểm là những vấn đề về đời sống tinh thần của con người như tính cách ,
đạo đức, năng lực,sở thích, ….cụ thể như sau :
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được dạy trong 62 tiết : HKI : 32 tiết ; HKII
30 tiết. Bao gồm các nội dung sau:
*Mở rộng hệ thống hoá vốn từ: (19 tiết)
-Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá theo trường nghĩa tương

đương các chủ điểm.
+ HK I: 9 tiết
Nhân hậu – Đoàn kết( tuần 2,3)
Trung thực – Tự trọng ( tuần 5,6)
Ước mơ ( tuần 9)
Ýchí – Nghị lực( tuần 12,13)
Đồ chơi – Trò chơi ( tuần 15;16)
+ HK II: 10 tiết
Tài năng ( tuần 19)
Sức khoẻ ( tuần 20)
Cái đẹp ( tuần22, 23)
Dũng cảm ( tuần 25, 26)
Du lịch – Thám hiểm ( tuần 29,30)
Lạc quan – Yêu đời ( tuần 33,34)
5
-Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống thông qua các bài tập. Tìm từ ngữ
theo chủ điểm. Tìm hiểu nắm nghĩa của từ; Phân loại từ ngữ. Tìm hiểu nghĩa của
thành ngữ, tục ngữ theo chủ điểm; luyện sử dụng từ ngữ.
* Tiếng , cấu tạo từ:( 5 tiết)
-Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ
+ Cấu tạo của tiếng tuần 1: 2 tiết
+ Từ đơn và từ phức tuần 3: 1 tiết
+ Từ ghép và từ láy tuần 4: 2 tiết
-Các dạng bài tập : Nhận diện và phân tích cấu tạo của tiếng , từ; Phân loại
từ theo cấu tạo; Tìm từ theo kiểu cấu tạo; Luyện sử dụng từ.
* Từ loại : (9 tiết)
- Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo từ loại của tiếng Việt .
+ Danh từ ( tuần 5,6,7,8: 5 tiết gồm cả cách viết danh từ riêng)
+ Động từ( tuần 9 và 11: 2 tiết)
+ Tính từ ( tuần 11 và 12: 2 tiết)

- Các dạng bài tập: Nhận diện từ theo loại; Luyện viết danh từ riêng; Tìm
và phân loại từ theo từ loại; Luyện sử dụng từ.

* Câu : 26 tiết
-Cung cấp các kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng, và cách sử dụng
các kiểu câu:
+ Câu hỏi : tuần 13,14,15 – 4 tiết .
+ Câu kể : tuần 16,17,19,20,21,22,24,25,26 – 12 tiết bao gồm các
kiểu câu: ai làm gì; ai thế nào; ai là gì?
+ Câu khiến : tuần 27,29- 3 tiết
+ Câu cảm : tuần 30 – 1 tiết
+ Thêm trạng ngữ cho câu: tuần 31,32,33,34 - 6 tiết
-Các dạng bài tập: Nhận dạng các kiểu câu; Phân tích cấu tạo câu; Đặt câu
theo mẫu nhằm thực hiện các mục đích cho trước; Lựa chọn kiểu câu để đảm
bảo lịch sự trong giao tiếp; Luyện sử câu trong các tình huống khác nhau; Luyện
mở rộng câu.
* Dấu câu: 3 tiết
-Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu :
+ Dấu hai chấm ( tuần 2: 1 tiết )
+ Dấu ngoặc kép ( tuần 8: 1 tiết )
+ Dấu chấm hỏi( tuần 13 học cùng câu hỏi)
6
+ Dấu gạch ngang ( tuần 13: 1 tiết )
- Các dạng bài tập: Tìm công cụ của dấu câu; Luyện sử dụng dấu câu
( đặt dấu câu vào chỗ thích hợp, tập viết câu , đoạn có sử dụng dấu
câu).

Chương II: NỘI DUNG
1. Thực trạng về việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 của
giáo viên và học sinh trường tiểu học xã Mông Sơn

a. Đối với giáo viên:
Những năm gần đây, do ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Phong trào đổi mới
phương pháp dạy học đã được phát động rộng rãi trong các trường Tiểu học của
huyện Yên Bình nói chung và ở trường tiểu học xã Mông Sơn nói riêng. Giáo
viên chúng tôi đã vận dụng phương pháp theo hướng tích cực hoá hoạt động của
học sinh, qua đó đã đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
cho học sinh trong trường.
Tuy nhiên, việc dạy phân môn luyện từ và câu không ít giáo viên vẫn
chưa thoát khỏi quỹ đạo của phương pháp dạy học truyền thống. Một số giáo
viên vẫn coi học sinh tiểu học là đối tượng nói theo, làm theo khuôn mẫu. Sách
giáo khoa Tiếng Việt 4 cũ tách từ ngữ, ngữ pháp thành hai phân môn riêng biệt.
Sách giáo khoa Tiếng Việt mới tích hợp từ ngữ, ngữ pháp thành phân môn luyện
từ và câu. Do đó việc tiếp cận phương pháp dạy học phù hợp với sách giáo khoa
mới phần nào còn khó khăn.
Vì vậy cần cải tiến phương pháp dạy học "Luyện từ và câu" theo hướng
tích cực hoá hoạt động của người học để giờ học sinh động, hấp dẫn, hiệu quả.
Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 4, khi nghiên cứu về phương pháp dạy học
phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã thấy được mục đích, yêu cầu của một đơn vị
kiến thức mà học sinh được chiếm lĩnh thuộc hệ thống vấn đề nào trong bài
giảng.
Sau khi được tập huấn chuyên môn, tôi đã biết cách phối hợp nhịp nhàng,
khoa học và logic giữa kiến thức về từ và câu. Sử dụng các kỹ thuật dạy học tích
cực như kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật mảnh ghép, sơ đồ tư duy, bàn tay nặn
bột vào dạy học
-Với đặc thù của phân môn luyện từ và câu là trang bị những kiến thức cơ
bản về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để các em học tốt các môn học khác. Bởi
vậy, việc bồi dưỡng và nâng cao hiểu biết về từ, câu, kĩ năng sử dụng tiếng Việt
văn hoá góp phần kích thích sự phát triển tư duy, hoàn thiện nhân cách cho học
7

sinh.
b. Đối với học sinh:
- Phải nói rằng việc nắm kiến thức từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt của học
sinh lớp 4 mà tôi trực tiếp giảng dạy đầu năm học còn rất yếu. Các em chưa hiểu
nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ của các em còn nghèo, không diễn đạt một cách
trôi chảy những cảm nhận của mình. Nên các em dùng từ còn sai, khi nói, viết
chưa trọn câu. Câu văn các em đặt chưa đạt yêu cầu. Song một điều kiện thuận
lợi là các em được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập, cùng với sự
tận tình của giáo viên các em thích tìm hiểu, khám phá kiến thức về tiếng mẹ đẻ.
Đa số HS của nhà trường là con em nông thôn nghèo. Nhiều gia đình ở xa
trường hoặc ở trên hồ làm cho việc đi lại gặp gỡ trao đổi của giáo viên và gia
đình học sinh gặp nhiều khó khăn, cũng như làm giảm sự quản lý cũng như giao
lưu học tập của một bộ phận học sinh trong trường. Vốn ngôn ngữ còn khá hạn
chế, trong quá trình dạy học môn Luyện từ và câu lớp 4. Đặc biệt là khi chấm
bài tập của học sinh tôi thường thấy các em thường sử dụng từ không chính xác,
chưa phù hợp. Cho nên hiệu quả bài làm không cao. Một trong những nguyên
nhân cơ bản đó là do vốn từ của các em còn nghèo, các em thường bí từ nên
dùng từ sai, dùng từ một cách bừa bãi làm hỏng làm sai ý của câu văn. Các em
cũng chưa biết khai thác và sử dụng từ ngữ một cách độc đáo sáng tạo để diễn tả
những điều quan sát được, nhiều em chưa biết cách thể hiện những cảm xúc, suy
nghĩ của mình trước một sự vật hiện tượng. Trước những hạn chế nêu trên tôi đã
đặt ra cho mình những giải pháp giúp học sinh khắc phục những hạn chế đó để
học sinh làm tốt hơn phân môn Luyện từ và câu.
* Thực tế học tập của học sinh lớp 4 học phân môn luyện từ và câu:
Số học sinh khối lớp 4 năm học 2013 - 2014 gồm 92 em được chia thành
3 lớp học 2 buổi (cả ngày). Qua khảo sát chất lượng đầu năm về môn Tiếng Việt
thu được kết quả như sau:
Năm học Tổng số
HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu

2012 - 2013 74 0 9 51 14
2013 - 2014 92 0 11 68 13
Từ bảng phân loại khảo sát trên cho thấy trình độ nhận thức của HS, số
học sinh khá giỏi chiếm tỉ lệ khá cao. Song số học sinh yếu và học sinh trung
bình còn nhiều, cần nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo trực tiếp
tham gia giảng dạy để cuối năm các em học tốt hơn hoàn thành được chương
trình môn học lớp 4. Để tất cả các học sinh nào cũng đọc tốt phân môn luyện từ
và câu cũng như hiểu và làm được bài tập theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn
học.
8
* Quan điểm của bản thân và những vấn đề cần giải quyết
Từ thực tế của công tác dạy và học cũng như kết quả học tập của các em
học sinh khối lớp 4 trong nhà trường. Đặc biệt để dạy tốt phân môn Luyện từ và
câu Tiếng Việt lớp 4, học sinh sẽ biết đọc tăng cho khả năng tư duy, tiếp thu
kiến thức tốt hơn ở môn toán và các môn học khác.
Dựa trên những kiến thức kĩ năng chuẩn cũng như các phương pháp, biện
pháp dạy học tích cực xây dựng và vận dụng phù hợp với trình độ học sinh của
nhà trường giúp các em lĩnh hội tốt nhất chương trình SGK và phương pháp học
tập bậc tiểu học, phát triển được khả năng tư duy của bản thân các em, cũng như
nâng cao khả năng sư phạm của đội ngũ giáo viên toàn trường. Qua thực tế sinh
hoạt chuyên đề chuyên môn phần nào chúng tôi đã giải quyết được vấn đề nêu ra
và đã tìm ra biện pháp tối ưu nhất trong công tác dạy và học của nhà trường.
2. Nội dung của sáng kiến.
2.1. Nội dung phương pháp và biện pháp dạy học chủ yếu phân môn
Luyện từ và câu lớp 4:
2.1.1. Nghiên cứu nội dung dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4
Qua thực tế nghiên cứu và giảng dạy: Với mỗi bài dạy lí thuyết các bài
học về cấu tạo tiếng, cấu tạo từ và từ loại đều gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ,
luyện tập.
+ Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu và nêu câu hỏi, gợi ý cho học sinh

phân tích nhằm rút ra kiến thức lí thuyết .
+ Ghi nhớ là phần chốt lại những điểm chính yếu về kiến thức được rút ra
từ việc phân tích ngữ liệu. Học sinh cần phải nắm vững kiến thức này.
+ Luyện tập là phần bài tập nhằm củng cố và vận dụng nững kiến thức
đã học, gồm các dạng bài tập như:
- Nhận biết các bộ phận cấu tạo của tiếng
- Giải các câu đố chữ liên quan đến cấu tạo tiếng
- Nhận biết các kiểu cấu tạo từ
- Nhận biết các từ loại
- Đặt câu với các từ đã cho
Với các bài học mở rộng và hệ thống hóa vốn từ đều được thể hiện dưới
hình thức bài tập thực hành. Những kiểu bài tập thực hành chủ yếu là:
- Tìm từ ngữ theo nghĩa và hình thức cấu tạo đã cho
- Xác định nghĩa của từ và các yếu tố cấu tạo từ
- Xác định nghĩa của thành ngữ, tục ngữ
- Phân loại từ ngữ và các yếu tố cấu tạo từ
- Đặt câu với từ ngữ đã cho
- Xác định tình huống sử dụng thành ngữ, tục ngữ.
Thể hiện thông qua những bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó.
Giáo viên cần nắm chắc điều này để đưa ra những phương pháp dạy học
9
phù hợp nhất. Trên cơ sở đó, tôi đã sử dụng và nghiên cứu một số phương pháp
dạy học tôi cho là khả thi.
2.1.2. Biện pháp tổ chức hoạt động cho các dạng bài tập.
a/ Đối với bài Mở rộng vốn từ theo chủ điểm học tập ở lớp 4.
Giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực học tập của học sinh. Đặc biệt chú ý sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp trò chơi học tập. Qua tiết học giáo viên phải giúp các em
chủ động trong việc lựa chọn từ ngữ và sử dụng từ ngữ đó trong việc học tập và
giao tiếp hàng ngày. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này giáo viên cần vận dụng đúng

phương pháp thực hành giao tiếp để tạo niềm hứng thú cho học sinh(Cụ thể là:
Phải tạo được tình huống thiết thực tự nhiên, cho học sinh vận dụng những kiến
thức để thực hành giao tiếp trong những tình huống cụ thể, phù hợp với tình
huống, tạo ở các em nhu cầu và hứng thú vận dụng những kiến thức được học để
thực hành giao tiếp ). Sử dụng trò chơi học tập hợp lí và đúng lúc cũng là
phương pháp rất thích hợp trong dạy học ở tiểu học nói chung và phân môn
Luyện từ và câu nói riêng.
Ví du: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ : “Đồ chơi- trò chơi” cuối giờ học
giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Giáo viên có thể chuẩn bị các câu
hỏi yêu cầu học sinh mô tả đồ chơi hoặc trò chơi đã biết,hoặc ngược lại nêu cách
chơi để học sinh đoán tên trò chơi, đồ chơi sau đó tổ chức 2 đội chơi(1 đội nêu
câu đố, 1 đội trả lời và đổi lại)
b/ Đối với các bài hình thành khái niệm(hình thành kiến thức lí thuyết)
Để phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4. Giáo viên cần kết
hợp sử dụng một cách linh hoạt phương pháp phân tích ngôn ngữ với phương
pháp luyện tập theo mẫu, phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp thảo
luận nhóm…để giờ học căng thẳng, nặng nề đối với học sinh.
Ví dụ: Ở lớp 2,3 khái niệm về động từ được diễn đạt đơn giản là những từ
ngữ chỉ hoạt động . Lên lớp 4 các em học khái niệm động từ là những từ chỉ
hoạt động, trạng thái . Khi dạy học giáo viên vận dụng phương pháp luyện tập
theo mẫu để học sinh rễ ràng tiếp thu kiến thức. Cụ thể là giáo viên làm mẫu
bằng cách tìm thêm các từ chỉ hoạt động và các từ chỉ trạng thái rồi xếp thành 2
nhóm từ cho học sinh quan sát tự nhận ra sự khác biệt giữa chúng.
c/ Đối với bài Luyện tập về từ và câu.
Tùy từng nội dung luyện tập cụ thể giáo viên vận dụng các phương pháp
dạy học như: phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp trò chơi học tập…để học sinh có thể thực hành các kiến thức lí
thuyết đã được học,biết cách áp dụng các kiến thức Tiếng Việt được học một
10
cách linh hoạt vào các tình huống sử dụng ngôn ngữ cụ thể.

Muốn có được hai nguồn kiến thức ấy các em cần phải tập quan sát thực
tế ghi chép vào ký ức, sổ tay của mình để có thể làm bài tốt. Trong quan sát các
em chú ý phải quan sát bằng nhiều giác quan: như mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi
và cả tay sờ nữa. Phải biết tranh thủ những gì quan sát được như trên đường đi
học, một buổi tham gia lao động ,một ngày về quê để làm kiến thức khi viết bài.
Về kiến thức sách vở phải biết chọn lựa ,ghi chép hoặc học thuộc để có
thể tái hiện khi làm bài. Để giúp cho việc tích luỹ kiến thức được tốt các em nên
hình thành “cuốn sổ tay văn học” trong đó các em ghi thành từng mục:
- Những kiến thức là từ ngữ theo chủ đề.
- Những từ ngữ hay, câu danh ngôn, châm ngôn
- Những đoạn văn hay, câu thơ hay.
- Những người tốt, việc tốt
Sắp xếp như vậy học sinh dễ tìm, dễ lấy tư liệu làm bài
2.1.3. Phương pháp sử dụng trò chơi học tập để dạy “ Luyện từ và câu
lớp 4”
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và chủ
yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể được rèn luyện thể lực, các giác quan, tạo
cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong nhóm,
trong tổ. Bước vào trường, trẻ làm quen với hoạt động học tập, một loạt hoạt
động được chương trình hoá với những yêu cầu chính rất cao. Vậy nếu sử dụng
hình thức trong trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, trò chơi
được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình
thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở lên thoải mái, dễ chịu,
tiếp thu bài của HS tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả.
Mục đích của trò chơi học tập: Không chỉ nhằm giải trí mà còn nhằm
góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho HS.
Nội dung trò chơi học tập gắn với tri thức và kĩ năng của một nhóm
học hoặc một lĩnh vực tri thức kĩ năng nào đó. Vậy khi sáng tạo trò chơi học tập
giáo viên cần dựa vào kiến thức kĩ năng của phân môn, môn học cần củng cố để

xây dựng trò chơi.
Luật chơi: Trò chơi học tập có luật chơi rõ ràng, đơn giản,dễ hiểu, dễ
thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho huấn luyện.
Ví dụ: Thi Ai nhanh ai đúng.
Trò chơi Tiếp sức.
Trò chơi Đi tìm đồng đội.
Trò chơi Truyền điện.
11
1, Trò chơi Ai nhanh ai đúng.
Trong một thời gian cố định, 2 đội ( 5 đến 6 người) thi tìm nhanh từ
phù hợp với chủ điểm, nội dung cho trước.
Sau đó kiểm tra: Giáo viên, Học sinh làm trọng tài.
2, Trò chơi Tiếp sức – Tìm từ, điền từ…
Diễn ra 2 nhóm, khi có hiệu lệnh xuất phát, từng em lần lượt thay nhau
lên bảng tìm từ, điền từ.
Sau đó kiểm tra, đội nào làm đúng, tìm nhiều từ là thắng.
Ví dụ: Thi tìm nhanh từ chỉ đặc điểm.
3, Trò chơi Truyền điện.
Hai đội (5người/ 1 đội), (2 đội) cùng tham gia.
Đội 1 nêu 1 từ chỉ sự vật, đội 2 nêu 1 từ khác chỉ đặc điểm của sự vật đó.
Nếu đúng được đố ngược lại.
4, Trò chơi: Đi tìm đồng đội.
Một, hai học sinh cầm chủ điểm.
Số học sinh còn lại cầm bảng ghi từ.
Sau hiệu lệnh 2 phút các từ tìm về đúng chủ điểm của mình.
Kiểm tra nhận xét.
2.1.4. Biện pháp hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu:
-Việc phân tích ngữ liệu của bài tập giúp học sinh nắm vững yêu cầu của
bài tập và thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức. Giáo viên cần cho học sinh đọc
thầm, trình bày yêu cầu của bài tập, giải thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu

bài tập. Tổ chức cho học sinh làm bài tập bằng nhiều hình thức như: cá nhân,
nhóm. Sau đó báo cáo kết quả, cả lớp cùng tham gia trao đổi, nhận xét, học sinh
tự rút ra kết luận. Giáo viên chỉ khẳng định kết luận đúng hoặc bổ sung. Trao
đổi với học sinh, sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ chức cho học sinh góp ý và đánh
giá cho nhau trong quá trình làm bài. Giáo viên không nhất thiết phải giải nghĩa
từ mà gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh để tìm nghĩa của từ. Với những từ
ngữ trừu tượng, ít gần gũi học sinh, giáo viên cần đưa vào hoàn cảnh cụ thể để
học sinh hiểu nghĩa. Cuối cùng giáo viên sơ kết, tổng kết ý kiến của học sinh.
* Ví dụ : Khi dạy bài "Động từ" ( tuần 9), ở phần nhận xét sau khi cho
học sinh: đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các từ chỉ hoạt động của người, các từ
chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả trước lớp. Giáo viên sẽ chốt lại: Các
từ nêu trên là động từ. Vậy động từ là gì? Học sinh trả lời – giáo viên khẳng
12
định và ghi bảng. (Động từ là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật )
2.1.5. Biện pháp dạy nội dung mở rộng và hệ thống hoá vốn từ:
- Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, từ Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với
chủ điểm của từng đơn vị học. Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ, thành
ngữ, tục ngữ thuộc các chủ điểm. Giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên tưởng,
so sánh hoặc tra từ điển để tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần
gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa.
- Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có
cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. Căn cứ vào từng đối tượng
học sinh, giáo viên cần lựa chọn biện pháp dạy học cho phù hợp. Tạo điều kiện
cho tất cả học sinh đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình từng
bước vươn lên đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng .
* Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng.
Bài tập 4: Có thể dùng thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính
trung thực hoặc lòng tự trọng:
- Thẳng như ruột ngựa.

- Giấy rách phải giữ lấy lề.
- Thuốc đắng giã tật.
- Cây ngay không sợ chết đứng.
- Đói cho sạch rách cho thơm.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm 4, đọc kĩ nội dung bài tập,
xác định yêu cầu, trao đổi tìm hiểu nghĩa của từng thành ngữ, tục ngữ (cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng). Rồi học sinh tiến hành phân loại, sau đó báo cáo kết quả
trước lớp, lớp nhận xét, bổ sung, thống nhất kết quả. Nếu câu nào các em chưa
hiểu nghĩa giáo viên phải giải thích cho các em rõ. Ngoài ra, cho các em tìm
thêm một số câu thành ngữ, tục ngữ có nội dung theo chủ điểm và yêu cầu học
thuộc để vận dụng.
*Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Ước mơ.
- Hướng dẫn học sinh bước đầu tìm được một số từ cùng nghĩa với từ ước
mơ bắt đầu bằng tiếng ước, bằng tiếng mơ, ghép được từ ngữ, hiểu ý nghĩa và
nhận biết được sự đánh giá của từ ngữ đó.
+ Bài tập 2: Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ ước mơ”.
- Bắt đầu bằng tiếng “ước”: ước ao, ước muốn, ước vọng, ước mong…
- Bắt đầu bằng tiếng “mơ”: mơ tưởng, mơ ước, mơ mộng…
- Đối với bài tập này các em chỉ cần tìm thêm một thành tố thứ hai đứng
sau thành tố đã cho để tạo nên một từ cùng nghĩa với “ ước mơ”.
- Nêu một ví dụ minh họa về một loại ước mơ. Như chúng ta biết trong
13
cuộc sống ai cũng có những ước mơ của mình. Có những ước mơ chính đáng và
không chính đáng. Từ đó, học sinh có thể lấy bất kỳ một ví dụ cho mỗi loại ước
mơ sao cho thích hợp. Như “ Ước mơ sau này sẽ làm thầy (cô) giáo, làm kĩ sư,
làm bác sĩ, làm chú công an, anh bộ đội…”.
2.1.6. Biện pháp nâng cao kiến thức về từ, câu, kĩ năng dùng từ, đặt
câu và sử dụng dấu câu:
- Kiến thức tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới bập
bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến lớp 4

các em mới bước đầu được làm quen với phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại,
cách sử dụng dấu câu.
Giáo viên cần giúp học sinh khai thác tối đa ngữ liệu được cung cấp. Khi
dạy các kiến thức về từ, học sinh thường gặp khó khăn trong việc nhận diện,
phân biệt từ phức, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, từ láy. Theo chương
trình từ ngữ, ngữ pháp lớp 4 cũ, học sinh chỉ biết đơn giản về cấu tạo của ba từ
loại: từ đơn, từ ghép, từ láy. Việc phân tích từ ghép có nghĩa tổng hợp, có nghĩa
phân loại, từ ghép và từ láy, học sinh phải căn cứ trên nghĩa của từ. Vì vậy, để
giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên cần giúp
học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong bài học.
* Ví dụ: Khi dạy bài " Luyện tập về từ ghép, từ láy " ( tuần 4)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ " bánh trái" ( chỉ chung cho
các loại bánh ) nên là từ ghép có nghĩa tổng hợp.
- Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy kể tên một số loại bánh mà em biết ? (bánh
rán, bánh cuốn, bánh mì…)
- Bánh rán, bánh cuốn, bánh mì là chỉ riêng cho một loại bánh nên là từ
ghép có nghĩa phân loại.
- Khi học sinh không phân biệt được từ ghép và từ láy, giáo viên cần giải
nghĩa cho học sinh về từ ghép là từ gồm có hai tiếng có nghĩa trở lên tạo thành,
các tiếng đó bổ sung nghĩa cho nhau tạo nên nghĩa mới. (Ví dụ : Từ "bờ bãi" cả
hai tiếng đều có nghĩa). Còn từ láy là từ gồm hai tiếng trở lên phối hợp theo cách
lặp âm hay vần hoặc lặp hoàn toàn cả âm lẫn vần. (Ví dụ: Từ "luôn luôn", "rì
rào"). Vì vậy "bờ bãi " là từ ghép không phải từ láy mặc dù phần âm đầu giống
nhau.
- Trong kiến thức về từ loại, phần danh từ học sinh rất khó khăn trong
việc nhận diện danh từ chỉ khái niệm, danh từ chỉ đơn vị. Vì vậy, khi dạy phần
này giáo viên cần đưa ba dấu hiệu để giúp học sinh nhận diện danh từ chỉ khái
niệm là :
- Những từ chỉ sự vật có thể cảm nhận bằng trí óc như: đạo đức, kinh
nghiệm, Những từ được chuyển hoá từ động từ hoặc tính từ khi ghép với các

từ " sự ", " cuộc", " lòng ", như: lòng kiên nhẫn, sự hi sinh,
-Thường là từ gốc Hán như : Truyền thống, Tổ quốc,
- Đối với việc giúp học sinh phân tích và nhận diện danh từ chỉ đơn vị với
các tiểu loại danh từ khác, cần chỉ cho học sinh thấy rằng các từ chỉ đơn vị như:
14
cái, con, tấm, dãy, cơn, có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng là: một, hai,
các, vài, lũy, trong khi đó không phải từ chỉ sự vật nào cũng có thể kết hợp
được với từ chỉ số lượng.
- Các danh từ chỉ sự vật nếu không thể biểu thị một sự vật đơn thể như:
bàn, ghế, áo, người, mà biểu thị các sự vật tồn tại thành tổng thể như: nước,
mưa, quần áo, thì không thể kết hợp với từ chỉ số lượng. Giáo viên có thể
cung cấp cho học sinh một số danh từ chỉ loại thường gặp như:
Danh từ chỉ loại đi với vật thể: cái, con, cây, quả, người, ( người thợ,
cây bàng, con khỉ, ) ông, bà, ( ông bác sĩ, bà kĩ sư, )
Danh từ chỉ loại đi với danh từ chất thể ( vải, nước, nhôm, đồng ) : cục,
thanh, tấm, giọt, hạt, ( Ví dụ như: tấm vải, giọt nước, ) Danh từ chỉ loại đi
với danh từ chỉ hiện tượng: cơn, làn, trận, (cơn mưa, trận bão, )
- Khi dạy kiến thức sơ giản về câu, học sinh dễ nhầm lẫn vị ngữ trong câu
kể ai thế nào ? là động từ chứ không phải là tính từ. Các em thường có xu hướng
xác định mọi câu kể có động từ thuộc câu kể Ai làm gì? Các em quen với động
từ là từ chỉ hành động bởi khái niệm " trạng thái", " tình thái" chưa được hình
thành hoặc hình thành chưa rõ ràng. Vì vậy, khi dạy học, giáo viên kết hợp miêu
tả bằng động tác hoặc hình vẽ với những ví dụ để học sinh hình dung sự khác
nhau giữa hành động và trạng thái.
- Hành động thể hiện trực tiếp những đặc điểm vận động của chủ thể (Ví
dụ : chạy, nhảy, viết, đi, ) Trạng thái thể hiện mối liên hệ giữa vận động của sự
vật, hiện tượng trong một hoàn cảnh hoặc không gian, thời gian. ( Ví dụ: Mặt
trời toả nắng. Bé Hoa ngủ. Hoa nở rộ trong vườn. )
- Giáo viên nên giới thiệu thêm một số động từ chỉ trạng thái thường dùng
thể hiện ý nghĩa về sự cần thiết như: cần, nên, phải, Từ chỉ khả năng như: có

thể, không thể, Từ thể hiện ý chí, ý định: toan, định, dám, Từ thể hiện sự
mong muốn: mong ước, ước mơ, Từ thể hiện ý nghĩ hay nhận xét: nghĩ,
tưởng, xem, cho, ( Ví dụ: Tôi cho rằng hoa hồng đẹp nhất).
-Việc nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai
trò ngữ pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu,
nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức
chủ quan của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có
quan hệ từ đúng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối
câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở
giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 chỉ
nêu trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu nhưng nếu học sinh đặt những câu có
trạng ngữ ở vị trí khác, giáo viên vẫn chấp nhận và chỉ cho học sinh thấy vị trí
linh hoạt của trạng ngữ.
- Khi dạy bài “ Luyện tập về câu hỏi” tuần 14. Ở bài này học sinh phải đặt
được câu hỏi cho bộ phận xác định trong câu; nhận biết một số từ nghi vấn và
đặt câu hỏi với các từ nghi vấn; bước đầu biết được một dạng câu có từ nghi vấn
nhưng không dùng để hỏi.
15
-Ví dụ: Đặt câu hỏi cho các bộ phận câu được gạch dưới sau đây:
a) Hăng hái nhất và khỏe nhất là bác cần trục.
b) Trước giờ học chúng em thường rủ nhau ôn bài cũ.
c) Bến cảng lúc nào cũng đông vui.
- Để đặt được câu hỏi cho các bộ phận câu được gạch dưới, học sinh phải
hiểu bộ phận gạch dưới biểu đạt nội dung gì? Từ dùng để hỏi bộ phận đó là
những từ nghi vấn nào.Tìm được các từ đó và đặt thêm dấu chấm hỏi cuối câu là
chúng ta giải quyết được vấn đề.
a) Hăng hái nhất và khỏe nhất là ai?
b) Trước giờ học chúng em thường làm gì?
c) Bến cảng như thế nào?
2.1.7. Biện pháp giúp học sinh tích lũy vốn từ vựng.

Học tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt cũng như con người bước vào cuộc đời
đều phải mang theo mình những hành trang cần thiết, đó là những kinh nghiệm,
những bài học về cuộc sống, những hiểu biết về thế giới xung quanh.
Muốn học tốt môn Tiếng Việt, giáo viên cần cho học sinh hiểu tầm quan
trọng của việc tích luỹ kiến thức. Nguồn kiến thức về cuộc sống xung quanh,
tình cảm gia đình, cộng đồng và những cảnh vật trong cuộc sống đó là: bờ tre,
giếng nước, đường làng, Nguồn kiến thức vô cùng quan trọng để các em tích
lũy đó là kiến thức sách vở trong chương trình tiểu học, sách báo, tạp chí,
Muốn có được kiến thức ấy, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát thực tế, ghi
chép váo kí ức, lập cuốn sổ tay " Từ điển tiếng Việt" ghi thành từng mục từ ngữ
hay theo chủ đề từ cùng nghĩa, trái nghĩa, tục ngữ, ca dao, châm ngôn, những
gương người tốt, việc tốt. Sắp xếp thành chuyên mục như vậy sẽ dể tìm, dể lấy
để vận dụng đặt câu, dùng từ ngữ khi giao tiếp
* Ví dụ: Khi dạy bài " Mở rộng vốn từ: Dũng cảm" ( tuần 26 )
Bài tập 1: Tìm những từ ngữ cùng nghĩa và trái nghĩa với từ " dũng cảm",
các em có thể dùng "Từ điển tiếng Việt " của mình để thi đua tìm được nhiều từ
cùng với các bạn hoặc các em sẽ ghi chép thêm những từ ngữ của các bạn tìm
được mà trong sổ mình chưa có.
- Từ cùng nghĩa : quả cảm, gan dạ, gan góc, anh dũng,
- Từ trái nghĩa: nhát gan, nhút nhát, hèn nhát, bạc nhược,
2.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Với sáng kiến kinh nghiệm này tôi chủ yếu nghiên cứu về phân môn Tiếng
Việt lớp 4. Cùng với đồng nghiệp xây dựng thành chuyên đề chuyên môn ở tổ
chuyên môn lớp 4+5, chúng tôi đã cùng nhau tìm hiểu xây dựng chuyên đề
chuyên môn từ những năm học trước.
Việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng phân môn "Luyện từ và câu" sẽ
giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, các em tích luỹ cho
mình những kiến thức cần thiết, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn
16
khác trong tiếng Việt như: Chính tả, Tập làm văn, Đồng thời học tốt các môn

học khác như: Toán, Tự nhiên-xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật, Đặc biệt là khơi dậy
trong tiềm thức tâm hồn học sinh lòng yêu quý sự phong phú của tiếng Việt, có
ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần giúp học sinh học tập tốt
hơn ở các môn học khác.
Xuất phát từ nhu cầu của bản thân, xác định tốt, đúng phương pháp giảng
dạy phân môn "Luyện từ và Câu", người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối
ưu để nâng cao chất lượng giáo dục.
Qua thực tế dạy học trên lớp mang lại hiệu quả cao. Sáng kiến được sự nhất
trí của ban giám hiệu nhà trường, nhất trí của tổ chuyên môn cho áp dụng trong
giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 từ năm học 2012 – 2013; 2013 -
2014 ở trường tiểu học xã Mông Sơn - Huyện Yên Bình - Tỉnh Yên Bái.
2.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến:
Áp dụng trong phạm vi trường tiểu học xã Mông Sơn. Trực tiếp là khối lớp
4 của nhà trường. Tiếp tục hoàn thiện thêm sáng kiến, thực nghiệm trong dạy
học nếu mang lại kết quả cao hơn nữa, có thể nâng cao áp dụng cho các trường
Tiểu học trong toàn huyện Yên Bình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Sau khi thực hiện đổi mới phương pháp vào giảng dạy phân môn Luyện từ
và câu lớp 4. Tôi thấy kết quả đạt được như sau:
- Học sinh nắm chắc hơn về từ, mở rộng được vốn từ.
- Học sinh có kĩ năng tốt trong việc sử dụng từ, đặt câu.
- Học sinh có khả năng vận dụng thực hành tốt hơn.
- Các em có thể kiểm tra, rà soát lại bài làm của mình và của bạn.
- Đặc biệt khả năng giao tiếp, tác phong nhanh nhẹn hơn trong học tập,
trong vui chơi. Thích học phân môn này hơn.
Tuy kết quả đó là hết sức bé nhỏ, song nó cũng động viên tôi rất nhiều
trong công tác giảng dạy tại nhà trường.
Qua triển khai công tác giảng dạy bộ môn và đánh giá khả năng tiếp thu
kiến thức của các em thông qua việc kiểm tra đánh giá hàng ngày và đặc biệt là
bài kiểm tra định kì giữa học kì I vừa qua đã thu được kết quả như sau:

Năm học Tổng số
HS
Giỏi Tỉ lệ
%
Khá Tỉ lệ
%
TB Tỉ lệ
%
Yếu Tỉ lệ
%
2012-2013 74 14 18,9 28 37,8 29 39,3 3 4,0
2013-2014 92 19 20,7 31 33,7 40 43,5 2 2,1

Kết quả cho thấy: Khi được áp dụng phương pháp giảng dạy mới vào
phân môn thì kết quả thu được khả quan hơn , khả năng vận dụng kiến thức của
học sinh có tiến bộ hơn , số học sinh yếu đã giảm đi rõ rệt.
- Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên chất lượng môn tiếng Việt so với
17
đầu năm có nhiều tiến bộ rõ nét. Trước đây các em chưa hiểu nghĩa từ, vận dụng
từ còn sai, đặt câu còn khô khan, rời rạc, chưa đủ ý hoặc dài dòng. Nay các em
đã hiểu nghĩa của từ theo từng chủ điểm, biết giải nghĩa từ, vận dụng từ vào
trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Các em đã biết dùng từ hay, giàu hình ảnh, biết
phát hiện câu chưa đúng. Đặc biệt các em đã biết vận dụng để làm các bài tập
làm văn hay.
Chương III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh trong lớp đã nắm bắt kiến thức
nhanh và vận dụng vào làm bài một cách vững vàng. Vì vậy tôi đã cùng với
Giáo viên trong tổ khối lớp 4+5 trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời xây
dựng chuyên đề về môn học này để cùng nhau nâng cao chất lượng phân môn

Luyện từ và câu trong chương trình học tập ở Tiểu học. Từ đó giúp các em có tri
thức trong học tập, để các em tiến tới các bậc học cao hơn.
Với mỗi nhà trường, việc dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh được coi là nhiệm
vụ vô cùng quan trọng. Góp phần tích cực trang bị cho các em ngôn ngữ - công
cụ để học tập, giao tiếp. Trong môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu là
mở rộng khắc sâu vốn từ, phát triển kĩ năng, kĩ xảo sử dụng từ, đặt câu, sử dụng
dấu câu, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tăng cường hoạt động thực hành, ứng dụng thực tiễn.
Trong giảng dạy: Người giáo viên không thể nóng vội, phải luôn xem lại
phương pháp giảng dạy của mình, điều chỉnh sao cho phù hợp với nội dung bài,
nhận thức của học sinh, để gây hứng thú cho các em. Phải nghiên cứu, nhận thức
rõ được về vị trí, nhiệm vụ, kiến thức cần dạy. Khi dạy giáo viên phải coi trọng
nguyên tắc giảng dạy: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trở về thực tiễn”. Sau mỗi phần nội dung bài tập phải có khái quát hoá, đưa ra
tiểu kết luận cho bài. Rèn cho các em có thói quen, kĩ năng đọc kĩ đề bài, xác
định chính xác các yêu cầu của đề trước khi làm.
Có như vậy bài giảng mới sinh động, cuốn hút được các em vào hoạt
động học tập một cách say mê, giờ học mới đạt hiệu quả cao.
2. Kiến nghị:
Qua thực tế áp dụng các PPDH trên vào hướng dẫn học sinh học tốt phân
môn Luyện từ và câu, bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm cần có
hướng phấn đấu:
Dạy cho học sinh những kiến thức Tiếng Việt nâng cao, mở rộng, khắc
18
sâu chính là cơ sở để bồi dưỡng học sinh để trở thành học sinh giỏi văn trong
tương lai. muốn vậy:
* Đối với giáo viên:
- Cần say sưa, tâm huyết với nghề, luôn thể hiện tình thương trách
nhiệm đối với học sinh.
- Không ngừng học tập trong sách vở, bạn bè đồng nghiệp, tích luỹ kinh

nghiệm giảng dạy để nâng cao tay nghề. Sáng tạo trong giảng dạy.
- Nhận thức đúng vai trò của môn, phân môn: Luyện từ và câu là khởi
nguồn của mọi quá trình nhận thức và giao tiếp.
- Nắm chắc nội dung, lựa chọn phương pháp giảng dạy sát đối tượng,
với nội dung bài học.
- Trong giảng dạy người giáo viên cần có dự kiến tình huống xảy ra và
biện pháp tháo gỡ, khắc phục.
* Đối với nhà trường và các cấp quản lý.
- Nhà trường cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh
có điều kiện học tập tốt nhất.
- Bổ sung kịp thời những trang bị, sách tham khảo để phục vụ cho bộ
môn.
- Động viên khuyến khích kịp thời những học sinh, giáo viên đạt thành
tích cao trong giảng dạy và học tập.
- Quan tâm bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn tinh
thông về chuyên môn kỹ năng sư phạm.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chuyên môn, nhà trường.
* Với thời gian nghiên cứu không nhiều, kinh nghiệm nghề nghiệp còn
hạn chế chắc chắn bài viết của tôi còn nhiều thiếu sót. Riêng đối với bản thân
tôi, điều cần thiết và không thể coi nhẹ là phải dạy tốt lý thuyết, từ đó mới phát
triển được các tư duy, suy luận cho học sinh. Để rèn luyện kĩ năng học phân
môn Luyện từ và câu cho học sinh, thì trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải
lựa chọ các phương pháp dạy tốt. Giáo viên phải đặt ra tình huống để các em
suy nghĩ, tìm tòi cách giải khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không tránh khỏi
những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý
kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện và đạt
kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy học phân môn
Luyện từ và câu trong mon Tiếng Việt. Kính mong sự đóng góp ý kiến của Ban
lãnh đạo, các đồng chí giáo viên để tôi trưởng thành hơn.

Mông Sơn, ngày 25 tháng 11 năm 2013.
19
Người viết

Nguyễn Thị Minh Thìn
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa, sách giáo viên tiếng việt lớp 4
- Tài liệu tập huấn đổi mới SGK lớp 4 - 2006, 2009
- Chương trình chuẩn kiến thức kĩ năng tiếng Việt lớp 4
- Các phương pháp dạy học tiếng Việt lớp 4
- Tạp chí giáo dục, thế giới trong ta số : 266+267; 272
- Để học tốt môn tiếng Việt lớp 4- NXBGD 2008, 2011
21
MỤC LỤC
TIÊU
MỤC
TÊN ĐỀ MỤC
TRANG
1
PHẦN I: THÔNG TIN TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
1
2
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Đặc điểm chung của tổ chuyên môn lớp 4+5 trường tiểu học
xã Mông Sơn .
2. Lý do chọn đề tài.
3. Mục đích của sáng kiến.

4. Phương pháp nghiên cứu viết sáng kiến.
5. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
5.1. Cơ sở hình thành và phát triển kĩ năng tiếng Việt:
5.2.Cơ sở chương trình SGK Tiếng Việt lớp 4:
2
2
3
4
4
5
5
5
3
Chương II: NỘI DUNG
1. Thực trạng về việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp
4 của giáo viên và học sinh trường tiểu học xã Mông Sơn
a. Đối với giáo viên:
b. Đối với học sinh:
2. Nội dung của sáng kiến.
2.1. Nội dung phương pháp và biện pháp dạy học chủ yếu phân
môn Luyện từ và câu lớp 4:
2.1.1. Nghiên cứu nội dung dạy học phân môn luyện từ và câu
lớp 4
2.1.2. Biện pháp tổ chức hoạt động cho các dạng bài tập.
2.1.3. Phương pháp sử dụng trò chơi học tập để dạy “ Luyện từ
và câu lớp 4”
2.1.4. Biện pháp hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu:
2.1.5. Biện pháp dạy nội dung mở rộng và hệ thống hoá vốn từ:
2.1.6. Biện pháp nâng cao kiến thức về từ, câu, kĩ năng dùng từ,
đặt câu và sử dụng dấu câu:

2.1.7. Biện pháp giúp học sinh tích lũy vốn từ vựng.
2.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
2.3. Phạm vi đối tượng áp dụng của sáng kiến:
2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng sáng kiến.
8
8
8
9
10
10
10
10
11
12
14
14
15
18
18
19
19
4
Chương III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
2. Kiến nghị
20
20
21
Tài liệu tham khảo 23
22

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG








Hiệu trưởng
23
ĐÁNH GIÁ , XẾP LOẠI CỦA HĐTĐ NGÀNH GD&ĐT YÊN BÌNH
















ĐÁNH GIÁ , XẾP LOẠI CỦA HĐSK HUYỆN YÊN BÌNH















24

×