Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.65 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau gần 30 năm đổi mới, từ một quốc gia còn nghèo nàn lạc h ậu, từ m ột
quốc gia còn đang gặp phải rất nhiều khó khăn về nên kinh tế mà gi ờ đây, chúng
ta tự hào rằng, không chỉ là thoát nghèo, mả cả nước và nhân dân Việt Nam đã
đang và sẽ tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập v ới bạn bè năm châu.
Trong một thời gian dài, có thể nói, Việt Nam là một trong những nước có nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Quy mô nền kinh tế tăng
lên, quá trình hội nhập kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đời s ống ng ười dân ngày m ột
nâng cao. Đạt được những thành công này có phần đóng góp quan tr ọng của
cộng đồng doanh nghiệp và khu vực FDI tại Vi ệt Nam. K ể từ khi Lu ật Đ ầu tư
nước ngoài được ban hành, dòng vốn đàu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được
khơi thông nhanh chóng và tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam thông
qua huy động nguồn vốn cho phát tri ển, thúc đẩy tăng tr ưởng kinh t ế, tạo đi ều
kiện cho chuyển giao công nghệ; thúc đẩy quá trình chuy ển đổi quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao đ ộng và m ở r ộng
hội nhập với thế giới. FDI không những góp phần khơi dậy đầu tư trong nước
mà còn giúp kinh tế Việt Nam hội nhập sâu với nền kinh tế th ế gi ới. Trong b ối
cảnh tích lũy không đáp ứng nhu cầu về đầu tư, nguồn v ốn FDI đã th ực s ự là
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát tri ển. Bên cạnh đó, nó còn góp
phần đáng kể vào thu ngân sách và các cân đối vĩ mô; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp; tạo vi ệc làm, tăng năng su ất lao
động; đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.
Để thu hút thêm nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước ta đã và
đang có những chính sách phù hợp, cũng như cần thi ết cho Vi ệt Nam đ ể nh ằm
phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, những ảnh hưởng mà nguồn vốn FDI
mang lại không chỉ là mặt tích cực, do đó, chúng ta cần phải xem xét kĩ l ưỡng
trên mọi phương diện. “PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THU
HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM NH ỮNG NĂM GẦN ĐÂY” là

1



một trong những đề tài được nghiên cứu trong học phần NHẬP MÔN TÀI CHÍNH
TIỀN TỆ. Đề tài thảo luận được chia làm 3 phần chính:
Chương I:

Tổng quan về chính sách thu hút đầu tư trực ti ếp nước ngoài (FDI)

Chương II: Thực trạng chính sách thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 20112015 Chương III: Giải pháp, kiến nghị
Với một phạm vi bao quát r ộng l ớn, ch ắc ch ắn v ẫn còn nh ững thi ếu sót,
nhóm thực hiện đã tiến hành tìm hiểu, học hỏi và thảo thành một b ản báo cáo
với hi vọng có thể góp phần nào đó trong việc giúp m ọi người hi ểu h ơn về th ực
trạng chính sách thu hút vốn đàu tư nước ngoài ở Vi ệt Nam gần đây (giai đo ạn
2011-2015). Rất mong nhận được sự góp ý quý báu của cô để bài thảo luận của
chúng em được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

2


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TI ẾP
NƯỚC NGOÀI

1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổ chức thương mại thế giới định nghĩa như sau về FDI: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ m ột nước (nước chủ đầu tư) có
được một tài sản ở nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quy ền quản lý tài
sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý
ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay

“ chi nhánh công ty””.
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đưa ra định nghĩa về FDI như sau: “FDI là m ột
hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong
một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh
tế của nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý toàn
bộ doanh nghiệp”.
Từ đó, có thể khái quát: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là
việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì một tài s ản vào
quốc gia đó để có quyền được sở hữu và quản lí hoặc quy ền ki ểm soát m ột th ực
thể kinh tế tại quốc gia đó với mục tiêu tối đa hóa lợi ích kinh t ế c ủa mình.”

1.2. Khái niệm chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

3


Trên phạm vi quốc tế cũng như trong khu vực, cuộc cạnh tranh thu hút FDI
đang diễn ra gay gắt do ngày càng nhiều quốc gia chuyển hướng theo kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, mở cửa để buôn bán và đầu tư với thế giới. Do vậy, Chính
phủ các nước thường xuyên điều chỉnh các chính sách trực tiếp tác động và chính sách
có liên quan đến FDI nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng quốc gia.
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được hình thành bằng các ưu đãi
về thuế, đất đai, cơ chế thuận lợi trong việc chu chuyển vốn, xuất nhập khẩu, kinh
doanh trên thị trường trong nước và các bảo đảm bằng luật pháp quyền sở hữu vốn và
tài sản, sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư.

1.3. Vai trò của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
“FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn
đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển.”
Đối với các nước đang phát triển, việc tiếp nhận số lượng lớn vốn đầu từ nước

ngoài sẽ vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về
mặt cầu, vì đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi chủ chi tiêu nên những thay đổi
bất thường về đầu tư có ảnh hưởng lớn đến sản lượng và thu nhập về mặt ngắn hạn.
Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào
hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng
tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm giảm xuống. Sản lượng tăng, giá cả giảm
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn
nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế - xã
hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã
hội.

“Đầu tư sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế”
Theo mô hình của NUSKSE, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần phá vỡ
cái “vòng luẩn quẩn” của các nước đang phát triển. Bởi chính cái vòng luẩn quẩn đó
đã làm hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ
thuật cũng như lực lượng sản xuất trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ. Đồng thời
4


qua đó cho chúng ta thấy chỉ có “mở cửa” ra bên ngoài mới tận dụng được tối đa lợi
thế so sánh của nước mình để từ đó phát huy và tăng cường nội lực của mình. Các
nước NICs trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài
cho phát triển kinh tế cùng với một chính sách kinh tế năng động và có hiệu quả đã trở
thành những con rồng Châu Á .

“Đầu tư sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế”
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng
trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự
phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết
những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát

triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị, … Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản
phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp
ứng tốt hớn các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

“Đầu tư sẽ làm tăng cường khả năng khoa học công nghệ của quốc gia”
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty đa
quốc gia) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc từ nước khác sang nước nhận
đầu tư. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối,
song điều không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ
nhà nhận được những kỹ thuật tiên tiến (trong đó có những công nghệ không thể mua
được bằng quan hệ thương mại đơn thuần) cùng với nó là kinh nghiệm quản lý, đội
ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp
làm việc, kỷ luật lao động … ).
Từ đó, có thể thấy rằng chính sách thu hút trực tiếp vồn đầu tư nước ngoài là
vô cùng quan trọng trong việc đầu tư, xây dựng và phát triển nền kinh tế của nước sở
tại. Thông qua tiếp nhận đầu tư , các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và
thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi nhanh hơn với
5


các thay đổi trên thị trường thế giới… FDI có vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế
giới.

1.4. Những yếu tố tác động đến chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.4.1. Môi trường chính trị- xã hội
Sự ổn định chính trị - xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử
dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không

ổn định, đặc biệt là thể chế chính trị (đi liền với nó là sự thay đổi luật pháp) thì mục
tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi. Hậu quả là lợi ích của các nhà
ĐTNN bị giảm (họ phải gánh chịu một phần hay toàn bộ các thiệt hại đó) nên lòng tin
của các nhà đầu tư bị giảm sút. Mặc khác, khi tình hình chính trị - xã hội không ổn
định, Nhà nước không đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các nhà ĐTNN, hậu quả
là các nhà đầu tư hoạt động theo mục đích riêng, không theo định hướng chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội của nước nhận đầu tư. Do đó hiệu quả sử dụng vốn FDI rất
thấp.
Kinh nghiệm cho thấy, khi tình hình chính trị -xã hội bất ổn thì các nhà đầu tư
sẽ ngừng đầu tư hoặc không đầu tư nữa. Chẳng hạn, sự lộn xộn ở Nga trong thời gian
qua đã làm nản lòng các nhà đầu tư mặc dù Nga là một thị trường rộng lớn, có nhiều
tiềm năng...Tuy nhiên, nếu chính phủ thực hiện chính sách cởi mở hơn nữa thì chỉ làm
giảm khả năng thu hút các nhà ĐTNN, cá biệt có trường hợp trong chiến tranh vẫn thu
hút được FDI song đó chỉ là trường hợp ngoại lệ ddối với các công ty thuộc tổ hợp
công nghiệp quân sự muốn tìm kiếm cơ hội buôn bán các phương tiện chiến tranh
hoặc là sự đầu tư của chính phủ thông qua hình thức đa phương hoặc song phương

6


nhằmthực hiện mục đích riêng. Rõ ràng, trong trường hợp này, việc sử dụng FDI
không đem lại hiệu kinh tế - xã hội cho nước tiếp nhận đầu tư.
1.4.2. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu hút được FDI,
nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và là nơi
có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn
định, hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì mới có điều kiện sử
dụng tốt FDI. Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô được đánh giá thông qua tiêu chí: chống
lạm phát và ổn định tiền tệ. Tiêu chí này được thực hiện thông qua các công cụ của

chính sách tài chính tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các công
cụ thị trường mở đồng thời phải kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách hoặc giữ cho
ngân sách cân bằng.
1.4.3. Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu
quả
Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một
hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu
tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và hỗ trrợ chocác nhà ĐTNN.
Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là:
- Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật bảo
đảm.
- Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với
các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài.
- Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất...Bởi yếu tố này tác động trực tiếp đến giá
thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an toàn về
vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư không phương hại
đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước
thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao.
7


Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc:
Tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng
thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực là bộ
máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản
lý có năng lực, năng động,có phẩm chất đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI phải
chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến sự
phát triển chung của nền kinh tế và xã hội.
1.4.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật

Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy
hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định.
Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng lượng, hệ thống
cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng... tạo điều kiện cho các dự án
FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ
phát triển của mỗi quốc gia và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.Trong quá trình thực
hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện
các dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển,
thông tin...sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư.
1.4.5. Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại.
Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi
trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị
trường hàng hoá - dịch vụ... Các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước chủ
nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị trường đồng bộ, đảm bảo cho
hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Thị trường lao động là nơi
cung cấp lao động cho nhà đầu tư. Thị trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay vốn
để tiến hành sản xuất kinh doanh và thị trường hàng hoá - dịch vụ là nơi tiêu thụ sản
phẩm, lưu thông hàng hoá, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ thống thị trường này

8


sẽ đảm bảo cho toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi - từ
nguồn đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
1.4.6. Trình độ quản lý và năng lực của người lao động.
Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả
FDI. Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao động phù hợp
với yêu cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng xuất cao. Bên cạnh đó, các nhà
ĐTNN sẽ giảm một phần chi phí đào tạo và bớt được thời gian đào tạo nên tiến độ và

hiệu quả của các dự án sẽ đạt đúng theo mục tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho
nước chủ nhà thua thiệt, đặc biệt là ở các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI.
Sai lầm của các cán bộ quản lý nhà nước có thể làm thiệt hại về thời gian, tài chính
cho nhà ĐTNN và cho nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà phải tích cực nâng cao
trình độ dân trí của người lao động để không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến mà còn nâng cao kỹ thuật quảnlý kinh tế.
1.4.7. Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới.
Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác, mà
còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu vực và
thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà dầu tư sẽ tập trung
nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được
nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các
dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để
phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu và
thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh hưởng
nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của họ. Chẳng
hạn, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á trong thời gian qua dã làm giảm tốc
độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút vốn hoặc không đầu tư
nữa vì sợ rủi ro cao.

9


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI Ở
VIỆT NAM (2011-2015)

2.1. Nội dung chính sách thu hút FDI của Việt Nam
a. Mục tiêu, định hướng thu hút FDI của Việt Nam
Trên cơ sở định hướng, mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

2011-2020, thực tiễn khảo sát và đánh giá khách quan thực trạng tình hình thu hút FDI
thời kỳ 2001-2010, xu thế phát triển của FDI thế giới sau khủng hoảng kinh tế với sự
điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung
Quốc và các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs)... có 4 định hướng chính cho việc thu
hút FDI vào Việt Nam trong giai đoạn tới như sau:
Thứ nhất: Chất lượng và hiệu quả cao;
Thứ hai: Phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các bon;
Thứ ba: Có sự cam kết về chuyển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự
án;
Thứ tư: Lao động có kỹ năng cao.
10


Từ 4 định hướng chung đó, có thể đặt ra mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài
phải đảm bảo các yêu cầu sau:

“Nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dự án FDI”
Trong quá trình xem xét, thẩm định dự án, tiêu chí hàng đầu là xem xét sự phù
hợp của dự án với mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, với quy
hoạch của từng ngành, từng địa phương, sau đó mới xem xét các tiêu chí khác như:
1) Dự án đưa lại lợi ích gì cho ngành, cho địa phương (như thu ngân sách, chuyển
giao công nghệ, hình thành đội ngũ lao động có kỹ năng cao);
2) Dự án có làm tổn hại đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống
của cộng đồng dân cư;
3) Có nên dành cho doanh nghiệp trong nước (nếu các doanh nghiệp này đáp ứng
được) để dần hình thành đội ngũ doanh nghiệp lớn mạnh.
Về nguyên tắc, FDI không phải là bắt buộc lựa chọn đối với một quốc gia.
Chính phủ các nước có quyền xem xét, lựa chọn dự án và đối tác đầu tư trên cơ sở các
tiêu chí do mình đặt ra, song cũng có thể từ chối cấp phép đối với những dự án FDI
không bảo đảm các tiêu chuẩn về lao động, tiền lương, an toàn lao động, gây ô nhiễm

môi trường, không phù hợp với lợi ích cộng đồng. Hoặc các dự án khai thác tài
nguyên để xuất khẩu, không sản xuất chế biến để làm gia tăng giá trị sản phẩm. Đặc
biệt là các dự án đầu tư sân bay, cảng biển hoặc trồng rừng có liên quan đến an ninh
quốc gia ở các vùng biên giới cần phải cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi cấp phép. Nhà
nước đề ra định hướng thu hút FDI đối với ngành, lĩnh vực theo hướng phát triển bền
vững, khuyến khích với các ưu đãi cao nhất đối với những dự án thân thiện môi
trường, như năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời, điện gió, xây dựng tòa cao ốc
xanh và tiết kiệm năng lượng, công nghiệp hiện đại ít gây ô nhiễm môi trường, dịch
vụ có chất lượng cao, tạo ra phương thức sản xuất và kinh doanh mới.

“Phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các bon”
11


Tiêu chí này đòi hỏi khắt khe hơn đối với các dự án FDI, vì thực tế đã có hiện
tượng một số quốc gia đang tiến hành nhiều dự án khai thác tài nguyên, chuyển giao
các ngành công nghiệp không thân thiện với môi trường và phát thải nhiều khí các
bon; nếu chúng ta không xem xét kỹ, khó lường trước hậu quả tiêu cực xẩy ra.
Định hướng thu hút đầu tư có liên quan đến việc chủ động lựa chọn dự án FDI
của các cơ quan nhà nước địa phương. Việc thu hút FDI phải dựa trên lợi ích lâu dài
của quốc gia, không thể dễ dãi, tùy tiện, cả tin vào những lời hứa thiếu căn cứ của một
số nhà đầu tư. Bởi vì, nếu các nhà đầu tư quốc tế có quyền lựa chọn lĩnh vực đầu tư và
quốc gia để thực hiện dự án, thì nước chủ nhà có quyền cho phép hoặc từ chối những
dự án không có lợi cho quốc gia và lợi ích của cộng đồng dân cư. Do đó, khi thẩm
định dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp cần đòi hỏi nhà đầu tư phải bảo
đảm các tiêu chuẩn môi trường, có đủ khả năng tài chính để đầu tư hệ thống xử lý chất
thải, có công nghệ để phát thải ít khí các bon nhất theo mức tiên tiến của thế giới.
Các cam kết phải được thực hiện nghiêm túc và chỉ sau khi cơ quan chức năng
kiểm tra, giám sát thực địa, xác nhận đã đủ tiêu chuẩn thì mới được vận hành nhà máy.
Đối với các dự án FDI đang hoạt động thì phải có quy định thời hạn phải thay đổi

công nghệ để tiết kiệm năng lượng. Do vậy, khi cấp phép các dự án FDI cần đòi hỏi
khắt khe công nghệ giảm thiểu phát thải khí các bon, đối với các nhà máy đang hoạt
động cần yêu cầu họ có lịch trình cam kết ứng dụng công nghệ mới giảm thiểu phát
thải khí các bon. Các tòa nhà do nhà đầu tư nước ngoài xây dựng phải áp dụng công
nghệ mới sử dụng ít năng lượng, tòa nhà xanh, thân thiện với môi trường.
Cũng cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn đối với các dự án năng
lượng tái tạo, thay thế từ các nguồn rác thải, điện mặt trời, điện gió, bởi vì suất đầu tư
vào những dự án này khá cao, giá thành vượt nhiều lần giá điện thương phẩm hiện
nay, do vậy theo kinh nghiệm quốc tế, chỉ khi nào có sự hỗ trợ ban đầu của nhà nước
và bằng cơ chế cạnh tranh, thông qua đấu thầu minh bạch thì mới có thể phát triển
nhanh các nguồn năng lượng mới.

“Về chuyển giao công nghệ trong FDI”
12


Trong tình hình mới, các cam kết về chuyển giao công nghệ cần được coi trọng
hơn trong khi thẩm định dự án FDI, bởi vì mặc dù vốn đầu tư vẫn là một mục tiêu
quan trọng thu hút FDI, nhưng để có chuyển biến về chất trong quá trình công nghiệp
hóa thì công nghệ phải được ưu tiên. Một vấn đề quan trọng trong chuyển giao công
nghệ là phải đào tạo lao động kỹ thuật có trình độ cao (có trình độ đại học và trên đại
học từ 2-3% trên tổng số lao động).

“Về lao động có kỹ năng cao”
Việc chuyển nhanh từ lợi thế về lao động phổ thông sang lao động có kỹ năng
để thích ứng với giai đoạn mới của sự phát triển vừa đạt được đồng thời hai mục tiêu:
một là, những ngành nghề sử dụng nhiều lao động phổ thông dành ưu tiên cho các
doanh nghiệp trong nước, nhất là lĩnh vực đòi hỏi ít vốn đầu tư nhưng giải quyết được
nhiều lao động; hai là, những ngành cần lao động có kỹ năng như công nghệ và dịch
vụ cao thì thu hút FDI với cam kết về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, để hình

thành đội ngũ các nhà quản lý, kỹ sư, công nhân kỹ thuật ngang tầm khu vực và tiếp
cận tầm quốc tế như Thái Lan đã áp dụng cách làm này rất hiệu quả. Đáng lưu ý nhân
lực trong ngành Điện cần phải quan tâm nhiều hơn, nhất là khi Việt nam hợp tác đầu
tư xây dưng và vận hành các nhà máy điện nguyên tử hoặc nhân lực trong các ngành
CNHT khi phải chế tạo các thiết bị, linh kiện tinh xảo phục vụ cho ngành công nghiệp
điện, điện tử, cơ khí chính xác, v.v...
Với định hướng thu hút FDI vào các ngành sản xuất công nghiệp nêu trên, hy
vọng không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đầu tư, hiệu quả quản lý nhà nước về
đầu tư, mà còn tạo ra một làn sóng mới về thu hút đầy tư nước ngoài vào Việt Nam
trong thời gian tới.
b. Các chính sách khuyến khích thu hút FDI
* Hình thức đầu tư, hình thức pháp lý và chuyển nhượng vốn

13


Luật cho phép 100% vốn nước ngoài ngay từ đầu nhưng sau một thời gian mới
thực sự cấp phép và chuyển một số liên doanh thành 100% vốn trong nước hoặc nước
ngoài
Hình thức pháp lý: Công ty trách nhiệm hữu hạn là hình thức duy nhất cho
đầu tư nước ngoài.
Chuyển nhượng vốn: Từ năm 2001 việc phê duyệt hợp đồng chuyển nhượng
vốn đã được xoá bỏ, đồng thời liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
không còn phải ưu tiên chuyển nhượng cho Việt Nam.
* Thủ tục đầu tư
Các lần sửa đổi luật đã ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn với thủ tục đơn
giản hơn, nhanh chóng hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Việc cấp phép vừa theo
ngành nghề vừa theo quy mô dự án, quy hoạch. Tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với
một số sản phẩm công nghiệp đã được xoá bỏ và được thay bằng ưu đãi cấp phép
theo chế độ đăng ký. Thủ tục cho thuê đất đã được chuyển từ Thủ tướng Chính phủ

sang Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép cho thuê đất.
* Phân cấp quản lý
Phân cấp trong việc cấp phép, quản lý cho tất cả các địa phương nhưng xác
định trách nhiệm không rõ ràng. Phân cấp tạo ra sự cạnh tranh thu hút đầu tư bằng
cách ban hành thêm các quy định quá mức, có lợi cho các nhà đầu tư nhưng tạo ra sự
khác biệt khá lớn trong việc thực hiện chính sách chung của trung ương.
* Ưu đãi về tài chính
Hình thức ưu đãi bao gồm miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế thu
nhập doanh nghiệp (doanh thu), thuế chuyển lợi nhuận, tái đầu tư, chuyển lỗ và
khấu trừ chi phí, thuế bản quyền đối với chuyển giao công nghệ, Ưu đãi theo ngành
nghề:, Ưu đãi theo địa bàn, Ưu đãi thêm của địa phương: tiền thuê đất, thuế thu
nhập doanh nghiệp, chi phí hạ tầng do địa phương cung cấp, đào tạo nhân lực, cung
cấp thông t in.
* Ngoại tệ và vay vốn

14


Tiền đồng chưa được chuyển đổi tự do cho tất cả các giao dịch thương mại
theo yêu cầu của doanh nghiệp (kể cả trong nước).
* Visa, giấy phép lao động và tiền lương
Đã miễn visa ngắn hạn cho các nước ASEAN, APEC, miễn visa cho người
được cấp thẻ APEC nhưng chưa thể xin cấp visa tại cửa khẩu. Quy định và thủ tục
xin giấy phép lao động khá phức tạp, nhất là các giấy tờ phải công chứng và chứng
thực tư pháp. Doanh nghiệp nước ngoài đã được tự tuyển lao động, không bắt buộc
phải thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm. Tiền lương tối thiểu đối với doanh
nghiệp nước ngoài cao hơn trong nước và được điều chỉnh tăng liên tục từ 35USD
năm 2002 lên 870.000VNĐ năm 2006 với khoảng cách chưa được thu hẹp so với
mức lương tối thiểu cho doanh nghiệp trong nước.
* Đất đai và tiền thuê đất

Tương tự như người Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu
đối với đất đai mà chỉ có quyền thuê đất với thời hạn tối đa là 70 năm. đa số có thời
hạn 20-30 năm. Thực tế nhà đầu tư nước ngoài phải trả tiền thuê đất đắt hơn nhà đầu
tư trong nước khoảng 20% .
* Cung cấp hạ tầng
Cho đến nay vẫn thiếu một số hạ tầng cơ bản, nhất là điện, vận tải. Các dịch
vụ thiếu đa dạng, giá cao, chất lượng thấp các nhà đầu tư phải tự giải quyết những
dịch vụ còn thiếu.
* Giải quyết tranh chấp
Lúc ban đầu các tranh chấp trong đầu tư chỉ được giải quyết dựa trên Pháp
lệnh về hợp đồng kinh tế vốn có nhiều hạn chế về đối tượng áp dụng và thiếu các quy
định chi tiết về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, cách thức xử lý tranh chấp.
* Các chính sách đảm bảo đầu tư
Việt Nam đã không ngừng mở rộng các cam kết quốc tế nhằm duy trì những
điều kiện thuận lợi và ổn định nhất cho các nhà đầu tư, gồm có: Chính sách không
phân biệt đối xử, Rõ ràng minh bạch, Ổn định và nhất quán.
15


Trong thế giới hiện đại, lợi thế so sánh của một nước đã thay đổi. Tài nguyên
thiên nhiên vẫn là một lợi thế, nhưng không còn giữ vị trí trọng yếu như trong thời kỳ
công nghiệp thâm dụng tài nguyên là phổ biến. Yếu tố địa - chính trị giữ vai trò quan
trọng nhưng đã thay đổi nhiều do tiến bộ trong công nghệ thông tin, giao thông, vận
tải và viễn thông. Ngày nay, ổn định chính trị và an ninh kinh tế, an toàn xã hội trở
thành lợi thế nổi trội trong một thế giới đầy biến động cùng với sự xuất hiện ngày
càng nhiều của các tổ chức khủng bố quốc tế. Chi phí lao động vẫn là một yếu tố được
nhiều nhà đầu tư coi trọng, nhất là trong lĩnh vực và ngành nghề sử dụng nhiều lao
động, tuy nhiên, năng suất lao động mới là yếu tố hàng đầu, gắn với trình độ lành
nghề, năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại, đội ngũ lao động có cơ cấu hợp lý, được
đào tạo tốt đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng lao động của doanh nghiệp.

Chính sách thu hút FDI được hình thành bằng các ưu đãi về thuế, đất đai, cơ
chế thuận lợi trong việc chu chuyển vốn, xuất nhập khẩu, kinh doanh trên thị trường
trong nước và các bảo đảm bằng luật pháp quyền sở hữu vốn và tài sản, sở hữu trí tuệ
của nhà đầu tư.
Chính sách nâng cấp FDI được hình thành theo các định hướng ưu tiên thu hút
FDI như dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, xây dựng khu kinh tế đặc biệt với
những ưu đãi cao hơn so với các dự án FDI thông thường. Trong một số trường hợp,
có nước còn áp dụng hình thức trợ cấp của Chính phủ cho nhà đầu tư để họ thực hiện
dự án có quy mô lớn, tác động lan tỏa rộng, thuộc danh mục ưu tiên cao nhất.
Chính sách khuyến khích các mối liên kết giữa tập đoàn quốc tế với doanh
nghiệp trong nước được hình thành như là một phần trong chính sách công nghiệp,
dịch vụ của từng quốc gia, nhằm làm cho các doanh nghiệp trong nước được hưởng
lợi từ FDI nhờ vào mối quan hệ hợp tác và phân công về công nghệ và thị trường tiêu
thụ với các tập đoàn quốc tế. Chính sách này cũng khuyến khích tập đoàn quốc tế hợp
tác với các cơ sở đào tạo (nhất là bậc đại học và dạy nghề trình độ cao), tổ chức
nghiên cứu khoa học trong nước để nâng cao hơn nữa trình độ và năng lực của các cơ
sở, tổ chức đó.
16


Tuy nhiên, trong suốt thập niên đầu của thiên niên kỷ mới, việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế vẫn diễn ra chậm chạp, cơ cấu đầu tư của FDI cũng trong tình trạng đó,
các ưu tiên đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, dịch vụ
chất lượng cao, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu và phát triển không đạt được như kỳ
vọng. Do vậy, làm giảm tác động của FDI đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Trong 5 năm (2011 - 2015), việc điều chỉnh chính sách FDI gắn với cải cách
thủ tục hành chính đã làm cho hoạt động FDI khởi sắc, đặc biệt là từ 2013 đến nay,
nhiều nhà đầu tư tiềm năng đang thực hiện những dự án công nghệ cao với quy mô
vốn hàng tỷ USD như Samsung, LG, Microsoft - Nokia, Intel… đã giúp Việt Nam dần

trở thành địa điểm sản xuất hàng điện tử của thế giới.
Trong điều kiện nước ta đã là thành viên của WTO, Chính phủ cần hướng vào
chính sách nâng cấp FDI, trong khi vẫn khuyến khích các nhà đầu tư vừa và nhỏ, cần
khai thác thế mạnh của những tập đoàn kinh tế nằm trong 500 doanh nghiệp lớn nhất
thế giới; trong khi vẫn quan tâm đến đầu tư từ các nước châu Á, cần có giải pháp để
gia tăng nhanh chóng dòng vốn FDI từ các nước OECD, nhất là Mỹ, nước có FDI
đứng đầu thế giới và các nước lớn trong EU như Đức, Pháp, Anh.
Kinh nghiệm thực tế cũng đã chỉ ra rằng, yếu tố quan trọng hấp dẫn nhà đầu tư
nước ngoài chính là tính ổn định trong chính sách khuyến khích thu hút FDI. Khi
Chính phủ thay đổi chính sách thì cần tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh làm thiệt
hại lợi ích của nhà đầu tư. Trong trường hợp bất khả kháng, Chính phủ áp dụng chính
sách không có lợi cho nhà đầu tư thì cần thực hiện nguyên tắc “không hồi tố”, hoặc
bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do chính sách mới gây ra.
Các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn kinh tế lớn luôn mong muốn
Chính phủ Việt Nam có những cam kết rõ ràng như công khai, minh bạch về luật
pháp, thực hiện đúng các quy định của WTO về đầu tư có liên quan đến thương mại,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý tranh chấp và bảo đảm các cam kết đó được thực
hiện trong suốt quá trình đầu tư và kinh doanh của họ.
17


2.2. Thực trạng việc áp dụng chính sách thu hút (2011-2015)
Việt Nam đã chịu nhiều ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế thế giới,
đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng tài chính và nợ công (2012-2013)
nhưng thành quả của việc thu hút nguồn ngoại lực, nhất là nguồn
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong thời gian qua là rất đáng ghi nhận.
Hoạt động này đã tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào các diễn
đàn thế giới và từng bước tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn
cầu.



2011- 2012
Tỉ trọng đóng góp đầu tư nước ngoài qua các năm vào GDP

tăng dần đạt 19% GDP vào năm 2011, đóng góp cho 11,2 tỷ USD
vào thu ngân sách vào giai đoạn 2001- 2010. Riêng năm 2012 khu
vực này đóng góp 11.9 % tổng số thu ngân sách.
Sự gia tăng tổng số vốn đầu tư nước ngoài được gia tăng mạnh
mẽ qua nhiều thời kì khác nhau, từ khoảng 20,67 tỷ USD chiếm
24,32 % tổng số vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2000 nay đã tăng lên
69.47 tỷ USD chiếm 22.75% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2012.
Tỉ trọng đầu tư vốn nước ngoài trong cơ cấu tăng 5.4% trong giai
đoạn năm 2011
Việt Nam đã tạo được khoảng 2 triệu lao động trực tiếp và
khoảng 3- 4 triệu lao động gián tiếp nâng cao chất lượng nguồn lực
và thay đổi cơ cấu lao động góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
công nghệ về máy móc trang thiết bị hiện đại, tri thức, cách thức
quản lí đưa các doanh nghiêp nhà nước phát triển thay đổi thủ tục
hành chính về thể chế kinh tế thị trường, xây dựng đội ngủ chuẩn về
quản lí nhà nước về đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng mạnh đến cơ cấu nhân lực lao
động theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa của Việt Nam. Trong
18


khu vực công nghiệp và xây dựng tỷ trọng đầu tư nước ngoài khu
vực bình quân đạt 18% năm, tăng cao đột ngột toàn ngành, trong
khu vực nông – lâm – ngư nghiệp đầu tư nước ngoài đã chuyenr dịch
cơ cấu nông nghiệp đa dạng hóa các sản phẩm cũng như nâng cao
giá trị nông phẩm và xuất khẩu. Trong dịch vụ đầu tư nước ngoài đã

tăng thêm một số dịch vụ như viễn thông, du lịch quốc tế, tài chính,
bảo hiểm,…
Đến năm 2012 thì tổng số kim ngạch của vốn đầu tư nước
ngoài đã đạt 64% tổng kim ngạch xuất khẩu


2013
2013 - Một năm có thể coi là thành công của Việt Nam trong

thu hút vốn FDI, bởi tính đến giữa tháng 12/2013, đã có 21,6 tỷ USD
vốn FDI đổ vào Việt Nam, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong số này, có 14,3 tỷ USD của 1.275 dự án cấp mới, tăng 70,5%
và 7,3 tỷ USD vốn tăng thêm của 472 lượt dự án, tăng 30,8%.
Trong khi đó, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn FDI thực hiện
năm 2013 ước đạt 11,5 tỷ Sự có mặt và giải ngân nhanh chóng của
các dự án lớn, đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, như
Lọc dầu Nghi Sơn, tăng vốn thêm 2 tỷ USD, Nhiệt điện Vĩnh Tân 1,
vốn đầu tư 2 tỷ USD, Samsung Thái Nguyên - 2 tỷ USD…, được cho
là nguyên nhân khá cơ bản khiến kết quả thu hút và giải ngân vốn
FDI năm 2013 vượt mục tiêu đề ra. “Sức hấp dẫn của điểm đến đầu
tư Việt Nam vẫn tiếp tục được khẳng định. Năm qua, Việt Nam cũng
đã rất nỗ lực để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh”, ông Đỗ
Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư) nhận xét.
Vốn FDI vào Việt Nam hồi phục sau mấy năm suy giảm. Nếu đó
là một điểm sáng của bức tranh kinh tế 2013, thì một điểm sáng
19


khác - cũng được mang lại từ khu vực FDI - đó là xuất khẩu đạt kết

quả cao, lên tới 132,2 tỷ USD. Với kim ngạch nhập khẩu ước đạt
131,3 tỷ USD, năm nay là năm thứ hai liên tiếp, Việt Nam có xuất
siêu - với gần 900 triệu USD.
Ghi công lớn cho thành tích này là khu vực FDI, khi mang về
doanh thu xuất khẩu 88,4 tỷ USD (tính cả dầu thô), tăng 22,4%, còn
nếu không kể dầu thô là 81,2 tỷ USD, tăng 26,8% so với năm trước.
Khu vực này xuất siêu gần 14 tỷ USD trong năm nay USD, tăng 9,9%
so với năm 2012


2014
Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu

tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã
đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng
kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có
chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục về thu
hút đầu tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD). Nguyên nhân chủ yếu
là do chiến lược quy hoạch, kế hoạch thu hút, sử dụng FDI của Việt
Nam còn cứng nhắc, chưa khoa học và hợp lý cho từng thời kỳ. Hiện
Việt Nam chỉ mới thiên về kêu gọi vốn đầu tư, chưa có chiến lược
chăm sóc các nhà đầu tư sau khi được cấp phép đầu tư; Cơ cấu sử
dụng nguồn lực FDI của Việt Nam cũng chưa thực sự hợp lý, chỉ tập
trung chủ yếu ở hai lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ; loại hình doanh
nghiệp FDI mà Việt Nam thu hút đầu tư lại chỉ là doanh nghiệp nhỏ
và vừa, ít doanh nghiệp có quy mô lớn.
Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố
báo cáo tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
2014. Theo đó, tính chung cả cấp mới và tăng vốn trong 12 tháng
năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt

20


Nam 20,23 tỷ USD; bằng 93,5% so với cùng kỳ 2013 và tăng 19% so
với kế hoạch năm 2014 (17 tỷ USD).
Về vốn thực hiện, tính đến ngày 15/12/2014, ước tính các dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 12,35 tỷ USD, tăng
7,4 % so với cùng kỳ năm 2013 và tăng 2,9% so với kế hoạch năm
2014.
Về tình hình cấp giấy chứng nhận đầu tư, theo các báo cáo
nhận được, tính đến ngày 15/12/2014, cả nước có 1.588 dự án mới
được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký đạt 15,64 tỷ
USD; tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2013
Về lĩnh vực đầu tư, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu
hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài với 774
dự án đầu tư đăng ký mới; tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là
14,49 tỷ USD; chiếm 71,6% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 12 tháng
năm 2014.
Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 35 dự án đầu
tư đăng ký mới; tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 2,54 tỷ
USD; chiếm 12,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ 3 là lĩnh vực
xây dựng với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,05 tỷ
USD; chiếm 5,2% tổng vốn đăng ký.

21


Theo đối tác đầu tư, tính từ đầu năm 2014 đến nay, đã có 60
quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hàn Quốc
dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm là

7,32 tỷ USD, chiếm 36,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Hồng Kông đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp
mới và vốn tăng thêm là 3 tỷ USD; chiếm 14,8 % tổng vốn đầu tư.
Singapore đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và
vốn tăng thêm là 2,79 tỷ USD; chiếm 13,8% tổng vốn đầu tư. Tiếp
theo là Nhật Bản đứng ở vị trí thứ 4 với tổng vốn đăng ký cấp mới và
tăng thêm khoảng 2,05 tỷ USD; chiếm 10,1% tổng vốn đầu tư vào
Việt Nam.
Theo địa phương, trong 12 tháng năm 2014 nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 54 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong đó, dẫn
đầu về đầu tư nước ngoài là Thái Nguyên với 3,35 tỷ USD vốn đăng
ký mới và vốn tăng thêm; chiếm 16,6% tổng vốn đầu tư của cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp
mới và vốn tăng thêm là 3,1 tỷ USD; chiếm 15,4% tổng vốn đầu tư
22


của cả nước. Đồng Nai đứng thứ 3 với 1,83 tỷ USD vốn đăng ký cấp
mới và vốn tăng thêm. Tiếp theo Bắc Ninh, Bình Dương, Khánh Hòa
với quy mô vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm lần lượt là 1,58 tỷ
Bên cạnh đó, trong giai đoạn gần đây Việt Nam đã thu hút
được lượng vốn đầu tư không hề nhỏ ở một số nước như: Trung Quốc,
Nhật Bản,... Và nhiều tỉnh trên đất nước thu hút vốn đầu tu nước
ngoài mạnh mẽ như: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, TP.HCM,…



2015

23



Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong năm 2015, tổng
vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5%
so với năm 2014.
Kết quả thu hút FDI năm 2015 có sự tăng trưởng đồng đều trên tất cả các chỉ
tiêu định lượng chủ yếu, đặc biệt là số vốn thực hiện đạt trên 14,5 tỷ, tăng 17,4 % so
với 2014, và là mức cao nhất kể từ năm 2008, năm vốn FDI thực hiện lần đầu tiên
vượt ngưỡng 10 tỷ USD.
Cụ thể, xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 115,1 tỷ USD tăng 13,8% so 2014 và
vượt 5% so mục tiêu; xuất khẩu (không kể dầu thô) đạt 111,3 tỷ USD tăng 18,5% so
2014 và vượt 8,9% so mục tiêu; Nhập khẩu đạt 97,9 tỷ USD tăng 16,4% so 2014 và
vượt 5,2% so mục tiêu.
Cùng với các kết quả trên, năm 2015 cũng là năm có những tiến bộ vượt bậc
trong hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư: Luật Đầu tư 2014 có hiệu
lực từ ngày 1/7/2015 thay thế cho Luật Đầu tư 2005 với nhiều thay đổi quan trọng,
đặc biệt là các quy định về cấm đầu tư, đầu tư có điều kiện và cải cách thủ tục hành
chính về đầu tư.
24


Các tiến bộ vượt bậc này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng về FDI trong 5
tháng cuối năm 2015, làm đảo chiều từ suy giảm trong 8 tháng đầu năm so cùng kỳ
2014 để về đích ngoạn mục.

Tóm lại, chính sách FDI và hệ thống các ưu đãi khuyến
khích đầu tư của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định,
tuy nhiên song song với đó vẫn còn những điểm yếu cần khắc phục.
Cụ thể như:



Thứ nhất, Việt Nam chưa có chiến lược dài hạn về thu hút FDI.
Trong vòng 2 thập kỷ qua mức độ thu hút FDI của Việt Nam khá
ấn tượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
các mục tiêu khác của việc thu hút FDI vẫn chưa đạt được như
như mục tiêu về tạo công ăn việc làm hay như mục tiêu thu
hút các doanh nghiệp FDI có công nghệ cao nhằm tạo ra các
giá trị gia tăng nội địa cao và kỳ vọng chuyển giao công nghệ
trong ngành sản xuất cũng như nông – lâm – thủy hải sản đã
không thành hiện thực khi phần lớn các công ty đa quốc gia
vào Việt Nam chỉ đầu tư vào các dây chuyền sản xuất đơn

giản, công nghệ thấp, ít giá trị gia tăng.
• Thứ hai, chính sách thu hút FDI hiện tại tương đối phức tạp và
mơ hồ. Có quá nhiều các dạng ưu đãi đầu tư được quy định tại
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều này gây khó khăn
cho các cơ quan quản lý trong việc thực hiện. Các quy chế về
ưu đãi đầu tư còn thiếu, tạo kẽ hở cho các nhà đầu tư không
trung thực trục lợi. Chưa kể, các ưu đãi đầu tư đa phần là ưu
đãi về thuế, trong khi các biện pháp khuyến khích đầu tư khác
như đào tạo lao động, liên kết công nghiệp, chuỗi cung ứng…
lại thiếu vắng.
• Thứ ba, hệ thống phân cấp quản lý về cấp giấy phép và ưu đãi
đầu tư hoạt động chưa thật sự hiệu quả. Mục tiêu cơ bản của
việc phân cấp là rút ngắn thơi gian cấp giấy phép đầu tư và tạo
25


×