Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính – tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DOANH NGHIệP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.07 KB, 9 trang )

giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát
triển của các DOANH NGHIệP
HOạT động THEO LUậT DOANH NGHIệP
3.1. Quán triệt quan điểm phát triển DOANH NGHIệP HOạT độnG THEO
LUậT DOANH NGHIệP của Đảng và Nhà nớc
Một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật doanh nghiệp là phải tạo đợc môi trờng thuận lợi về tâm lý xã hội cho sự phát triển của các doanh
nghiệp này. Hiện nay, nhìn chung quan niệm của xã hội về các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
vẫn cha thay đổi tơng xứng với quan điểm đợc xác định trong các nghị quyết của Đảng, một bộ phận không
nhỏ dân chúng vẫn còn nhận thức một cách đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội với doanh nghiệp Nhà nớc nên còn băn
khoăn về sự tồn tại lâu dài của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Vì vậy, phải thực hiện tốt
công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc đối với việc phát triển
kinh tế t nhân nói chung và các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nói riêng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu bớc quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần và khẳng định sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp chỉ đợc tồn tại và phát triển trong lĩnh vực sản xuất, còn trong lĩnh vực lu thông phải xoá bỏ
thơng nghiệp t bản t nhân.
Đại hội lần thứ VII của Đảng tiếp tục thực hiện đờng lối đổi mới của Đại hội VI và khẳng định: Nhà n-
ớc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tớc đoạt tài sản hợp
pháp, không gò ép tập thể hoá, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc
kế dân sinh.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành trung ơng Đảng lần thứ 2 năm
1992 đã đa ra một số chủ trơng để phát huy tiềm năng của doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nh
bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đợc phát huy
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, đợc tự do lựa
chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nớc ngoài theo những điều kiện do luật định; xoá bỏ những cấm
đoán và ràng buộc vô lý, những thủ tục phiền hà gây khó khăn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của nhân
dân; khuyến khích thành lập các tổ chức kinh tế xã hội của các doanh nghiệp t nhân, làm ngời đại diện cho các
thành viên trong việc đối nội, đối ngoại và làm cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nớc.
Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên


ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm
mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh....
Đại hội cũng xác định: Kinh tế t bản t nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nớc. Khuyến khích t bản t nhân
đầu t vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi
đôi tăng cờng quản lý, hớng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.
Hội nghị ban chấp hành trung ơng lần thứ t (khoá VIII) tháng 12 năm 1997 một lần nữa lại khẳng định:
Tiếp tục cụ thể hoá chủ trơng nhất quán xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và Khuyến khích phát triển
và quản lý tốt kinh tế t bản t nhân, đồng thời chủ trơng phát triển các hình thức hợp tác, liên doanh liên kết giữa
các thành phần kinh tế với các biện pháp cụ thể Nhà nớc chủ động đầu t và gọi vốn của các thành phần kinh tế,
nghiên cứu thí điểm việc Nhà nớc góp vốn mua cổ phần của các công ty t nhân, doanh nghiệp Nhà nớc thuê nhà
kinh doanh t nhân quản lý doanh nghiệp.
Trong văn kiện đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định rõ "Đảng chủ trơng thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh . . ."," khuyến khích phát triển kinh tế t bản t nhân rộng rãi, phát triển không hạn chế về
quy mô trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trờng kinh doanh thuận
lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế t bản t nhân phát triển . . .".
Từ ngày 18-2 đến ngày 2-3-2002 tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ơng
đảng khoá IX. Một trong 5 nghị quyết quan trọng đã đợc thông qua trong hội nghị là Nghị quyết về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế t nhân. Nghị quyết này đã thống nhất về
quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế t nhân: " Kinh tế t nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Phát triển kinh tế t nhân là vấn đề chiến lợc lâu dài . . . Nhà nớc tạo điều kiện thuận lợi và định hớng,
quản lý sự phát triển của kinh tế t nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. . . Nhà nớc tạo
môi trờng kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp t nhân phát triển
rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm . . ."
Tóm lại, để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, cần quán
triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng liên quan tới phát triển kinh tế t nhân, các quan điểm đó là:
- Quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần: Cần khẳng định rõ và nhất quán việc
phát triển kinh tế nhiều thành phần. Xoá bỏ những mặc cảm, kỳ thị đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế t nhân nói chung và các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nói riêng, tránh t tởng chủ quan, áp

đặt, đi ngợc đờng lối rộng mở của Đảng để các chủ doanh nghiệp yên tâm đầu t lâu dài.
- Quan điểm phát huy nội lực của nền kinh tế: Việc khuyến khích phát triển các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp là một quan điểm quan trọng trong việc phát huy nội lực của nền kinh tế. Phát triển
các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc thu hút vốn, lao động, kiến thức,
kinh nghiệm... trong dân vào phát triển kinh tế.
- Quan điểm xây dựng một xã hội dân giàu, nớc mạnh: Để phát triển các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp thì cần coi việc làm giàu chính đáng, hợp pháp của mỗi cá nhân đồng thời góp phần làm giàu
cho đất nớc là tốt, đáng ca ngợi.
- Quan điểm tự do kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội: Trừ một số lĩnh vực then chốt mà Nhà nớc
phải nắm giữ, các lĩnh vực khác cần dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế làm thớc đo, các doanh nghiệp không
phân biệt thành phần kinh tế làm ăn hiệu quả thì tồn tại và phát triển.
3.2. Giải pháp về chính sách
3.2.1. Chính sách tín dụng
Đổi mới chính sách tín dụng nhằm mục đích tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Chính sách tín dụng cần đổi mới theo hớng:
- Giữ lãi suất ổn định ở mức hợp lý để kích thích đầu t.
Lãi suất ảnh hởng rất lớn đến tốc độ mở rộng đầu t của doanh nghiệp. Lãi cho vay cao hay thấp ảnh h-
ởng trực tiếp đến lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. Do vậy, khi lãi suất cho vay phù hợp với mức lợi nhuận bình
quân của các doanh nghiệp trong nền kinh tế mới có tác dụng kích thích đầu t. Giảm lãi suất cho vay, suy cho
cùng cũng là một giải pháp hạn chế đợc rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
- Thực hiện chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp bình đẳng với
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Việc phân biệt lãi suất tín dụng giữa khu vực doanh nghiệp Nhà nớc và khu vực doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp đã chất dứt từ năm 1996, tuy vậy trong thực tế các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng nh đã phân tích ở phần thực trạng.
Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế có nghĩa là Nhà nớc phải quy định thống nhất các
nguyên tắc vay vốn ngân hàng đối với các doanh nghiệp, không phân biệt là doanh nghiệp nhà nớc hay doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Sự bắt buộc về tài sản thế chấp đối với số tiền vay là công cụ quan
trọng làm giảm các tổn thất của ngân hàng khi khách hàng không trả đợc nợ, nhng không nên quá chú trọng một
chiều về vấn đề này. Nói cách khác, không nên coi việc thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay nh một yếu tố tiên

quyết trong hoạt động tín dụng mà phải đặt lên hàng đầu tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án đầu t hoặc dự
án vay vốn để quyết định cho vay. Điều này là hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp vì một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp này là khả năng tạo lập các dự án đầu t cũng
nh năng lực về vốn tự có rất thấp.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu
bằng cách nới lỏng các điều kiện tham gia thị trờng chứng khoán. Các điều kiện cơ bản có thể là: có vốn điều lệ
tối thiểu từ 5 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh có lãi tối thiểu 1-2 năm, có 10% vốn cổ phần phát hành ra công
chúng. Hình thành đồng bộ cơ cấu tổ chức của thị trờng chứng khoán để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
huy động vốn trung, dài hạn, cụ thể là phát triển mạnh mẽ hơn nữa thị tr ờng sơ cấp, hình thành thị trờng chứng
khoán phi tập trung.
- Khuyến khích và thúc đẩy việc thành lập các tổ chức bảo lãnh tín dụng.
Có một thực tế xảy ra là một số không ít các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có khả
năng phát triển, có dự án đầu t khả thi nhng không đủ vốn thực hiện và không có đủ tài sản thế chấp để vay vốn
ngân hàng. Do vậy, nhiều doanh nghiệp hoặc phải chịu mất đi cơ hội để phát triển mạnh mẽ hoặc phải tiếp cận
với các nguồn vốn phi chính thức với lãi suất cao và mang tính ngắn hạn là chủ yếu. Nếu không có giải pháp hỗ
trợ để các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp tiếp cận đợc với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thì
đây sẽ là một trở ngại chính cho sự phát triển của các doanh nghiệp này. Vì vậy, Nhà nớc cần thực hiện biện
pháp bảo đảm tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp bằng cách thiết lập các quỹ bảo
lãnh tín dụng. Những tổ chức này đợc thành lập với sự hợp tác chặt chẽ của Phòng thơng mại, hiệp hội doanh
nghiệp, ngân hàng và Chính phủ. Nguyên tắc hoạt động là các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
có khả năng phát triển, có các dự án khả thi với hiệu quả cao nhng thiếu khả năng tài chính để thực hiện và
không đủ tài sản để thế chấp vay vốn tín dụng của ngân hàng sẽ nhận đợc khoản vay từ ngân hàng với sự bảo
lãnh của một tổ chức bảo lãnh tín dụng. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đến hạn trả nợ ngân hàng mà doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán và cũng không đợc ngân hàng cho gia hạn nợ thì tổ chức này sẽ có trách
nhiệm hoàn trả khoản vay đó cho ngân hàng (Ngoài ra các khoản vay này có thể đợc Chính phủ tái bảo lãnh).
Đồng thời, tổ chức bảo lãnh tín dụng cũng có trách nhiệm tham gia t vấn cho doanh nghiệp để giúp doanh
nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp đã trở lại hoạt động bình thờng thì phải có trách nhiệm
hoàn trả ttổ chức bảo lãnh tín dụng khoản tiền đã đợc tổ chức này thanh toán thay. Trong trờng hợp doanh nghiệp
bị phá sản thì tổ chức bảo lãnh tín dụng tham gia vào việc phân chia tài sản của doanh nghiệp với t cách nh một
chủ nợ của doanh nghiệp. Nh vậy, phát triển các tổ chức bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động theo

Luật doanh nghiệp là một biện pháp Nhà nớc chia sẻ rủi ro đối với ngời cho vay để thúc đẩy mở rộng tín dụng
đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có khả năng phát triển sản xuất kinh doanh nhng
không đủ khả năng tài chính có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng thuận lợi hơn.
- Phát triển mạnh mẽ hơn nữa các công ty cho thuê tài chính.
Đây là mô hình tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp
hoạt động theo Luật doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng thiếu vốn. Công ty cho thuê tài chính là tổ chức phi
ngân hàng, cho vay trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phơng tiện vận tải và các tài sản
khác theo hợp đồng. Bên cho thuê nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê, bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã ghi trong hợp đồng và không đợc huỷ hợp đồng trớc thời hạn.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê đợc quyền chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện cam kết trong hợp đồng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp thờng có quy
mô vốn nhỏ hẹp thì tín dụng thuê mua là hình thức cung cấp vốn rất thích hợp và có hiệu quả, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp này đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến. Để khuyến khích và tạo
điều kiện cho việc phát triển các công ty cho thuê tài chính, Nhà nớc cần thực hiện chính sách miễn giảm thuế
thu nhập cho loại hình công ty này và xếp nó vào lĩnh vực nghề đợc hởng u đãi về thuế. Trong việc xem xét cho
phép thành lập các tổ chức tín dụng nớc ngoài tại Việt Nam, Nhà nớc cần có chính sách khuyến khích thành lập
các công ty tín dụng thuê mua liên doanh với nớc ngoài hoặc 100% vốn nớc ngoài tại Việt Nam để đáp ứng nhu
cầu vốn dài hạn cho các doanh nghiệp, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của các nớc trong lĩnh vực này.
- Đồng thời các ngân hàng phải đổi mới phơng thức hoạt động cũng nh t duy trong đầu t tín dụng theo
hớng chủ động tìm kiếm và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lập dự án đầu t và lấy hiệu quả của dự án làm căn cứ
cơ bản nhất để xem xét quyết định cho vay.
Nói cách khác, các ngân hàng thơng mại cần có sự phối hợp chặt chẽ nhằm kịp thời ngăn chặn rủi ro,
cùng với việc chủ động tìm đến với khách hàng nhằm tìm kiếm thông tin về khách hàng, giảm bớt tình trạng
thông tin không hoàn hảo, đồng thời giảm bớt chi phí thẩm định dự án vay vốn.
Đồng thời, cần thay đổi quan điểm của nhiều cán bộ ngân hàng trong hoạt động tín dụng, nên coi các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là nguồn sống của ngân hàng,
từ đó sẽ có các đối sách phù hợp. Và một điều quan trọng hơn là ngân hàng phải đóng vai trò là nhà t vấn cho
doanh nghiệp để họ sử dụng tiền vay có hiêụ quả. Trong quan hệ tín dụng, việc tạo lập đ ợc mối quan hệ lâu dài
trên tinh thần hỗ trợ lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả hai phía,
vừa thúc đẩy mở rộng đầu t tín dụng một cách an toàn hiệu quả cho các ngân hàng, vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu

vốn cho các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp thì điều này lại
càng có ý nghĩa quan trọng.
3.2.2. Chính sách tài chính
Chính sách tài chính cần đổi mới theo hớng:
- Thực hiện một mức thuế suất thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng đợc ban hành với 4 mức thuế suất và 26 trờng hợp miễn giảm thuế. Nhiều mức
thuế suất và nhiều trờng hợp miễn giảm thuế chắc chắn sẽ tạo ra những cơ hội và những động cơ trốn thuế. Vì
vậy, cần đợc giải quyết sớm tình trạng này bằng cách giảm số lợng thuế suất xuống còn 2 mức là 0% và 10%.
Mức 0% áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, còn 10% áp dụng cho tất cả các hàng hoá và dịch vụ khác.
Có hai lý do để đa ra đề nghị này. Nh chúng ta đã biết, thuế giá trị gia tăng là loại thuế đợc thực hiện một cách
liên tục qua các khâu sản xuất, lu thông của hàng hoá, dịch vụ mà thuế phải nộp đợc đợc tính bằng chênh lệch
giữa thuế đầu ra và thuế đầu vào nên tổng số thuế giá trị gia tăng phải nộp của một hàng hoá nào đó hoàn toàn
phụ thuộc vào giá cả và thuế suất ở công đoạn cuối cùng. Điều này cho thấy, nếu ở các khâu trớc thuế đợc tính
với thuế suất thấp thì đợc khấu trừ ít, còn nếu thuế đợc tính với thuế suất cao thì sẽ đợc khấu trừ nhiều. Nh vậy, ở
các khâu trung gian thuế suất cao hay thấp không ảnh hởng đến tổng số thuế phải nộp cho một sản phẩm nên
việc chỉ sử dụng một mức thuế suất (không kể mức 0%) sẽ là khoa học. Còn việc quy định mức thuế suất chung
10% là hợp lý vì đây là mức phổ biến ở các nớc Đông Nam á.
- Xác định mức thuế hợp lý, vừa đảm bảo thu đủ cho Ngân sách, vừa đảm bảo mức độ hữu dụng thuế
cho các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ tích luỹ vốn đầu t phát triển và
hạn chế đợc hiện tợng trốn thuế.
+ Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: Quay lại với quy định trong Thông t 18/2002/TT-BTC ban
hành ngày 20 tháng 2 năm 2002 hớng dẫn thi hành Nghị định 26/2001/NĐ-CP và Nghị định 30/1998/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng Nhà nớc mới chỉ quan tâm đến
việc tăng cờng các nguồn thu cho ngân sách mà cha thực sự khuyến khích các doanh nghiệp trong việc nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo quy định tại Thông t: Các cơ sở sản xuất kinh doanh có thu nhập cao do
địa điểm kinh doanh thuận lợi, ngành nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh mang lại thu nhập cao, sau khi nộp thuế
thu nhập theo thuế suất 32% mà phần thu nhập còn lại cao hơn 20% vốn chủ sở hữu hiện có thì số v ợt trên 20%
phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung với thuế suất 25%. Và nh phần thực trạng đã trình bày, thực chất
của quy định này có nghĩa là nếu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cao hơn 20%
thì doanh nghiệp đó phải nộp thuế thu nhập bổ sung. Điều này sẽ dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp có trình độ tổ

chức quản lý sản xuất và quản trị tài chính tốt mang lại lợi nhuận cao cho chủ doanh nghiệp thì lại phải nộp thuế
thu nhập bổ sung nhiều hơn. Để khắc phục bất cập trên Nhà nớc nên bỏ thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
bổ sung.
+ Cần sửa đổi thuế thu nhập đánh vào ngời có thu nhập cao bằng cách giảm bớt thuế suất biên và tăng
số đối tợng tính thuế để theo sát với các nớc Đông Nam á khác.
- Thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế, giữa khu vực vốn trong nớc với khu vực có vốn đầu t nớc ngoài.
+ Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: thống nhất thuế suất 25% cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp, đây là giới hạn thấp của mức thuế thu nhập doanh nghiệp ở Đông Nam á. Để đảm bảo công bằng và
khuyến khích sự phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp thì nên cho phép tính vào chi phí hợp lý để tính thuế

×