Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM:Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.32 KB, 18 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Tiểu học là cấp học quan trọng, được xem là cơ sở ban đầu đặt nền móng cho
sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Ở cấp
tiểu học phân môn luyện từ và câu có nhiệm vụ làm phong phú
vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho học sinh: cung cấp một lượng
từ ngữ nhất định theo quy định của chương trình, giúp học sinh
hiểu được nghĩa của từ trong hệ thống, hiểu đúng nghĩa và cái
hay của nghĩa từ trong hoạt động thực hiện chức năng giao tiếp
của mình.
Phân môn Luyện từ và câu còn giúp cho các em chiếm lĩnh
ngôn ngữ trong giao tiếp, học tập, hoạt động tạo ra hứng thú và
động cơ học tập. Hơn thế nữa, nhờ có vốn từ dồi dào, cũng giúp
cho các em trở nên tư duy chính xác và chặt chẽ hơn. Vì lẽ đó, ở
trường Tiểu học giáo viên có nhiệm vụ dạy cho học sinh một
cách có hệ thống các phương pháp để hình thành và phát triển
năng lực dùng từ cho học sinh. Phân môn này còn giúp học sinh
tích cực hóa vốn từ, đưa các từ vào tạo câu, tạo lời nói trong học
tập vui chơi, sinh hoạt thường ngày.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy học sinh học và thực
hành phân môn luyện từ và câu chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn, học
sinh mắc lỗi khi làm bài tập còn nhiều. vận dụng từ ngữ còn chưa linh hoạt , làm
các bài tập về từ loại còn sai, đặc biệt là học sinh lớp 5C mà tôi đang trực tiếp
giảng dạy. Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng còn
nhiều băn khoăn và trăn trở bởi sự diễn đạt trong Tiếng Việt rất phong phú và đa
dạng. Do đó, cần phải có biện pháp dạy học phù hợp giúp học sinh học tốt phân
môn Luyện từ và câu đó cũng là lí do mà tôi chọn sáng kiến này.
2. Tên sáng kiến:

1



“Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn
Luyện từ và câu lớp 5”
3. Tác giả: - Họ và tên: Nguyễn Thị Vân Anh
Đơn vị công tác : Trường tiểu học TT Hương Sơn –
Huyện Phú Bình
4. Chủ đầu tư: - Nguyễn Thị Vân Anh - Đơn vị công tác : Trường tiểu
học TT Hương Sơn – Huyện Phú Bình – Tỉnh Thái Nguyên.
5. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm:
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu”
thuộc lĩnh vực chuyên môn Tiểu học (Môn Tiếng Việt - “Phân môn Luyện từ và
câu”).
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 23 tháng 8 năm 2015
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Nội dung sáng kiến:
7.1.1 Tính mới:
Khi lựa chọn sáng kiến trên, tôi đã tìm hiểu và theo dõi kĩ hoạt động học của
học sinh lớp 5C trong tất cả các giờ học để phát hiện những mặt còn hạn chế, từ
đó đào sâu nghiên cứu để cải tiến những biện pháp đang sử dụng trong một số
năm gần đây nhưng chưa triệt để và chưa có kết quả cao, đồng thời tôi xây dựng
và đưa vào áp dụng những biện pháp mới, khác biệt mà trước đây chưa từng
được áp dụng tại lớp tôi và trường tôi như:
- Tìm và phân loại nhỏ ra những lỗi sai phổ biến của từng học sinh như (lỗi
dùng từ, phát âm, diễn đạt,...) Với mỗi loại lỗi, tôi đưa ra những biện pháp nhằm
khắc phục triệt để lỗi đó.
- Bên cạnh những biện pháp sửa lỗi chung cho tất cả các học sinh trong lớp, tôi
còn áp dụng những biện pháp sửa lỗi riêng đối với từng học sinh
- Phát huy cao vai trò học nhóm của các em, tự chủ lĩnh hội kiến thức của học
sinh.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, nhằm phát huy trí tưởng tượng,

kỹ năng quan sát nhằm mở rộng vốn từ cho học sinh.
2


- Dạy học áp dụng trò chơi trong học tập tạo hứng thú cho học sinh.
Các biện pháp mà tôi nghiên cứu và áp dụng đều vừa sức và phù hợp với mỗi
đối tượng nên các em hứng thú, không ngại học, bởi thế nên chất lượng đọc của
lớp tôi ngày càng được cải thiện một cách đáng kể.
7.1.2 Tính khoa học:
Con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ, ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực
của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và
nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát
triển tốt. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý
nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ,
nói viết không chính xác không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể
nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được. Bởi
vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về
mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công của
mình.
Luyện từ và câu ở tiểu học còn giúp học sinh trang bị một số
hiểu biết về ngữ pháp như: giúp nắm được một số khái niệm
ngữ pháp, biết dùng một số câu, kiểu câu. Mục tiêu của phân
môn Luyện từ và câu ở Tiểu học là nhằm đào tạo, cung cấp cho
các em những kiến thức cơ bản để khi các em học xong Tiểu
học thì các em sẽ có kĩ năng dùng từ chính xác, nói và viết theo
đúng ngữ pháp tiếng Việt. Đó cũng chính là đào tạo ra con
người biết giao tiếp trong đời sống. Phân môn Luyện từ và câu
còn giáo dục cho người học những tư tưởng tốt đẹp: yêu tiếng
nói và yêu chữ viết của dân tộc.

7.1.3.Tính thực tiễn
7.1.3.1Thực trạng của việc dạy và học:
* Thuận lợi

3


- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác dạy và học, trang bị đầy đủ SGK,
sách hướng dẫn và được học về sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Phân
môn luyện từ và câu của lớp 5 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể đã được bớt nhiều so
với chương trình Từ ngữ - ngữ pháp của lớp 5 cũ, phân môn chỉ rõ 2 dạng bài:
Bài lý thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng.
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp dưới nên các em đã biết các lĩnh hội
và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh.
* Khó khăn + Luyện từ và câu là một phân môn mới và khó, cho nên giáo viên
còn lúng túng trong việc tổ chức một tiết dạy - học Luyện từ, giáo viên có tâm
lý ngại dạy Luyện từ và câu,
+ Vận dụng phương pháp dạy học còn lúng túng chưa thực sự thu hút. Hiệu quả
dạy - học giờ Luyện từ và câu nhìn chung còn thấp.
+ Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này, việc vận dụng thực hành
còn gặp nhiều khó khăn.
Ngay từ đầu năm, khi lựa chọn sáng kiến này, để nắm bắt được tình trạng chất
lượng học môn Luyện từ và câu của học sinh lớp 5C, tôi đã lập kế hoạch và điều
tra chất lượng học của học sinh bằng cách kiểm tra ngẫu nhiên 36 em học sinh
trong lớp thông qua bài kiểm tra:
Bài tập 1:Tìm các từ thể hiện vẻ đẹp của một số loài cây mà em biết ?
Bài tập 2: Viết đoạn văn ngắn tả một loài cây mà em thích.
* Kết quả thu được như sau:
HS dùng từ, đặt câu

TSHS

chính xác, vận dụng

HS biết dùng từ đặt HS chưa biết dùng

câu
từ đặt câu
viết văn hay
SL
TL
SL
TL
SL
TL
36
9
25%
16
44,4%
11
30,6%
* Nhìn bảng thông kê cho thấy các em học luyện từ và câu còn có nhiều hạn

chế chất lượng môn Tiếng Việt của lớp còn thấp.
7.1.3.2 Nguyên nhân của thực trạng.

4



Qua quan sát, điều tra, tôi đã tìm hiểu được những nguyên nhân gây nên những
lỗi sai mà học sinh thường mắc như sau:
- Vốn từ ngữ chưa phong phú, chưa biết mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Kiến
thức về từ vựng - ngữ nghĩa học của học sinh còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ
suất, sai sót về kiến thức.
- Học sinh ít hứng thú học phân môn này, hầu hết các em được hỏi ý kiến đều
cho rằng: Luyện từ và câu là một môn học khô khan và khó. Một số chủ đề còn
trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi quen thuộc. Trong sách giáo khoa, có
những loại bài tập hoặc xuất hiện quá nhiều, gây tâm lý nhàm chán cho học sinh
(BT điền từ)
- Yêu cầu được nêu ra trong bài tập không rõ ràng, không tường minh và khó
thực hiện (bài tập dùng từ viết thành đoạn văn ngắn).
- Phương pháp dạy của nhiều giáo viên trong giờ Luyện từ và câu còn đơn điệu,
lệ thuộc vào sách giáo viên, ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được
học sinh.
- Điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham khảo phục vụ
việc giảng dạy Luyện từ và câu cũng như tranh ảnh, vật chất và các đồ dùng dạy
học khác chưa phong phú.
* Những sai lầm thường mắc khi học Luyện từ và câu:
- Các em thường mắc các lỗi về tiếng và từ:
- Các lỗi về thanh: còn một số em nhầm lẫn giữa thanh hỏi và thanh ngã.
- Xác định từ loại còn nhầm lẫn.
- Các em chưa có hứng thú học môn luyện từ và câu vì vốn từ chưa phong phú.
- Lĩnh hội kiến thức mới còn nhiều hạn chế, chưa vững.
- Do các em lười đọc sách không chịu khó rèn luyện, hoặc do ít tiếp xúc với
môi trường bên ngoài xã hội.
7.1.4. Biện pháp thực hiện:
Để tiết dạy - học Luyện từ và câu ở lớp 5 đạt hiệu quả cao, Để đưa chất
lượng dùng từ, câu đúng, phong phú và có sự thay đổi về vốn từ
ở học sinh, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:

5


*Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn HS hình thành kiến thức
mới.
* Việc hình thành kiến thức mới để học sinh nắm vững khái niệm và vận dụng
vào thực hành là việc làm hết sức quan trọng trong việc cung cấp kiến thức cho
học sinh. Do vậy giáo viên cần làm tốt:
- Bài dạy kiến thức mới ( Bài dạy lý thuyết) về từ và câu thường gồm 3 phần:
Nhận xét, Ghi nhớ và Luyện tập.
- Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu có liên quan đến nội dung bài học nhằm
giúp các em tự hình thành kiến thức
* GV tổ chức cho HS khai thác ngữ liệu ở phần nhận xét theo các hình thức:
+ Trao đổi chung cả lớp.
+ Trao đổi theo từng nhóm.
+ Tự làm bài cá nhân.
- Dù theo hình thức nào thì GV cũng cần chú ý dẫn dắt HS để hướng cho các
em tự rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến thức.
- Ghi nhớ là phần chốt lại những những điểm cốt lõi về kiến thức được rút ra
qua việc phân tích ngữ liệu. HS cần nắm vững kiến thức này bằng cách:
+ Tự rút ra những điểm chính cần ghi nhớ qua phân tích ví dụ.
+ Đọc phần Ghi nhớ trong SGK.
+ Nêu những điểm cần ghi nhớ mà học sinh có thể đã tự lĩnh hội được sau bài
học.
- Luyện tập là phần bài tập thực hành nhằm củng cố và vận dụng kiến thức đã
học. HS cần chủ động nhiều hơn khi thực hiện các yêu cầu của bài tập. GV có
thể cho HS nhắc lại một số kiến thức có liên quan, sau đó tổ chức cho HS làm
bài tập theo các hình thức cá nhân, cặp đôi, nhóm,.. Giáo viên cần lưu ý:
+ Hướng dẫn HS tìm hiểu kỹ yêu cầu của bài tập.
+ Chữa mẫu cho HS một bài hoặc một phần của bài tập.

+ Hướng dẫn HS làm bảng con, bảng lớp, bảng nhóm, vở nháp, vở bài tập…
+ Hướng dẫn HS tự kiểm tra hoặc đổi bài để bạn kiểm tra.

6


+ Hướng dẫn HS chữa bài tại lớp để rút kinh nghiệm chung và củng cố kiến
thức, kỹ năng cần đạt.
* Ở phần này giáo viên phát huy vai trò học nhóm của học sinh nhằm phát huy
vốn từ của các em.
* Biện pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức bài học mới
* Khi dạy về nghĩa của từ, chúng ta cần, hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức
bài học nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy được tính tích cực của học sinh.
- Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với sự vật, hoạt động, tính chất mà nó
biểu thị.
*Ví dụ: Giải thích từ “Sầu riêng”, Tôi cho học sinh nhìn thấy quả sầu riêng
(quả có gai cứng ở vỏ, khi chín vỏ có màu xanh, múi vàng tựa như múi mít, ngọt
như quả vải).
+ Giải nghĩa từ “mang”,vác” chúng tôi cho các em làm động tác để quan sát.
- Ngoài ra, có thể dùng tranh ảnh, mô hình...cho quan sát, từ đó nêu nghĩa của
từ (bằng cách này học sinh có thể hiểu nghĩa của từ chỉ các sự vật, hiện tượng
không trực tiếp nhìn thấy hoặc diễn ra ở xung quanh).
- Mặt khác, tôi còn tìm cách giải thích nghĩa của từ sát hợp với tâm sinh lý lứa
tuổi học sinh tiểu học. Cụ thể lối miêu tả, trực quan khi giải nghĩa từ. Bên cạnh
đó, tôi còn chấp nhận và khuyến khích cách giải nghĩa từ theo lối “khôi phục
các biểu tượng”, hoặc giải nghĩa từ một cách “mộc mạc, gần gũi”...của học sinh.
* Ví dụ:
+ Giang sơn: Đất nước mình.

+ Ông ngoại: Người sinh ra mẹ.


*Ví dụ: dạy bài Từ trái nghĩa (tiết 1- tuần 4).
- Khi dạy loại bài này, tôi dùng bài thơ sau để giúp học sinh nhận biết từ trái
nghĩa.
Dòng sông bên lở bên bồi
Bên lở thì đục bên bồi thì trong
Khôn nhà dại chợ long đong
Việc này hẳn có tay trong tay ngoài
Lươn ngắn lại chê trạch dài
7


Vụng chèo khéo chống khen ai vững vàng….
Muốn tìm được cặp từ trái nghĩa, trước các cặp từ còn đang “Nghi vấn”, học
sinh cần trả lời 2 câu hỏi nhỏ sau: thứ nhất “nghĩa của 2 từ trong mỗi câu thơ có
đối lập nhau không, trái ngược nhau không?”, thứ hai : “cơ sở chung của sự đối
lập về nghĩa của 2 từ là gì ?”. Trả lời được 2 câu hỏi trên, học sinh đã xác định
có cơ sở chắc chắn về từ trái nghĩa.
- Cuối tiết học tôi củng cố kiến thức bằng cách tổ chức thi sử dụng và tìm từ
trái nghĩa dưới dạng 2 loại bài tập điền từ vào chỗ trống và đặt câu với từ trái
nghĩa
Hình thức vừa dạy vừa tổ chức trò chơi như vậy ngay trong không gian lớp
học, tại thời gian của lớp học làm cho học sinh đỡ căng thẳng, tạo được hứng thú
và niềm tin trong học tập.
*Ví dụ: dạy về nghĩa của từ qua bài Từ nhiều nghĩa
Để chuyển tải được khái niệm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ khi dạy bài
khái niệm về nghĩa của từ, tôi đã tìm cách đặt từ vào trong câu, nói rộng hơn là
đặt từ trong ngữ cảnh. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hoá, cụ thể hoá nghĩa của
từ và để học sinh hiểu vấn đề, chúng tôi cung cấp: trong các nghĩa khác nhau
của từ nhiều nghĩa, nghĩa nào là nghĩa trực tiếp, gần gũi, quen thuộc “dễ hiểu”

thì đó là nghĩa gốc; còn nghĩa nào là nghĩa gián tiếp, phải suy ra, hiểu rộng ra từ
nghĩa gốc, không thật gần gũi quen thuộc lắm, có phần “khó hiểu” thì đó là
nghĩa chuyển.
- Ví dụ: Để phân biệt nghĩa gốc hay nghĩa chuyển của từ “Mắt” thì các em dựa
vào nghĩa của chúng trong ngữ cảnh, và phải hiểu “mắt” dùng để làm gì? có
nghĩa gốc là gì?
* Mắt: - Đôi mắt em rất đẹp.
- Quả na mở mắt.
Với cách dẫn dắt cụ thể như vậy, học sinh đã nhận biết được nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ rất nhạy bén.
Cách tổ chức giờ học như vậy nhằm củng cố kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu
tích cực hoá hoạt động học tập của các em, hình thành năng lực tư duy tốt mỗi
8


học sinh và phát triển rèn luyện óc suy nghĩ tổng hợp, sự quan sát nhanh cùng
với sự thích thú của lứa tuổi hiếu động, giàu cảm xúc, hồn nhiên, luôn ưa thích
cái mới lạ, vui tươi, hấp dẫn nhằm tăng hứng thú học tập của học sinh.
*Biện pháp thứ ba: Xây dựng trò chơi học tập trong
giờ luyện từ và câu. Tùy theo loại bài tập mà giáo viên sẽ tổ
chức trò chơi phù hợp. Sẽ thu hút được hầu hết học sinh tham
gia tích cực trong việc rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng
dấu câu ở các giờ Luyện từ và Câu.
Ví dụ: Dạy bài Từ trái nghĩa (tiết 1- tuần 4).
+ Khi dạy loại bài này, tôi sử dụng trò chơi “đố vui”. Tôi dùng
bài thơ sau để giúp học sinh thực hiện trò chơi và nhận biết từ
trái nghĩa.
+ Cách thực hiện: Các nhóm thảo luận (nhóm 2) tìm cặp từ trái
nghĩa trong từng dòng thơ, sau đó học sinh các nhóm đố nhau
(nhóm 1 đọc 1 dòng thơ, nhóm 2 tìm cặp từ trái nghĩa trong

dòng thơ đó. Sau đó nhóm 2 sẽ làm ngược lại…và cứ tiếp tục
cho đến hết).
Anh em trên dưới một lòng
Thuyền bè xuôi ngược trên sông sớm chiều
Nghe giảng em hiểu ít nhiều
Đừng nói nặng nhẹ những điều chẳng hay
Đảm đang lo việc trước sau
Thì thầm to nhỏ kề tai dành dành….
+ Học sinh sẽ vận dụng kiến thức của mình trao đổi với bạn
trong nhóm, dựa trên cơ sở nghĩa của chúng có đối lập không
để tìm từ.
Cuối tiết, tôi củng cố kiến thức bằng cách tổ chức thi sử dụng
từ trái nghĩa dưới dạng 2 loại bài tập sau:
+ Loại bài tập 1: Điền từ trái nghĩa vào chỗ trống trong từng
câu thơ sau
9


Ví dụ :

Yếu trâu còn hơn …………… bò
Bé lại xé ra ............đáng buồn
Lành làm gáo, ……. làm muôi
Ở ……. người cười, ở hẹp người chê

+ Loại bài tập 2: Đặt câu với cặp từ trái nghĩa, dạng bài tập điền từ,
học sinh cần được dựa vào từ cho sẵn (từ in đậm trong câu thơ), coi đó là từ
“điểm tựa” để tìm từ có nghĩa trái ngược, tạo nên một cặp từ trái nghĩa hoàn
chỉnh. Còn ở dạng bài tập đặt câu, học sinh cần căn cứ vào đặc trưng về nghĩa
của cặp từ trái nghĩa

đó để đặt câu có nội dung thích hợp.
Kết quả cho thấy tất cả học sinh trong nhóm đã chú ý tham gia học tập một
cách tích cực đã mang lại kết quả cao cũng như chất lượng cao hơn cho phân
môn Luyện từ và Câu ở lớp 5.
Biện pháp thứ tư: Mở rộng vốn từ cho học sinh.
Đây là nhiệm vụ cơ bản của phân môn Luyện từ và câu. Khi có vốn từ phong
phú, học sinh rất thuận lợi trong giao tiếp và tư duy. Ở lớp 5, loại bài tập mở
rộng vốn từ, phát triển vốn từ được sử dụng khá nhiều dưới các dạng khác nhau:
Tìm từ ngữ cùng chủ đề, tìm từ có tiếng cho trước, tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa,
tìm từ có cùng yếu tố cấu tạo. Có thể mở rộng vốn từ bằng nhiều cách:
+ Cách ghép từ: Xuất phát từ từ gốc, bằng phương pháp ghép từ sẽ cho ra các
từ mới.
* Ví dụ: Bài tập 3 - Tiết 3 (Sgk 5) yêu cầu học sinh tìm một số từ có tiếng
“đồng” (theo nghĩa là cùng).
* Để học sinh có được vốn từ khá phong phú, tôi đã cho học sinh thi tìm từ điền
vào bài thơ sau:
...................tiến bước trước sau nhịp nhàng (đồng hành)
...................tay nắm chặt tay (đồng chí)
...................sum họp bốn phương một nhà (đồng bào)
..................quần áo quả là đẹp thay (đồng phục)
*Ví dụ: tìm một số từ có tiếng “cổ” (xưa, cũ).
10


Giáo viên nói: Người ta coi đồ cổ là vật quí, nhưng nhiều thứ cổ khác lại quí
hơn nhiều. Em đọc bài thơ sau và hãy tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để
thấm thía hơn về giá trị của những thứ “cổ” ấy.
Đầu xuân vui tết .......(cổ truyền).
Hội làng: vật võ, đu tiên, chọi gà.
Ngôi chùa……………làng ta (cổ kính).

Mùa hè gió mát là đà bóng cây
Quê mình đẹp nhất nơi đây
Cây đa ………..hồ đầy nước trong (cổ thụ)
a. Phương pháp liên tưởng: Từ 1 từ hoặc cụm từ cho trước sẽ cho ra 1 từ mới
cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn.
Loại bài tập này bao gồm một số dạng sau:
Ÿ Dạng 1: Điền từ vào chỗ trống.
Sạch sẽ là không ..................
............là không lộn xộn
.............là không luộm thuộm.
Ÿ Dạng 2: Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa được nêu trực tiếp.
Loại bài tập này giúp học sinh thu thập thêm những từ đồng nghĩa, trái nghĩa
mà trước nay bản thân chưa biết hoặc chưa nhận ra, đồng thời tạo cho học sinh
một sự nhạy cảm, để đến khi có nhu cầu giáo tiếp ngôn từ thì có thể dễ dàng huy
động các từ đồng nghĩa, trái nghĩa có như vậy vốn từ của học sinh mới ngày
càng phong phú, mới đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong hoạt động nói - viết
của học sinh.
b. Phương pháp láy: Tìm ra từ mới bằng cách lặp lại một bộ phận của từ, hoặc
láy lại từ đã cho.
*Ví dụ: Từ từ gốc “xinh” láy từ sẽ cho ra các từ: Xinh xẻo, xinh xinh, xinh xắn.
7.1.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Với những biện pháp trên, qua gần 1 năm thực hiện trên lớp 5C, tôi nhận thấy:
- Giờ học Luyện từ và câu trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả hơn.

11


- Chất lượng giờ học được nâng lên: tỉ lệ học sinh hiểu bài, phát biểu bài nhiều
hơn, chính xác hơn.
- Học sinh tích cực, chủ động hơn trong giờ học.

- Học sinh ham thích khi được học Luyện từ và câu.
- Học sinh được bộ lộ khả năng của mình trước lớp qua các bài tập, trò chơi, câu
đố.
- Vốn từ ngữ của học sinh phong phú hơn, trong giao tiếp học sinh nhạy bén, tự
tin, nói năng dùng từ chuẩn xác hơn.
- Đặc biệt các em nhạy bén trong việc tìm từ mới qua từ cho sẵn.
* Tôi đã cho học sinh hai lớp 5C và 5B, lớp 5C là lớp mà tôi áp dụng các
biện pháp đã nêu còn lớp 5B là lớp không áp dụng làm một bài kiểm tra để
kiểm chứng như sau:
Bài tập 1: Xếp các từ dã cho sau đây thành những nhóm từ đồng nghĩa: đỏ,
trắng, xanh, hồng, điều, bạch, biếc, đào, lụa, son
Bài tập 2: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ với nhau như thế nào?
- Đó là những từ đồng nghĩa.
- Đó là những từ đồng âm.
- Đó là một từ nhiều nghĩa.
a)

đánh cờ, đánh giặc, đánh trống

b)

trong veo, trong vắt, trong xanh

c)

thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành

Bài tập 3: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 câu tả ngoại hình một cụ già mà em
biết.
*Kết quả cụ thể được so sánh như sau:

Lớp áp dụng các biện pháp
Lớp 5C

Lớp không áp dụng các biện pháp
Lớp 5B

12


HS dùng

HS dùng từ,

T
S

đặt câu

HS biết HS

chính xác,

dùng từ biết dùng từ

vận dụng

đặt câu

từ, đặt câu


chưa

đặt câu

chính xác,
T

vận dụng

S

viết văn

35

hay
9

viết văn hay
36

21

15

0

HS
dùng
đặt câu


biết HS chưa biết
từ dùng từ đặt
câu

21

5

- Qua bảng tổng hợp so sánh và trong quá trình làm đề tài tôi đã áp dụng những
biện pháp đã nêu trên với học sinh lớp 5C do tôi phụ trách và thấy được sau mỗi
biện pháp áp dụng vào thực tế giảng dạy, các em tiếp thu bài nhanh hơn 100%
học sinh lớp 5C nắm chắc cấu tạo của thể loại bài lý thuyết hay dạng bài thực
hành, tiết học đã gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Đến cuối năm học, tổng số 36 học sinh đã có tới trên 80% các em đạt điểm 7
trở lên trong khi số bài điểm dưới 5 không còn nữa kết quả được thể hiện qua
bài kiểm tra cuối kỳ II môn Tiếng Việt .Cụ thể:
TSHS
36

Điểm 9&10
L
TL
17 47,2%

Điểm 7&8
SL
TL
14 38,9%


Điểm 5&6
SL
TL
5 13,9%

Điểm dưới 5
SL TL
0
0

Khi áp dụng những biện pháp đã nêu ở trên cho thấy hiệu quả rất tốt. Trong
giờ học, học sinh không còn cảm giác lo sợ, chán nản khi học luyện từ và câu,
việc sử dụng từ ngữ hay vốn từ của học sinh cũng được phong phú hơn . Đó
cũng là thành công bước đầu mà đề tài mang lại.
7.2 Khả năng áp dụng của sáng kiến
Sau khi áp dụng các biện pháp đã nêu ở trên trong việc hướng dẫn học sinh
học tốt phân môn, vận dụng thực hành cho học sinh lớp 5C có hiệu quả. Tôi đã
mạnh dạn chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp trong tổ 4 + 5 khi họp tổ chuyên
môn để cùng thảo luận và đều được các đồng chí trong tổ ủng hộ đồng thời cùng
triển khai áp dụng đối với các lớp trong khối 5 và đều có kết quả tốt. Bởi vậy
các đồng nghiệp trong khối đều đánh giá rằng: Sáng kiến kinh nghiệm của tôi rất

13


phù hợp và sát thực tế, có biện pháp phù hợp đối với mọi đối tượng học sinh và
vận dụng tốt vào giảng dạy..
8. Những thông tin cần bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là phân môn luyện từ và câu tôi nghĩ

cần phải có các điều kiện sau:
*Nhà trường:- Tạo điều kiện về thời gian, đồ dùng, tranh ảnh , máy chiếu phục vụ
cho giảng dạy tốt hơn. Tạo điều kiện về cơ sở, vật chất để có những phòng học
thoáng mát, bàn ghế đủ quy cách…
* Giáo viên:- Phải chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi đến lớp. Tìm hiểu mối
liên quan giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, đồng thời chuẩn bị những tình
huống và đồ dùng cần thiết cho tiết dạy.
- Thường xuyên học tập rèn luyện phát huy vốn từ ngữ và thay đổi phương pháp
giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao hứng thú học tập của các em
- Liên hệ với phụ huynh để có biện pháp kèm các em học ở nhà.
*Học sinh:- Học sinh cần có ý thức tự thực hiện tốt những bài giao về nhà.Có ý
thức học và chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, sách vở cần thiết trước khi lên lớp.
*Phụ huynh:- Phụ huynh cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, kiểm tra,
đôn đốc việc tự học ở nhà của các em thường xuyên, liên tục. Mua đủ sách vở,
đồ dùng học tập cho con em mình, mua thêm báo, truyện để các em đọc.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến:
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau khi điều tra, tìm giải pháp và áp dụng thực hành sáng kiến của mình trong
quá trình giảng dạy tôi nhận thấy:
Sau mỗi tiết dạy Luyện từ và câu, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản và tự tin
khi học sinh học tập tích cực chủ động, sáng tạo, ngày càng tiến bộ. Bản thân
không còn cảm thấy ái ngại và khó khăn mỗi khi dạy phân môn Luyện từ và câu.
Việc dạy tốt phân môn Luyện từ và câu là động lực để tôi dạy tốt những môn
học khác.
14


* So với các biện pháp dạy học trước đây tôi đã từng áp dụng và so sánh với lớp
khác không áp dụng thì nay với việc áp dụng các biện pháp dạy học này triệt để

học sinh của tôi nắm bài nhanh và hứng thú học tập hơn, vốn từ ngữ được mở
rộng, khả năng vận dụng thực hành cũng chính xác và linh hoạt hơn, tiết kiệm
được thì giờ học tập cũng như giảng dạy cửa cô và trò khi tham gia môn học.
* Kết quả đã được kiểm chứng và so sánh ở trên qua bài kiểm tra ở hai
lớp 5B và 5C.
Lớp áp dụng các biện pháp
Lớp 5C

Lớp không áp dụng các biện pháp
Lớp 5B
HS dùng

HS dùng từ,
T
S

đặt câu

HS biết HS

chưa

T

chính xác,

dùng từ biết dùng từ

S


vận dụng

đặt câu

21

15

chính xác,
vận dụng

đặt câu

viết văn

viết văn hay
36

từ, đặt câu

0

35

hay
9

HS
dùng
đặt câu


21

biết HS chưa biết
từ dùng từ đặt
câu

5

- Học sinh học tập trong không khí tự nhiên thoải mái, tích cực và hào hứng
nhất là vào tiết làm bài miệng, ngoài việc các em nêu lên ý kiến diễn đạt của
mình mà các em còn nhận xét được ý vừa nêu của bạn theo nhận thức của em
một cách chân thật nhất.
- Các em có điều kiện để bộc lộ những khả năng tư duy, hiểu biết, khả năng
diễn đạt, phát triển vốn từ, trí thông minh và óc sáng tạo.
- Trong văn nói các em mạnh dạn hơn, diễn đạt lưu loát đầy đủ ý. Trong văn
viết các em tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học,
10.2 . Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
- Sinh hoạt và giảng dạy ở tổ 4,5 khi làm sáng kiến và quá trình áp dụng tôi
đều chia sẻ và được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của đồng nghiệp trong tổ và
trong trường. Đặc biệt sáng kiến của tôi được bạn bè đánh giá là có tính khả thi
cao và áp dụng được phù hợp với đối tượng học sinh trên địa bàn mình và có thể
nhân rộng.
15


V phớa hc sinh lp 5C i tng trc tip c tụi ỏp dng th nghim sỏng
kin thỡ hu ht cỏc em khi c hi v mụn hc ny thỡ u tr li t nhiờn
thoi mỏi khụng cũn cú cm giỏc lo s hay ngi hc, mi khi nhc n nú, hu

ht hc sinh u ham thớch v hng thỳ hc tp phõn mụn ny.
- Kt qu hc tp ca hc sinh phõn mụn Luyn t v cõu qua cỏc kỡ kim tra
c nõng lờn mt cỏch rừ rt. n cui nm hc nú ó gúp phn vo thnh tớch
hc tp ca cỏc em v thnh qu hc tp v rốn luyn ca cỏc em c cỏc thy
cụ giỏo v nh trng cụng nhn kt qu cui nm hc v thnh tớch ca tp th
v cỏ nhõn c th nh sau:
* Kt qu cui nm hc lp tụi ó t c nhng thnh tớch ỏng k sau:
- Gii toỏn bng ting Anh qua mng cp trng: 2 em
- Gii toỏn bng ting Anh qua mng cp cp huyn: 1 em
- Môn học, hoạt động giáo dục( kiến thức, kỹ năng): Hon
thnh:36 em = 100%
- Mức độ hình thành và phát triển năng lực: t: 36 em = 100%
- Mc hỡnh thnh v phỏt trin phm cht: t: 36 em = 100%
- Hc sinh c khen: 28 em t: 77,7%
- Hc sinh hon thnh chng trỡnh Tiu hc: 36 em t 100%
11. Danh sỏch t chc, cỏ nhõn ó tham gia ỏp dng sỏng kin
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13


H v tờn

a ch

Trn Phng Anh
Nguyn Qunh Anh
Nguyn Tun Anh
Ngụ Th Anh
T T Huyn Chi
Dng Vn Duy
Ng Hng Duyờn
Trng Tin t
Dng Th Hnh
Dng Th Hng
Giỏp Th Hoa
Nguyn Vit Hng
Dng Th Hng

Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C
Lp 5C

Lp 5C
Lp 5C
16

Phm vi/Lnh vc
ỏp dng sỏng kin
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5
Phõn mụn LT&C Lp 5


Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
14
Dương T Lan Hương
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
15
Bùi Thị Diệu Linh
Lớp 5C

Phân môn LT&C Lớp 5
16
Ngô Hoài Linh
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
17
Dương Văn Lộc
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
18
Ngọ Hiền Mai
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
19
Trần Văn Mạnh
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
20
Nguyễn Bình Minh
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
21
Dương Thế Nam
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
22
Nguyễn Văn Nam
Nguyễn Khắc Quân
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5

23
Dương T Như Quỳnh
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
24
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
Dương Tuyết Quỳnh
25
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
26
Trần Văn Sơn
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
27
Nguyễn Gia Sinh
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
28
Nguyễn Văn Toàn
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
29
Dương Viết Thạo
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
30
Nguyễn Công Thành
Lớp 5C

Phân môn LT&C Lớp 5
31
Nguyễn Thị Thắm
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
32
Nguyễn Anh Thư
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
33
Vũ Minh Trí
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
34
Nguyễn Minh Trung
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
35
Dương Anh Tuấn
Lớp 5C
Phân môn LT&C Lớp 5
36
Trần Quang Vinh
Tổng
36
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 5C – Trường Tiểu học Thị
trấn Hương Sơn học tốt môn luyện từ và câu mà tôi đã áp dụng thực hiện trong 1
năm học vừa qua.Tôi mong rằng sáng kiến này sẽ được các đồng nghiệp và hội
đồng khoa học các cấp nhận xét và bổ sung góp ý để sáng kiến này thêm hoàn
thiện hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường Tiểu học Thị trấn

Hương Sơn nói riêng và sự nghiệp giáo dục của huyện Phú Bình nói chung
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hương Sơn,ngày.....tháng 5.năm2016
Thủ trưởng tổ chức, đơn vị

Hương Sơn, ngày 25 tháng 5 năm 2016.
Tác giả sáng kiến

Nguyễn Thị Vân Anh
17


18



×