Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Tiểu luận Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.96 KB, 43 trang )

Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong lịch sử từ xa xưa đến nay, không một cộng đồng, một quốc gia hay
một dân tộc nào có thể phát triển bình thường mà không quan hệ không trao đổi
giao lưu trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, … với các cộng
đồng dân tộc và các quốc gia khác. Do đó quan hệ quốc tế xuất hiện với tư cách là
quan hệ lâu đời và phổ biến. Nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả cần thiết cho mọi
quá trình phát triển xã hội. Toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế khách quan.
Trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia
tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự chấm dứt
chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang thời kỳ mới – hoà bình hợp tác và phát
triển. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế kéo theo nó là những cơ hội
và thách thức mới cho các quốc gia khi tham gia vào quá trình đó.
Việt nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia vào hội nhập kinh tế
thế giới là một nội dung, một khía cạnh quan trọng hiện nay. Do vậy, việc nghiên
cứu tìm hiểu sâu về toàn cầu hoá kinh tế là vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “xu hướng toàn cầu
hóa kinh tế ” làm đề tài viết tiểu luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Nghiên cứu các xu hướng toàn cầu hóa nhằm mục đích tìm hiểu các tác
động của toàn cầu hóa kinh tế đối với Việt Nam và đẩy mạnh việc hội nhập sâu và
rộng của Việt Nam.

3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Tiểu luận tập trung vào nghiên cứu các xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.



Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: nghiên cứu xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới

- Thời gian: Từ thế kỷ XX đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh
theo thời gian, phương pháp đồ thị và biểu đồ.

5. Cấu trúc đề tài.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, mục lục, khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về toàn cầu hóa kinh tế.
Chương 2. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
Chương 3. Thời cơ và thách thức với Việt nam trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế.

\


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ

Nguyên nghĩa


viết tắt
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

FDI
TNCs
EU
M&A
UNDP
UNCTAD
GDP
NAFTA

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các công ty xuyên Quốc gia
Liên minh châu Âu
Mua lại và sát nhập

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương

ASEM
IMF
WB
WTO
TPP
16 TCH

17 QTH

Chương trình phát triển liên hiệp Quốc
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về hợp tác và phát triển
Tổng sản phẩm quốc nội
Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
Diễn đàn hợp tác Á Âu
Quỹ tiền tệ Quốc tế
Ngân hàng thế giới
Tổ chức thương mại thế giới
Hiệp định đối tác xuyên thái bình dương
Toàn cầu hóa
Quốc tế hóa

Toàn cầu hóa kinh tế

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Xu hướng dài hạn trong giá trị và khối lượng xuất khẩu hàng hóa của
thế giới thời kỳ 1950 – 2010……………………………………………………11
Bảng 2.2. Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa của thế giới thời kỳ 1995 –
2004…………………………………………………………………………….12
Bảng 2.3. Dòng vốn FDI trên thế giới thời kỳ 1970-2010…………………… 14


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1.1. Khái niệm
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và

trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên quy
mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để
chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do
thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ,
thông tin .
Thực chất toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt
động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn
nhau gữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế
thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ
và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên
phạm vi toàn cầu hoá. Quá trình tham gia vào xu thế đó là của các quốc gia được
gọi là hội nhập kinh tế.
Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm đa phương diện: kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội.v.v. Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm vừa
là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của toàn cầu hoá. Toàn cầu
hóa về kinh tế là sự liên kết của nhiều nước cùng trong chiều hướng phát triển
chung, cùng tham gia trong một thị trường chung. Toàn cầu hóa kinh tế gúp thúc
đẩy nhanh chóng quan hệ kinh tế thương mại trên phạm vi quốc tế và nó cũng
chứa đựng những cơ hội cũng như những thách thức lớn.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng
nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration
internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực
chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu
Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự

hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến
tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
Hội nhập quốc tế Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định
nghĩa khác nhau về khái niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận
chủ yếu sau:
- Cách tiếp cận thứ nhất thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho
rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản
phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ.
Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới
các khía cạnh luật định và thể chế
- Cách tiếp cận thứ hai với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước
hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương
mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các
cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an
ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an
ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội
nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
- Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi
các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân
công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo
đuổi.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội
nhập trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía
cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà
nước liên bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích thực tiễn
của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau như hiện

nay trên thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn đến một Nhà nước
liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện tượng hội nhập
vừa trong quá trình tiến triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra
được những nội dung khá cụ thể và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần
phân tích và giải thích nhiều vấn đề của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập
trung vào hành vi của hiện tượng, không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng
như kết quả cuối cùng của hội nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong
khả năng giải thích bản chất của quá trình hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ
khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham
gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội
nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập
kinh tế quốc tế.Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh
tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên
kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra
được sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international
economic integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý
chính trị và lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử
dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn
khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về
hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các
nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh thế
giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng
Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu

(EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và Thị trường
chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v... Trong thực
tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập
quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm
“hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới
làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu
chính.
Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ
chức quốc tế và khu vực.
Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia
vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít
giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng
hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc
tế” đều không đầy đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận
phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến
lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho rằng cách
tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm
toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội
nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi
chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp
tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của
nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế

thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia.
Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định
chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ
thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: hoặc là một tổ chức liên chính phủ (các
thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn
như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), hoặc là một tổ chức siêu quốc gia (các
thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái
này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ,
Canada…), hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên
trao một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một
phần chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của
quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các
cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực
lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc gắn kết nền kinh tế nước ta với các nền
kinh tế khác trên thế giới, xây dụng một nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và
thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở việt nam.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B


xóa bỏ từng bước rào cản về thương mại và đầu tư của các nước đối

với nước ta, mở rộng thị trường nước ngoài, phát huy lợi thế của mình và tiếp thu
công nghệ tiên tiến hiện đại, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng

đổi mới để nâng cao tính cạnh tranh thị trường.


Tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế, phân bổ nguồn lực hiệu quả, đổi

mới cơ cấu kinh tế, nâng cao mức sống dân cư, mở rộng giao thương, thu hút được
nhiều về khoa hoc, kỹ thật-công nghệ, tài chính, ý tưởng. Chỉ có hội nhập kinh tế
mới khai thác được hết nội lực sẵn có của đất nước, để tạo ra những thuận lợi phát
triển kinh tế , đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Đặc biệt thu hút vốn đầu tư
nước ngoài mang vốn và công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên
có sẵn của nước ta để sản xuất, đồng thời giúp các doanh nghiệp trong nước huy
động và sử dụng vốn có hiệu quả, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn kỹ năng cho các
nhà quản lý trong nhiều lĩnh vực.
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc
gia. Hình thức thương mại này thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế thế giới, trong đó giá
cả, cung và cầu, tác động và bị tác động bởi các sự kiện toàn cầu.
Thương mại toàn cầu tạo cơ hội cho người tiêu dùng và các nước được tiếp xúc
với hàng hoá, dịch vụ mà nước họ không có. Hầu như tất cả các loại sản phẩm bạn
cần đều được tìm thấy trên thị trường quốc tế: thực phẩm, quần áo, phụ tùng, dầu,
đồ trang sức, rượu vang, cổ phiếu, tiền tệ và nước. Các dịch vụ cũng được giao
dịch như du lịch, ngân hàng, tư vấn và vận tải. Khi một sản phẩm được bán ra thị
trường thế giới được gọi là xuất khẩu, và khi một sản phẩm được mua từ thị
trường thế giới được gọi là nhập khẩu. Nhập khẩu và xuất khẩu được hạch toán
vào tài khoảng vãng laiong cán cân thanh toán của một quốc gia.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

1.2. Nguồn gốc của toàn cầu hóa
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, toàn cầu hoá nói chung bắt

nguồn từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn giáo ra
ngoài biên giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các công ty xuyên
quốc gia, các ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công nghệ, sự phát triển
gắn với hiện đại hoá… Toàn cầu hoá kinh tế là kết quả của sự quốc tế hoá sản xuất
cao độ và phân công quốc tế, nó xuất hiện và phát triển cùng với thị trường thế
giới.
Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển thấp, giao thông
kém phát triển, quy mô sản xuất và trao đổi nhỏ bé, thị trường khép kín, không có
thị trường mang ý nghĩa hiện đại.
Khi nền sản xuất tư bản phát triển, thị trường thế giới mở rộng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn bằng những sản
phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng
những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô
lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển
những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”
Luận điểm này của C.Mác và Ph.Ăngghen cho thấy, sự quốc tế hoá, toàn
cầu hoá đời sống kinh tế đã được bắt đầu từ khi chủ nghĩa tư bản mở rộng thị
trường thế giới, khi phát hiện ra châu Mỹ cách đây hơn 500 năm. Sự phát triển của
quốc tế hoá đời sống kinh tế lúc đầu còn theo ngành dọc, theo hệ thống thuộc địa
của các nước đế quốc thực dân, trên cơ sở sự phân công quốc tế và xuất khẩu tư
bản xuất phát từ các chính quốc đến các nước thuộc địa, thông qua bạo lực và bóc
lột kinh tế. Khi chủ nghĩa đế quốc xuất hiện, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt
giữa các thế lực đế quốc trong phân chia thuộc địa và thị trường thế giới, sự quốc


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

tế hoá đời sống kinh tế đã mở rộng cả theo chiều ngang. Rồi các cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai nổ ra, quan hệ chính trị và kinh tế thế giới đảo
lộn, khủng hoảng và biến động, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế bị đẩy lùi.

Sự xuất hiện nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vào năm 1917
và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai tạo nên một kiểu quan hệ mới giữa các quốc gia dân tộc. Kiểu quan hệ mới này
bước đầu mở ra kiểu quốc tế hoá đời sống kinh tế mới, dựa trên tính ưu việt của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong quan hệ
quốc tế của chủ nghĩa tư bản, đặt nền móng cho sự quốc tế hoá chân chính. Song,
do những thăng trầm của lịch sử, trong những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô sụp
đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, kiểu quan hệ kinh tế quốc tế này đã kết thúc.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất vẫn ngày càng phát triển. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức hình thành, đời
sống kinh tế quốc tế hoá, toàn cầu hoá; các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển
và trở thành lực lượng chi phối thế giới. Có thể nói, từ sau chiến tranh lạnh, toàn
cầu hoá kinh tế dường như chủ yếu gắn liền với chủ nghĩa tư bản.
Mặc dù vậy, trên thực tế hiện nay vẫn tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa
và những nước này đang phát triển. Do vậy, nghiên cứu toàn cầu hoá kinh tế
không thể bác bỏ một thực tiễn lịch sử là toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra trong
bối cảnh hình thành cục diện kinh tế đa cực, hình thành một trật tự kinh tế, chính
trị quốc tế mới, trong đó có hình thức phát triển, hợp tác, cạnh tranh và cùng nhau
phồn vinh của các quốc gia dân tộc. Và khái niệm toàn cầu hoá hiện đại muốn bàn
ở đây là nói đến xu thế khách quan đang diễn ra trong thời đại hiện nay.
1.3.Mối quan hệ giữu toàn cầu hóa với quốc tế hóa.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

Toàn cầu hóa là đỉnh cao của quá trình quốc tế hóa, trong đó quốc tế hóa là
việc lưu thông hóa quá trình tái sản xuất sức lao động bao gồm hàng hóa, vốn và
sức lao động. Cả toàn cầu hóa và quốc tế hóa đều nhằm góp phần tạo gia các mối
liên kết giữa các quốc gia.
Quốc tế hoá thì các quốc gia dân tộc vẫn phân biệt với nhau những địa điểm

biệt lập, giữa chúng vấn có những khoảng cách, và chúng vấn đóng vai trò là một
tác nhân chủ chốt trong nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá thì tạo ra các mối liên
kết rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian.
TCH và QTH dường như không có sự khác biệt, ranh giới giữa hai khái
niệm này dương như không rõ ràng. QTH dường như chỉ là khái niệm khác đi của
TCH mà thôi. Nó cũng là quá trìnhtương tác và hội nhập của mọi người, của các
công ty, của chính phủ thuộc nhiều dân tộc khácnhau trên thế giới, là quá trình
được dẫn dắt bởi thương mại, đầu tư và được hậu thuẫn bỡi sự phát triễn không
ngừng của công nghệ thông tin.Quốc tế hóa cũng như toàn cầu hóa có chung mục
đích tìm kiếm lợi nhuận. Đồng thời, giữa QTHvà TCH có chung điểm giống nhau
như:
-Khi tất cả các nước cùng hội nhập thì quá trình gia tăng thương mại giữa
các quốc gia được tăng lên một cách không ngừng
-Khi nguồn vốn (tiền) được lưu thông từ nước này sang nước khác do cả
thế giới thốngnhất lấy đồng tiền chung để giao dịch thì vốn đầu tư nước ngoài tăng
cao.
-Khoa học công nghệ phát triển, thông tin liên lạc giữa các quốc gia được
dễ dàng hơn thông qua: điện thoại, internet…
-TCH và QTH kéo theo ý thức con người ngày càng thay đổi. Nếu như
trước đây họ chỉ quan tâm đến những gì xảy ra ở trong nước thì khi hội nhập họ
quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề quốc tế như: khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
khủng bố, buôn lậu…


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

-Tạo ra nền văn hóa ngày càng đa dạng hơn ở các dân tộc. Văn hóa có sự
du nhập sâu rộng hơn ở các quốc gia thông qua việc trao đổi văn hóa. Vd: một bộ
phim, đĩa nhạc có thể dược thưởng thức ở nhiều quốc gia.
-Nhờ phát triển hệ thống giao thông thuận tiện, nhanh chóng hơn nên thõa

mãn nhu cầu đi lại ngày càng tăng của con người từ quốc gia nay sang quốc gia
khác vì nhiều lý do khác nhau
-Thúc đẩy vai trò của các tổ chức quốc tế nhằm liên kết hơn các nước trên
tất cả các mặt, đặc biệt là về kinh tế.
-Luật của thế giới ra đời nhằm bảo đảm cho các nước trên thế giới cùng tồn
tại và phát triển bền vững TCH và QTH như đã nói ở trên, nó dường như không
ranh giới rõ nét, tức là giữa chúng có mốiliên hệ mật thiết, khăng khít với nhau.
Nếu một quốc gia không hội nhập tức không tham gia quá trình TCH và QTH thì
quốc gia đó bị rơi vào lạc hậu, trì trệ. Nhưng khi hội nhập thì cũng mang lại nhiều
hệ quả tiêu cực cho quốc gia đó. Vì thế có thể xem toàn cầu hóa là con dao hai
lưỡi.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

CHƯƠNG 2
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
2.1. Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Năm 2015 và những tháng đầu 2016 đã phản ánh rõ những thách thức mà
các nền kinh tế thế giới, cụ thể là Việt Nam đang phải đối mặt như: ảnh hưởng tiêu
cực từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đang tiếp tục leo thang, sự mất ổn định
về địa chính trị khiến giá dầu mỏ leo thang, kéo theo lạm phát tăng gây ảnh hưởng
tới tốc độ tăng trưởng, các chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt quá mức đẩy một số
quốc gia rơi vào tình trạng giảm phát hoặc các hoạt động kinh tế suy yếu trong
một thời gian dài; thất nghiệp tiếp tục tăng cao ở các nền kinh tế đang phát triển
tạo sức ép lên ổn định kinh tế xã hội; mặt trái của sự tăng trưởng nhanh ở các nước
phát triển châu Á làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo…Xét trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu gặp nhiều bất ổn như thế, tôi xin trình bày một số nét nổi bật của
nền kinh tế Việt Nam:
2.2. Nguyên nhân hình thành xu hướng toàn cầu hóa.

2.2.1.Sự thay đổi cấu trúc sức mạnh của hệ thống quan hệ quốc tế sau chiến
tranh lạnh.
Chiến tranh lạnh kết thúc chấm dứt sự tồn tại thế giới lưỡng cực, quyền lực
chi phối đời sống quốc tế bị phân tán theo chiều hướng đa cực
Các trung tâm kinh tế và cường quốc cố gắng tạo ảnh hưởng của mình trên
trường quốc tế .
2.2.2. Thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật.
Khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi và ăn sâu vào đời sống quan hệ quốc tế,
trở thành nhân tố chính thúc đẩy sự hợp tác, liên kết quốc tế. Những phát minh
được áp dụng, chuyển giao ra nhiều nước trên thế giới, do đó tất yếu dẫn đến sự
phụ thuộc và hợp tác giữa các quốc gia vì lợi ích đất nước.


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

2.2.3.Sức ép từ kinh tế và xu huống “ Quốc tế hóa ”
Lợi ích dân tộc và kinh tế của từng quốc gia nay đã vượt lên trên sự hấp dẫn
của các mục tiêu chính trị nhưng mang tính ý thức hệ. Từ những năm 1970 nền
kinh tế thế giới đã chuyển đân sang phát triển theo chiều sâu, các nước chú trọng
đến pát triển tiềm lực kinh tế của mình.
Vai trò của các công ty, tập đoàn đa quốc gia, chính các nhân tố này góp
phần thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết trên thế giới.
2.2.4.Sự nổi lên của các vấn đền mang tính toàn cầu.
Thế giới chịu hậu quẩ của chiến tranh phải đối mặt với những vấn đề mạng
tính toàn cầu như: Ô nhiễm môi trường; bùng nổ dân số; khủng hoảng tài chính;
phát triển bền vững; đấu tranh chống tội phạm có tổ chức; . . . Để giải quyết những
vấn đề này cần có sự nỗ lực chung của toàn nhân loại chứ không thể đơn thuần
dựa vào sức mạnh của từng quốc gia riêng lẻ hay tập thể nhóm quốc gia.
2.2.4. sự tương đồng về văn hóa.
Các dân tộc và quốc gia có sự tương đồng văn hóa thì có xu hướng liên kết

với nhau.sự tương đồng về văn hóa là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự xích lại gần
nhau hơn của các quốc gia trên thê giới.
Như vậy những tiến bộ công nghệ, tự do hóa kinh tế, và quốc tế hóa sản xuất
đã làm cho các quốc gia trở nen phụ thuộc vào nhau hơn về mặt kinh tế, tạo ra
những cơ hội cũng như những thách thức ve kinh tế, xã hội, chính trị chưa từng có,
do đó đòi hỏi phải cóa sự liên kết, hợp tác của tất cả các quố gia trái đất này.
2.3.Các xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, toàn cầu hoá nói chung bắt
nguồn từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn giáo ra
ngoài biên giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các công ty xuyên
quốc gia, các ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công nghệ, sự phát triển
gắn với hiện đại hoá… Về bản chất, toàn cầu hoá kinh tế là kết quả của sự quốc tế


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

hoá sản xuất cao độ và phân công quốc tế, nó xuất hiện và phát triển cùng với thị
trường thế giới.
Toàn cầu hóa trước hết được biểu hiện ở sự định hình nền kinh tế tri thức,
mà trọng tâm là bước ngoặt mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật đạt được đã làm giảm đáng kể chi phí vận
chuyển và liên lạc, qua đó đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Chi phí vận tải biển
ngày nay giảm 1/2 lần so với năm 1930, vận tải hàng không chỉ bằng 1/6. Giá một
chiếc máy tính vào năm 1990 chỉ bằng 1/125 so với năm 1960, mức giá đó còn
tiếp tục giảm tới 80% vào năm 1998. Những thành tựu khoa học công nghệ giúp
giảm chi phí đầu tư và thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho quá trình hình thành
và phối hợp sản xuất toàn cầu. Ví dụ, một chiếc ô tô Lyman của Ford được thiết kế
tại Đức, hế thống số của nó được sản xuất tại Hàn Quốc, bộ phận bơm dầu được
chế tạo ở Mỹ và động cơ ở Úc. Chính sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo nên
sản phẩm mang tính toàn cầu đó. Thêm vào đó, sự phát triển của loại hình kinh tế

dựa trên mạng lưới này cũng đã hình thành nên những công ty mà đối với họ khó
khăn về khoảng cách và rào cản ranh giới quốc gia là không còn.
Sự phát triển của công nghệ làm cho nền kinh tế thế giới bắt đầu có sự dịch
chuyển cơ cấu, từ những ngành kinh tế như luyện kim, điện lực, sản xuất ô tô, xi
măng, đã bắt đầu xuất hiện các ngành kinh tế mới phát triển nhanh như điện tử –
bán dẫn, máy tính, viễn thông…, trong đó các dịch vụ liên quan đến thông tin
(ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm…) phát triển mạnh.
Các ngành công nghệ cao được hình thành và trở thành những mũi nhọn
kinh tế của các quốc gia. Trước hết, phải kể đến công nghệ thông tin. Công nghệ
thông tin bao gồm cả phần cứng, như chế tạo các mạch vi điện tử, máy vi tính,
mạng máy tính… và các phần mềm hệ thống, phần mềm ứng dụng. Ngoài ra, phải
kể đến các loại thiết bị viễn thông, điện tử y tế, điện tử quốc phòng… Có thể nói,
công nghệ thông tin là công nghệ cốt lõi tạo ra điều kiện kỹ thuật của toàn cầu hoá


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

nhờ hệ thống thông tin toàn cầu mà bao gồm cả hệ thống Internet. Thứ hai là công
nghệ sinh học, việc tạo ra những sinh vật và nhân giống chúng một cách tối ưu đã
mở ra những triển vọng vô cùng to lớn trong việc tăng năng suất lao động, giải đáp
những vấn đề nhu cầu cuộc sống mà loài người trước đây chưa từng biết đến. Thứ
ba là các công nghệ khác như công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới,
công nghệ hàng không vũ trụ… ra đời, mở ra những tiềm năng mới, triển vọng
mới. Thứ tư là tự động hoá trong sản xuất. Tự động hoá trong sản xuất giải phóng
con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm cho
xã hội.
Nếu những thành tựu khoa học kỹ thuật và sự phát triển không ngừng của
công nghệ thông tin được coi như là lực đẩy kỹ thuật trong quá trình toàn cầu hóa
thì những cải cách theo định hướng thị trường đang diễn ra ở nhiều nước trên thế
giới lại được coi như một lực đẩy cơ chế trong quá trình này. Trong khuôn khổ của

GATT và WTO, nhiều quốc gia đang dần cắt giảm thuế và các hàng rào phi thuế
quan, tiến hành mở cửa thị trường và tiếp nhận các luồng vốn đầu tư. Từ đó
khuyến khích sự gia tăng của đầu tư và thương mại. Bên cạnh đó, sự chuyển đổi
của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang kinh tế thị trường cũng
đã làm cho những nền kinh tế này nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Biểu hiện tiếp theo cần nhấn mạnh trong quá trình toàn cầu hóa là xu hướng
gia tăng nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế. Từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế đã tăng đáng kể
(Bảng 2.1). Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là mối quan hệ thương mại giữa các
nước trên thế giới ngày càng chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của
nền kinh tế thế giới tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Các nước có
thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của nước khác, từ
đó thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Sự phân công lao động
quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Xu hướng phân công lao động quốc tế ngày nay đã


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

chuyển dịch từ chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang, phân công
theo chi tiết sản phẩm, theo quy trình sản xuất. Thí dụ, một loại xe của hãng
Toyota sản xuất tại Mỹ có 25% linh kiện được sản xuất ở ngoài nước Mỹ. Một loại
xe ô tô của công ty Ford có 27% linh kiện do nước khác sản xuất. Việc sản xuất
máy bay của hãng Boing ở Mỹ có các chi tiết được chế tạo từ gần 100 quốc gia
khác nhau.

Bảng 2.1: Xu hướng dài hạn trong giá trị và khối lượng xuất khẩu hàng hóa của
thế giới thời kỳ 1950 – 2010


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B


Nguồn: UNCTAD
Toàn cầu hóa làm thương mại quốc tế gia tăng với tốc độ cao và tốc độ tăng
trưởng thương mại quốc tế này còn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới.
Nếu nửa đầu thế kỷ XX, tổng GDP của thế giới tăng 2,7 lần, thì đến nửa cuối thế
kỷ, tổng GDP thế giới đã tăng 5,2 lần. Đầu năm 1950, tỷ trọng thương mại trong
GDP toàn cầu là 7%, thì hiện nay đã tăng lên hơn 50%. Năm 2004, tổng giá trị
thương mại toàn cầu đạt hơn 22.267 tỉ USD, làm cho thương mại thực sự trở thành
động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế thế giới.
Biểu đồ sau đây cho thấy mức tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa thế giới
trong 10 năm sau khi WTO ra đời (Bảng 2.2).
Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa của thế giới thời kỳ 1995 –
2004


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

Nguồn: Bộ Thương Mại
Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng
là là một biểu hiện đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế ngày nay. Nét đặc trưng này
được biết đến như là một quá trình toàn cầu hoá tài chính. Toàn cầu hóa trong lĩnh
vực tài chính được đẩy mạnh thông qua việc tự do hóa rộng rãi các giao dịch tài
chính quốc gia và phát triển các thị trường tài chính quốc tế, hướng tới một thị
trường tài chính mang tính toàn cầu. Tự do hóa tài chính bao gồm các nội dung cơ
bản, như: nới lỏng kiểm soát tín dụng; tự do hóa lãi suất; tự do hóa tham gia hoạt
động ngân hàng và các dịch vụ tài chính trên toàn thế giới, không phân biệt biên
giới; tự do hóa việc di chuyển của các luồng vốn quốc tế. Toàn cầu hóa tài chính
được biểu hiện ở hiện tượng các dòng vốn di chuyển trên thế giới đã liên tục gia
tăng. Từ năm 1970, dòng vốn đầu tư quốc tế bắt đầu tăng nhanh bao gồm cả dòng
vốn FDI (Biểu 2.3). Năm 1980, tổng khối lượng giao dich cổ phiếu và trái phiếu ra

khỏi biên giới của các nước phát triển chỉ chiếm chưa đến 10% tổng GDP . Nhưng
sau đó, con số này đã vượt mức 100% vào năm 1995. Sự di chuyển thông qua thị
trường vốn cũng đã tăng từ mức 794 tỷ USD năm 1991 lên đến 4.324 tỷ USD năm


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

2000 (tăng 21,3%/năm) và tài trợ phát triển chính thức giảm từ 60,9 tỷ USD xuống
còn 38,6 tỷ USD. Giá trị trung bình của các giao dich ngoại hối hàng ngày cũng đã
tăng từ 200 tỷ USD vào giữa thập niên 80 lên tới 1200 tỷ USD vào năm 2000,
chiếm 85% dự trữ ngoái hối của các nước trên thế giới và gấp 70 lần so với giá trị
xuất khẩu mỗi ngày của hàng hóa và dich vụ. Có thể nói, tài chính quốc tế là công
cụ cần thiết cho các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế do đó toàn cầu hoá
ngày nay chịu sự dẫn dắt của toàn cầu hoá tài chính. Toàn cầu hóa lĩnh vực tài
chính đang dần trở thành xu hướng phát triển nhanh nhất và có ảnh hưởng nhất
của quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Sự gia tăng dòng chảy đầu tư đã làm cho nền
kinh tế thế giới gắn kết chặt chẽ với nhau hơn thông qua sự liên kết chức năng sản
xuất, và khiến cho biên giới kinh tế quốc gia ngày càng mờ nhạt. Kết quả là, quá
trình này dẫn đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và tùy thuộc, tác
động lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ.

Bảng 2.3: Dòng vốn FDI trên thế giới thời kỳ 1970-2010


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

Nguồn : UNCTAD
Một nguyên nhân trực tiếp và đồng thời cũng là biểu hiện của xu thế toàn
cầu hóa là sự phát triển mạnh mẽ của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia
(TNCs) - nhân vật trung tâm quyết định dòng chảy vốn đầu tư và chuyển tài tri

thức khoa học công nghệ để hình thành nền kinh tế tri thức nêu trên. Theo thống
kê của Liên hợp quốc, nếu vào cuối những năm 60 có khoảng 7000 Công ty xuyên
quốc gia, thì đến những năm 80 có khoảng 20.000 và trong những thập niên 90 đã
có 53.000 công ty hoạt động xuyên quốc gia với 450.000 cơ sở sản xuất và chiếm
gần 2/3 tổng khối lượng buôn bán trên toàn thế giới, kiểm soát 2/3 thương mại thế
giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ trên thế giới. Tính đến năm 2004, toàn thế giới có khoảng


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

63.000 công ty xuyên quốc gia với trên 800.000 chi nhánh. Các công ty xuyên
quốc gia hiện chi phối hơn 80% giá trị thương mại quốc tế, chiếm hơn 90% tổng
giá trị vốn đầu tư và thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới.
Với sức mạnh ngày càng lớn, các công ty xuyên quốc gia ngày càng mở
rộng ảnh hưởng, duy trì và nâng cao quyền lực kiểm soát trong các lĩnh vực quan
trọng như tài chính, công nghệ, dịch vụ và lao động. Với một mạng lưới rộng
khắp, rải rác khắp các quốc gia trên địa cầu, hoạt động của các TNCs thực sự tác
động đến nền kinh tế toàn cầu và kéo theo các nền kinh tế quốc gia vào vòng chu
chuyển của mạng lưới công ty. Các công ty xuyên quốc gia không những có ưu thế
phân phối tài nguyên trong phạm vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao
động quốc tế đi vào chi tiết hoá mà còn thông qua việc toàn cầu hoá sản xuất và
lao động quốc tế để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Như vậy, sự
phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trên địa phận toàn cầu đã tạo
mạng lưới liên kết kinh tế quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
gia tăng.
Bên cạnh đó, một trong những xu hướng mới của toàn cầu hóa kinh tế hiện
nay là việc các công ty xuyên quốc gia đã tăng cường hoạt động mua lại và sáp
nhập (M & A), hình thành các công ty quốc tế khổng lồ, nhất là các công ty khoa
học kỹ thuật, công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và

ngoài nước cũng như gia tăng sự ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động
quốc tế. Làn sóng sát nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỷ
XX. Ví dụ, năm 1998, Exon đã sáp nhập Mobile trị giá 86 tỷ USD; Travelers
Group sáp nhập Citi Corp trị giá 73,6 tỷ USD.
Quá trình toàn cầu hoá làm nổi lên xu hướng liên kết kinh tế, xu hướng này
dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế - thương mại - tài chính toàn cầu và khu vực.
Quá trình liên kết kinh tế quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ liên kết tam
giác, tứ giác phát triển đến liên kết khu vực như: Liên minh Châu Âu (EU), Khu
vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh các nước Đông Nam Á


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

(ASEAN)…Nếu năm 1956 đánh dấu sự ra đời của liên kết khu vực đầu tiên là
Cộng đồng kinh tế Châu Âu , thì trong thập kỷ 80 và 90 và của thế kỷ XX, liên kết
kinh tế khu vực đã trở thành làn sóng lan khắp các châu lục. Hiện nay trên toàn thế
giới có khoảng 24 tổ chức liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn với những mức
độ quan hệ khác nhau. Tầm ảnh hưởng của chúng đến mức hầu như không có quốc
gia nào không là thành viên của một liên kết kinh tế quốc tế, nhiều quốc gia đồng
thời là thành viên của nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác nhau. Bên cạnh các tổ
chức liên kết kinh tế khu vực, còn có các tổ chức liên kết liên khu vực như Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á–Âu
(ASEM)…các tổ chức liên kết kinh tế toàn cầu như Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB). Tùy theo mục tiêu
chức năng của mình, các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt
động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lý các hoạt động này: chức thương mại thế
giới (WTO) đây là tổ chức có vai trò hàng đầu trong thúc đẩu sự phát triển của xu
hướng toàn cầu hoá kinh tế.Ngày 1/1/1995 WTO ra đời thay cho GATT. WTO
hoạt động với tính chất một diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa
phương, tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại, giám sát các chính

sách thương mại quốc gia và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới
hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu. Với chức năng như trên thực tế trong thời
gian tồn tại của mình WTO đã đóng góp đáng kể vào thúc đẩu tự do hoá thương
mại toàn cầu.
Các tổ chức tài chính - tiền tệ lớn như WB, IMF… cũng đóng vai trò lớn
trong thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá.tham
gia vào điều chỉnh quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia thành viên và thực
hiện cho vay để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt là sự tham gia
vào hiệp định đối tác xuyên thái bình dương (TPP) đấy là hiệp định có sự tham gia
của 12 nước trên thế giới ( nhưng mỹ vừa tuyên bố rút khỏi hiệp định ). Tuy mỹ
rút khỏi hiệp định, nhưng với sự tham gia vào TPP này sẽ mang lại cho việt nam


Sinh viên: Trình Ngọc Hải - Lớp ĐHLT QTNL15B

nhiều cơ hội phát triển trong tương lai như dễ dàng xin visa nhập cảnh vào các
quốc gia thành viên, tạo nhieeud công ăn việc làm cho người dân, đất nước sạch
đẹp, an toàn hơn nhờ các yêu cầu bắt buộc về môi trường, xuất khẩu dịch vụ, sản
phẩm sang 12 nước thành viên với mức thuế rất thấp va sẽ gỡ bỏ trong tương lai,
rất có lợi cho các nghành rệt may, nông sản ở nước ta. Được các nước hỗ trợ về kỹ
thuật và tay nghề lao động, ngườ dân được sử dụng các sản phẩm chất lượng cao
với giá rẻ, bên cạnh đó là việc đảm bảo vệ sinh an toàn đối với mặt hàng thực
phảm. . .
Liên Hiệp Quốc: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại tác động mạnh mẽ
đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế mà lớn
nhất là Liên hợp quốc. Liên hợp quốc cùng với các cơ quan chức năng của nó như
Chương trình phát triển liên hiệp Quốc (UNDP), Hội nghị Liên Hiệp Quốc về hợp
tác và phát triển (UNCTAD)… lại tác động trở lại đến tất cả các khu vực, các nước
trên phạm vi toàn cầu, nhưng không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà còn lan tỏa sang các
lĩnh vực đời sống xã hội khác.

Cùng với các tổ chức có tính toàn cầu như trên, các tổ chức khu vực như EU,
ASEAN,v.v… cũng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy xu hướng khu vực hoá, toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, vai trò và tác động của các tổ chức này rất
khác nhau do trình độ phát triển của các nước thành viên, do mức độ gắn kết và
mục tiêu hoạt động .v.v…
Tóm lại, các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là động
lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.Thiếu vắng các tổ chức trên, quá trình toàn
cầu hóa sẽ diễn ra chậm chạp. Có thể nói, thông qua các tổ chức kinh tế, thương
mại, tài chính quốc tế này, quy mô lưu thông vốn quốc tế gia tăng ngày càng mạnh
mẽ; tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế; các
lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế không ngừng phát triển.


×