BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH
----------0O0-----------
Minicase chương 17 – môn học tài chính công ty đa quốc gia
SỰ CẠNH TRANH CỦA CÁC CÔNG TY TỪ
NHỮNG THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thị Liên Hoa
Nhóm thực hiện: Minicase chương 17
Tp.HCM, tháng 11 năm 2017
Người lãnh đạo trong tất cả các
SỰ CẠNH TRANH CỦA CÁC
CÔNG TY TỪ NHỮNG THỊ công ty, đại chúng và tư nhân, mới và cũ,
khởi nghiệp và trưởng thành, tất cả đều
TRƯỜNG MỚI NỔI
biết về những mối đe dọa tương tự trong
những năm gần đây: đối thủ cạnh tranh từ
những thị trường mới nổi đang tăng lên.
Mặc dù có mối đe dọa, vẫn có những lực
lượng khác ngăn cản sự phát triển - quá
nhanh của họ: khả năng huy động đủ vốn
B
với chi phí hợp lý; khả năng để đạt được
CG [Tập đoàn tư vấn
thị trường lớn hơn và có lợi hơn; sự cạnh
Boston] lập luận rằng điều
tranh trong các thị trường có tên tuổi và
này là bởi vì họ đã giải
thương hiệu trong phạm vi toàn cầu.
quyết được ba sự đánh đổi
Nhưng một số các chuyên gia - tiên đoán
thường gắn liền với tăng trưởng doanh
thị trường và các chuyên gia tư vấn - hiện
nghiệp: Số lượng đối lập với lợi nhuận;
đang tranh luận về những đối thủ cạnh
Sự mở rộng quy mô nhanh chóng đối lập
tranh mới này đã có mặt tại đây.
với tỷ lệ nợ thấp; Sự tăng trưởng đối lập
với chi trả cổ tức. Trung bình những công
ty này đã tăng doanh thu của họ lên gấp
ba lần so với các công ty cùng ngành trên
toàn cầu kể từ năm 2005. Tuy nhiên, họ
cũng giảm tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần của
họ xuống 3 phần trăm và đạt được tỷ lệ
chi trả cổ tức cao hơn qua mỗi năm.
(Nguồn “Nipping at Their Heels: Firms from the
Developing World Are Rapidly Catching Up with
Their Old-World Competitors,” The Economist,
January 22, 2011, p. 80)
Trang
2
Một trong những phân tích này
Số lượng so với lợi nhuận
gần đây được công bố bởi BCG, Tập
Tư duy kinh doanh truyền thống giả định
đoàn Tư vấn Boston. Nhãn hiệu BCG là
rằng doanh thu bán lẻ có quy mô lớn,
những công ty cạnh tranh toàn cầu, những
giống như của Wal-Mart, đòi hỏi giá cả
công ty có trụ sở tại các nước có nền kinh
phải chăng ở mức thấp, từ đó áp dụng lợi
tế đang phát triển nhanh đang "bắt tay"
nhuận biên thấp cho các đối thủ cạnh
thiết lập trật tự kinh tế, Danh sách 100
tranh với cùng quy mô. Các sản phẩm và
công ty toàn cầu của họ, phần lớn là từ
dịch vụ có lợi nhuận cao thường được
Brazil (13), Nga (6), Ấn Độ (20), và
dành cho các phân khúc thị trường đặc
Trung Quốc (33) (BRICs), và Mexico (7),
biệt, dịch vụ này có thể đắt hơn nhiều,
đều sáng tạo và quyết đoán, nhưng cũng
nhưng được cho là hợp lý bởi đòi hỏi mức
đã chứng minh năng lực tài chính tốt.
giá và lợi nhuận cao hơn. BCG cho rằng
Giá trị được tạo ra bởi các công ty
những thách thức toàn cầu có thể có cả về
này rất thuyết phục các cổ đông của họ.
số lượng và lợi nhuận, dựa vào chi phí
Tổng lợi nhuận giữ lại của cổ đông (TSR)
trực tiếp đặc biệt thấp của nguyên vật liệu
từ các đối thủ toàn cầu từ năm 2005 đến
và nhân công, kết hợp với công nghệ mới
năm 2009 là 22%; Tương tự như TSR cho
nhất đến từ các nước phát triển.
các công ty toàn cầu, các công ty đại
chúng trong các ngành kinh doanh tương
tự, chỉ bằng 5%. Theo BCG, họ có thể đạt
được những kết quả này bằng cách giải
quyết ba sự đánh đổi cổ điển khi đối đầu
với những đối thủ cạnh tranh từ các nền
kinh tế mới nổi. Những chiến lược đánh
đổi này trở nên đặc thù về tài chính.
Ba sự đánh đổi
Ba sự đánh đổi cũng có thể được
mô tả như là ba khía cạnh tài chính của
khả năng cạnh tranh - thị trường, sự tài
trợ, lợi tức được trả.
Sự đánh đổi thứ hai:
Sự đánh đổi đầu tiên:
Trang
3
Sự mở rộng nhanh chóng so với đòn
bẩy tài chính thấp
Lý thuyết tài chính luôn nhấn mạnh
những điểm khác biệt quan trọng giữa cơ
Một trong những lợi thế tài chính
hội và thách thức phát triển công ty, và
của các công ty lớn nhất thế giới là họ
những giá trị mang lại cho các nhà đầu tư.
luôn được ưu đãi trong việc tiếp cận
Sự phát triển đến từ các công ty nhỏ hơn,
nguồn vốn. Các công ty có lợi thế trong
các công ty mới thành lập, các công ty có
việc gia nhập thị trường có nền kinh tế
mô hình kinh doanh độc đáo dựa trên
lớn, như nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đó
công nghệ hoặc dịch vụ mới. Họ có tiềm
là sự tiếp cận với nguồn vốn dồi dào và
năng tăng trưởng rất lớn, nhưng mất
giá cả phải chăng. Các công ty xuất phát
nhiều thời gian hơn, nhiều kinh nghiệm
từ các thị trường mới nổi thường bị kìm
hơn, phạm vi rộng hơn, và quan trọng
hãm trong nỗ lực mở rộng quy mô và
nhất nhiều vốn hơn. Những nhà đầu tư
không có đủ vốn để thực hiện tham vọng.
trong các công ty này biết rằng rủi ro cao,
Chỉ sau khi tiếp cận các thị trường vốn
và kết quả là, chấp nhận những rủi ro đó
lớn nhất thế giới, các nhà cung cấp cả nợ
trong khi kỳ vọng lợi nhuận mang lại từ
và vốn cổ phần có thể ngay lập tức phải
gia tăng vốn, và không chia cổ tức. Nhà
đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng
đầu tư cũng biết rằng những công ty này
vượt ra ngoài thị trường hoặc khu vực của
thường rất nhỏ, biến động của giá cổ
họ. Trong quá khứ, việc chấp nhận mức
phiếu nhanh chóng, tương ứng với việc
nợ cao hơn, rủi ro cao hơn, và đòn bẩy tài
phát triển kinh doanh. Do đó, công ty cần
chính cao hơn. Tuy nhiên, các công ty
phải nhạy bén, nhanh nhạy, và không
đối thủ toàn cầu lại một lần nữa chống lại
chìm đắm trong nợ nần. Các công ty có
sự đánh đổi, họ tìm cách tăng vốn chủ sở
giá trị, một thuật ngữ ám chỉ cho việc
hữu và nợ theo tỷ lệ, và do đó họ tăng
trưởng thành hơn hoặc lâu đời hơn, lớn
trưởng trên cấu trúc tài chính mà không
mạnh hơn, đối thủ cạnh tranh toàn cầu
phải chịu mức rủi ro cao hơn. Giải pháp
nhiều hơn, có quy mô trong việc phát
rõ ràng là tăng khả năng tiếp cận với sự
triển kinh doanh mới, thị trường mới,
bình đẳng về giá cả, thường là ở London
công nghệ mới, có khi đủ lớn để tăng giá
và New York.
cổ phiếu một cách đáng kể và nhanh
Sự đánh đổi thứ ba:
Sự tăng trưởng so với cổ tức
chóng. Những nhà đầu tư của các công ty
này, theo như lý thuyết đại diện, không
“tin tưởng nhà quản lý” đưa ra mức rủi ro
Trang
4
đủ cao thì lợi nhuận cao. Vì vậy, họ thích
công ty chịu một số gánh nặng tài chính
nhân tạo để đảm bảo sự siêng năng.
Những gánh nặng tài chính đó thường là
mức nợ cao hơn và sự phân phối lợi
nhuận ngày càng tăng như cổ tức. Cả hai
yếu tố phục vụ như kỷ luật tài chính, đòi
hỏi sự quản lý để duy trì sự cảnh giác chi
phí và dòng tiền để trả nợ và tạo ra đủ lợi
nhuận theo thời gian để cung cấp cổ tức
Những công ty cạnh tranh toàn cầu dường
như cũng đã ngăn cản sự đánh đổi này rất
tốt, chia cổ tức theo tỷ lệ và lợi suất cổ
tức tương tự như các công ty lớn hơn với
dòng tiền mặt mạnh và bền vững hơn.
Điều này thực sự có thể là dễ dàng nhất vì
ba sự đánh đổi này đã khiến họ có quy
mô đáng kể và phát triển mạnh mẽ
Trang
5
CÂU HỎI TIẾP THEO
???
Một trong những chiến lược được
Nhiều người vẫn còn nghi ngờ.
triển khai nhanh chóng bởi nhiều công ty
Nếu những thách thức toàn cầu này có thể
này là sử dụng các quan hệ đối tác chiến
đánh bại những thương mại tài chính
lược, liên doanh hoặc thoả thuận hoán đổi
truyền thống, họ có thể vượt qua những
cổ phiếu. Trong mỗi hình thức này, các
thách thức chiến lược của công ty mà rất
công ty đang đạt được tầm cạnh tranh,
nhiều công ty từ nhiều thị trường đã trốn
một đối tác toàn cầu và tiếp cận với công
tránh trước họ?
nghệ và thị trường mà không có sự tăng
Theo như Economist giải thích,
trưởng lớn về phía mình
"Điều này thật ấn tượng, nhưng nó dường
Không phải đề cập đến một trong
như không hợp lý rằng những sự đánh đổi
những cuộc tranh luận tiếp tục lớn nhất,
này đã được “được giải quyết””
cho dù họ có thể tiếp tục phát triển thành
Nhiều nhà phân tích của nền kinh
công trong khi là tập đoàn đa quốc gia đa
tế đang nổi lên hay các nhà phân tích nền
dạng. Đó là một cấu trúc tổ chức và chiến
kinh tế đang phát triển nhanh chóng đồng
lược được rất ít trong các nền kinh tế
ý rằng các công ty này không chỉ hiểu thị
công nghiệp phát triển ngày nay.
trường mới nổi, mà còn chứng tỏ sự đổi
mới bền vững và vẫn duy trì được sức
khoẻ về tài chính. Những người khác cho
rằng ba sự đánh đổi có thể sẽ đồng thời
hơn nguyên nhân. Tuy nhiên, rõ ràng là
hầu hết các đối thủ toàn cầu mới này đều
phát sinh từ các thị trường kém phát triển
và không được phục vụ, các thị trường
đang tạo cơ sở cho sự phát triển nhanh
chóng của họ
Trang
6
PHẦN TRẢ LỜI CỦA NHÓM
MINICASE CHƯƠNG 17
Câu 1: Làm thế nào để ba sự đánh đổi kết nối với nhau theo nguyên tắc tài
chính?
Thứ nhất, để có được cả số lượng và lợi nhuận dựa vào sự kết hợp của chi phí
trực tiếp thấp và công nghệ mới nhất đến từ những nền kinh tế đang phát triển, BCG
có thể đầu tư vào thị trường của những nền kinh tế đang phát triển đó. Tuy nhiên, BCG
trước tiên phải có lợi thế cạnh tranh tại thị trường trong nước trước khi đầu tư ra nước
ngoài. BCG phải đánh giá được khả năng cạnh tranh và rủi ro chính trị có thể xảy ra
trên nhiều phương diện nếu quyết định đầu tư tại những nền kinh tế này
Khả năng cạnh tranh
Tỷ trọng trong nền kinh tế
Marketing và marketing chuyên môn
Công nghệ cao cấp
Sức mạnh tài chính
Sản phẩm khác biệt
Rủi ro chính trị
Rủi ro công ty
Rủi ro quốc gia
Rủi ro chính trị
Tóm lại, BCG phải tìm mọi cách làm gia tăng năng lực cạnh tranh về tài chính do khi
quyết định đầu tư ra nước ngoài BCG sẽ vấp phải sự cạnh tranh đến từ các công ty đa
quốc gia và các công ty toàn cầu
Thứ hai, mở rộng quy mô và đòn bẩy tài chính thấp thì BCG phải sử dụng một
cấu trúc tài chính tối ưu với tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu được tính toán cân nhắc thật kỹ
lưỡng trong từng giai đoạn chu kỳ sống. Đồng thời quyết định chi trả cổ tức hay giữ lại
lợi nhuận để tái đầu tư cũng phụ thuộc vào từng giai đoạn trong chu kỳ.
Chính sách tài trợ của BCG qua 4 giai đoạn khi đầu tư ra nước ngoài,
Khởi sự: Không vay nợ và không chi trả cổ tức
Giai đoạn khởi sự là giai đoạn phát triển quan trọng của BCG, quyết định sự tồn
tại sau này của công ty. Giai đoạn này yêu cầu rủi ro tài chính phải là thấp nhất
có nghĩa là BCG nên tài trợ chủ yếu bằng vốn cổ phần. Ở giai đoạn này mục
tiêu của BCG là thị trường nội địa nơi BCG đầu tư chấp nhận sản phẩm của họ.
Bởi vì, dòng tiền chi ra để tạo ra 1 sản phẩm và đưa sản phẩm đó đến thị trường
lúc này rất lớn trong khi chưa có dòng tiền vào. Nếu lúc này quyết định vay nợ
thì BCG phải đảm bảo rằng họ đang hoạt động có lãi và thừa khả năng trả lãi
vay để tránh tình trạng mất khả năng chi trả lãi vay. Chính vì như vậy ở giai
đoạn này BCG chưa thể đầu tư để mở rộng quy mô.
Đồng thời, ở giai đoạn khởi sự mục tiêu hòa vốn đang là vấn đề được quan tâm
nhất, do đó BCG sẽ phải đánh đổi bằng cách không chi trả cổ tức để chuẩn bị
dòng tiền cho những khoản đầu tư mới ở giai đoạn này
Tăng trưởng: BCG chấp nhận tăng tỷ lệ nợ để mở rộng quy mô
BCG nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư thay vì chi trả cổ tức
Giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn chuyển tiếp từ khởi sự, đòi hỏi BCG phải
thay đổi chiến thuật phù hợp. Ở giai đoạn này dòng tiền vào sẽ mạnh hơn giai
đoạn khởi sự, nếu tăng trưởng nhanh thường có nhu cầu vốn lớn để tài trợ các
cơ hội đầu tư hấp dẫn của mình. Thay vì chi trả cổ tức nhiều, BCG có thể giữ
lại 1 phần lợi nhuận kết hợp với vốn vay để tiết kiệm chi phí. Nếu tỷ lệ chi trả
cổ tức cao thường có tỷ lệ tăng trưởng thấp và ngược lại. Tuy nhiên, BCG cần
cân nhắc để tìm được nguồn tài trợ từ bên ngoài một cách rẻ nhất.
Bão hòa: không mở rộng quy mô, giảm tỷ lệ nợ đến mức thấp nhất
Không tái đầu tư, và quyết định chi trả cổ tức nhiều hơn
Khi công ty lớn mạnh hơn thì các nhà đầu tư “không tin tưởng nhà quản lý” =>
do đó họ muốn công ty gánh chịu một số gánh nặng về mặt tài chính để đảm
bảo sự phát triển bên vững => tăng tỷ lệ nợ, tăng chi trả cổ tức
mục tiêu lúc này là duy trì thị phần => vì vậy nếu Ban quản lý của công ty đầu
tư vào những lĩnh vực không liên quan sẽ chiếm nhiều thời gian, công sức và
nguồn lực của Cty hoặc đầu tư vào những lĩnh vực mà lợi ích của lĩnh vực này
lại biến động nhiều theo thời gian (nghĩa là: trong ngắn hạn những lĩnh vực này
có tiềm năng, nhưng trong dài hạn thì không)
Nhà quản lý cấp cao quá am tường về cty, họ thực hiện những quyết
định gây thiệt hại cho doanh nghiệp như ra quyết định đầu tư dưới mức,
nghĩa là thực hiện đầu tư vào những dự không tốt do không có khả năng
thẩm định dự án hoặc do cố tình thực hiện với mục đích tư lợi cá nhân.
Hoặc Đầu tư quá mức nghĩa là đầu tư vào những dự án quá rủi ro.
Trong giai đoạn bão hòa, khi cơ hội đầu tư không còn nữa thì nên đem
lợi nhuận chi trả cổ tức cho cổ đông
Nhà quản lý Cty chưa chắc có năng lực quản lý, trình độ và sự am hiểu
về những lĩnh vực mà họ quyết định đầu tư vì mục đích là làm hài lòng
các cổ đông
Suy thoái:
Giảm quy mô, không vay nợ
Rút vốn khỏi thị trường trong giai đoạn này, chi trả cổ tức ở mức cao nhất
hoặc tìm kiếm cơ hội đầu tư ở thị trường khác
Câu 2: Bạn có tin rằng các công ty này đã thực sự giải quyết hoặc chinh phục
những sự đánh đổi này, hoặc họ đã hưởng lợi từ một số lợi thế cạnh tranh khác ở
giai đoạn phát triển của họ?
Nhóm không tin rằng các công ty này đã thực sự giải quyết hoặc chinh phục được
những sự đánh đổi này, vì các công ty này, ở mỗi giai đoạn, từng chu kỳ phát triển của
công ty đều phải chấp nhận sự đánh đổi, chẳng hạn công ty muốn bán được nhiều sản
phẩm hơn, tăng tính cạnh tranh hơn so với các công ty khác trong cùng 1 ngành thì
phải chấp nhận giá thấp hơn, khuyến mại nhiều hơn, nhiều chương trình ưu đãi hơn,
nhưng chất lượng dịch vụ, chất lượng sản phẩm thì không được kém hơn so với mặt
bằng chung của thị trường. Các công ty trước khi muốn tham gia vào thị trường toàn
cầu thì họ phải tạo được sự cạnh tranh ở trong nước trước, tạo được uy tín, niềm tin
đối với khách hàng trong nước trước khi mở rộng quy mô ra thị trường toàn cầu.
Việc áp dụng các chiến lược đề cập ở trên giảm thiểu sự cân bằng giữa các công ty đa
quốc gia trong thị trường mới nổi.
=> Cho phép các công ty này tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn, nâng cao khả năng tiếp cận
với công nghệ và thị trường mà không cần phải có tiềm lực tài chính mạnh mẽ.
Các công ty này tuy có sự đánh đổi nhưng họ cũng hưởng một số lợi ích từ những sự
đánh đổi này như
Chính phủ của họ góp phần trong việc chống lại những sự xâm nhập từ các đối
thủ cạnh tranh từ nước ngoài, giúp các công ty này có lợi thế hơn để mở rộng
thị phần ra thị trường toàn cầu.
Trước khi tham gia vào thị trường toàn cầu thì họ đã có lợi thế về mặt kinh
nghiệm, quản lý ở trong nước, từ đó họ kết hợp, hợp tác với các công ty khác để
tạo sự cạnh tranh tốt hơn khi mở rộng ra thị trường toàn cầu.