Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Hoàn thiện chức năng giám sát của Quốc hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.29 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Đề tài:
“Hoàn thiện chức năng giám sát của Quốc hội Việt Nam”.

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỨC

3
4
4
6

NĂNG ĐÓ
1. Chức năng của Quốc hội Việt Nam
2. Mối quan hệ giữa các chức năng của Quốc hội Việt Nam
III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
1. Giám sát là gì?
2. Các cơ quan có quyền giám sát
3. Giám sát của Quốc hội
IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
1. Chủ thể giám sát
2. Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của Quốc hội.
3. Nội dung giám sát của Quốc hội
4. Các hình thức giám sát của Quốc hội


5. Hậu quả pháp lý của giám sát của Quốc hội
V. THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Thực tiễn
2. Phương hướng hoàn thiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
7
7
7
8
9
11
11
12
13
14
19
20
20
22
24

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay, chúng ta
thấy rằng mâu thuẫn giữa quyền lợi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị luôn luôn
gay gắt. Mâu thuẫn đó không thể tự điều hòa được mà phải được giải quyết bằng
các cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu. Dưới chế độ phong kiến, mâu thuẫn giai
2



cấp được thể hiện môt cách rõ nét. Giai cấp thống trị thời kỳ này đã thiết lập một
chế độ quân chủ chuyên chế dộc tài, tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung vào
tay nhà vua, nhằm phục vụ cho giai cấp mình, bóp nghẹt những mầm mống dân
chủ náy sinh trong xã hội, cướp đi những quyền cơ bản của công dân. Cùng với
sự phát triển của kinh tế và những bước tiến vượt bậc về khoa học - kỹ thuật đời
sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, kéo theo đó là trình độ nhận thức
của người dân được nâng cao và nhu cầu tự giải phóng mình ngày càng lớn, vấn
đề dân chủ được đặt ra. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một đòi
hỏi cấp thiết. Nhiều cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và giành được thắng lợi,
giai cấp phong kiến bị lật dổ. Nhằm đáp ứng với xu thế của thời đại và hạn chế
sự độc tài nên sau khi nhà nước tư bản chủ nghĩa được thiết lập trên thế giới cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất đã ra đời. Đó chính là Quốc hội.
Quốc hội ra đời nhằm khẳng định chủ quyền của nhân dân và cơ sở hợp
pháp của chính quyền, đồng thời đảm bảo cho chính quyền được đảm bảo bằng
pháp luật và bảo đảm sự có mặt của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của
công dân và quyền con người. Quốc hội ra đời đã hạn chế được sự lộng quyền
của người đứng đầu và trong quá trình hoạt động của mình đã tiến hành giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước khác nhằm đảm bảo cho xã hội dân chủ
hơn. Như vậy, chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể
thiếu của Quốc hội nhằm đảm bảo cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực và
hiệu quả.

3


NỘI DUNG
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng. Vị trí đó được xác định trên cơ sở quy định của Hiến pháp. Ở nước

CHXHCN Việt Nam tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực của mình bằng hai hình thức cơ bản: hình thức gián tiếp và trực tiếp.
Hình thức trực tiếp tạo nên nền dân chủ trực tiếp. Hình thức gián tiếp tạo nên
nền dân chủ đại diện. Trong điều kiện hiện nay, dân chủ đại diện đóng vai trò
quan trọng. Nội dung thực hiện nền dân chủ gián tiếp bằng cách thong qua Quốc
họi và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng
đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội, vì
vậy thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực cao nhất trong tổ chức và
hoạt động của toàn bộ máy nhà nước.
Về cách thức thành lập, quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri
cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Bầu cử đại biểu quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nước
Về cơ cấu thành phần đại biểu, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện
cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ. Quốc hội là sự thể hiện rõ
nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước.
Về chức năng, nhiệm vụ, Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ
cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể
hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết định những
vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước. Sở dĩ như
vậy vì Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân. Điều đó có nghĩa là người chủ của quyền lực Nhà nước là nhân
4


dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà
nước, thành luật, thành các quy định chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế

nhà nước đối với mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Với tính chất là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống các cơ quan
nhà nước của nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan được hiến pháp giành cho vị trí
trang trọng nhất, cơ quan đầu tiên trong toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước
được Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”.
Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và
của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính
sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội,
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm những
viên chức cao cấp nhất của bộ máy nhà nước, giám sát tối cao hoạt động của các
cơ quan nhà nước; quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của nhân dân
trong phạm vi toàn quốc.
Như vậy, Quốc hội chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy nhà nước
CHXHCN Việt Nam. Không một cơ quan nhà nước nào trong bộ máy các cơ
quan nhà nước của ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ Quốc hội có một địa vị
như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra một cách
trực tiếp. Với tư cách thành lập này cộng với quan điểm “tất cả quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cơ
quan đại diện do nhân dân bầu ra”, là cơ sở cho quốc hội có quyền lực nhà nước
cao nhất ở nước CHXHCN Việt Nam.
Việc Hiến pháp quy định như trên cũng là để nhằm mục đích thể hiện rõ
bản chất của nhà nước CHXHCNVN, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, đúng theo quan điểm tư tuơởng của chủ nghĩa Mác-LêNin về một
Nhà nước kiểu mới khác với các Nhà nước trước đây và đây cũng là đặc điểm
nói lên sự khác nhau giữa mô hình tổ chức nhà nước ta, Nhà nước CHXHCN
với các mô hình tổ chức nhà nước khác nhau của chế độ tư bản chủ nghĩa.

5



II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC
CHỨC NĂNG ĐÓ
1. Chức năng của Quốc hội Việt Nam
Với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội
nước ta có nhưng chức năng quan trọng sau đây:
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quyền lập hiến và lập pháp của quốc hội xuất phát từ vị trí và tính chất
của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chỉ có Quốc hội mới có quyền định
ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ
xã hội của xã hội ta. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban
hành phải cụ thể hóa Hiến pháp và Luật, không được trái với tinh thần và nội
dung của Hiến pháp và Luật. Hiến pháp và luật là hai loại pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao nhất quy định các hoạt động quan trọng của xã hội. Chỉ có Quốc hội
với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao mới có quyền thông qua
những loại văn bản này. Ngược lại, cũng chính việc quốc hội, cơ quan duy nhất
được quyền thông qua các loại văn bản này mới chứng tỏ là cơ quan quyền lực
nhà nước tối cao.
- Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt dộng của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật
được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có
hiệu lực và hiệu quả. Đây là một chức năng quan trọng của Quốc hội.Thông qua
việc thực hiện chức năng này cho phép Quốc hội thể hiện mình là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất.


6


2. Mối quan hệ giữa các chức năng của Quốc hội Việt Nam
Những chức năng quan trọng này của quốc hội có sự thống nhất và có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua nhiệm vụ lập hiến và lập pháp (tức là
bằng các đạo luật), Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ khác của mình như quyết
định các chính sách đối nội, đối ngoại, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chính
sách tiền tệ và các lĩnh vực tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.
Ngược lại, thông qua việc thực hiện chức năng giám sát của mình mà Quốc hội
kiểm tra lại chất lượng các đạo luật và các quyết định do mình ban hành để có
thể đề xuất sáng kiến sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và nâng cao chất lượng của
chúng. Cứ như thế trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hiểu quả và hiệu
lực của các hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và
giám sát tối cao ngày càng được nâng cao.
III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
1. Giám sát là gi?
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giám sát nên ngay từ khi
quốc hội thành lập nhà nước ta đã quy định đây là một trong những chức năng
khôngt hể thiếu của Quốc hội. Tuy nhiên, để đánh giá một cách toàn diện về
chức năng này của Quốc hội, chúng ta cần làm rõ về giám sát.
Hiện nay, cách diễn đạt và biểu hiện ý của từ “giám sát” có khác nhau,
nhưng chúng có những điểm chung nhất là:
- “Giám sát” dùng để chỉ các hoạt động theo dõi , xem xét, kiểm tra và
nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều
đã quy định.
- “Giám sát” luôn luôn gắn liền vơíi một chủ thể nhất định, tức là phải trả
lời được câu hỏi: ai (hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi xem
xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực

hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
- “Giám sát”cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi giám sát ai? Giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở
chỗ nó phân biệt giữa” giám sát” và “ kiểm tra” .Kiểm tra thì chủ thể hoạt động
7


và đối tượng chịu sư tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là
việc tự chủ thể kiểm tra của chủ thể hoạt động . Nói cách khác tự chủ thể hoạt
động xem xét kĩ để đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc đang làm. Nhưng
giám sát thì không có tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi ,xem xét chính
hoạt động của mình.
- “Giám sát” phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát
và đối tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa
vụ gì đối với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại.
- “Giám sát” phải được tiến hành trên những căn cứ nhất định, đó là
những quy định do chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát đặt ra. Nếu như
không có những quết định này thì không có cơ sở để chủ thể có quyền thực hiện
việc giám sát, đưa ra những nhận định về hoạt động ở đối tượng chịu sự giám
sát.
- “Giám sát” luôn là hoạt động có tính mục đích. Mục đích của giám sát là
luôn có được những nhận định chính xác của chủ thẻ có quyền giám sát đối với
hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát và từ đó có biện pháp xử lí đối với
những việc làm trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát. Đảm bảo cho
những quy định của chủ thể có quyền giám sát được thực hiện đúng và đầy đủ.
2. Các cơ quan có quyền giám sát
Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 thì “giam sát là
việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
hôi, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi xem xét, đánh giá
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành

Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội” (Điều 2). Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng: chủ thể của
hoạt động giám sát là Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dan tộc,
Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội. Đối tượng
chịu sự giám sát là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước từ
Trung ương đến địa phương và nhân dân cả nước. Hoạt động giám sát được thực
hiện thông qua việc tiến hành theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan,
8


tổ chức, cá nhân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thương vụ Quốc hội.
Hiện nay, trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta, không chỉ có
những chủ thể vừa nêu trên mới có chức năng giám sát. Hoạt động giám sát
cũng là một trong nhũng chức năng của VKSND, TAND, HĐND... Tuy nhiên,
hoạt động giám sát của những cơ quan này là có sự khác nhau.
3. Giám sát của Quốc hội
3.1. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp
và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch
trong tổ chức nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin về Nhà nước, muốn quyền lực
thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực nhà nước cho cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân là Quốc hội, và vì vậy trong nhà nước
XHCN, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất. Hiến pháp của các nước XHCN trước đều quy định và
thể hiện nguyên tắc thống nhất, tập trung quyền lực trong tố chức bộ máy nhà
nước. Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong
các quy định về vị trí pháp lý của Quốc hội thể hiện qua các bản Hiến pháp của
Quốc hội nước ta. Như vậy “quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật là một biện pháp không thẻ tách rời của quyền lực nhà nước và Quốc hội

nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Do đó Quốc hội nắm quyền
giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là
việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước.
3.2. Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.
Để bảo đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát, bảo đảm cho Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và luật
khi thực hiên quyền giám sát của mình, quốc hội phải có những căn cứ nhất
định:
- Thứ nhất: Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp,
Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vì
9


đó là chuẩn mực, là thước đo, là căn cứ nhận định nội dung của một văn bản nào
đó hoặc một việc làm nào đó của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của
quốc hội là hợp pháp hay là không hợp pháp.
- Thứ hai: Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ
quan nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt
động của nhưng cơ quan nhà nước đó. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có
thể chất vấn hoặc đi xem xét thực tế xem tình hình có đúng như với các cơ quan
nhà nước đã báo cáo không.
3.3. Đặc điểm giám sát tối cao của Quốc hội. Sự khác nhau giữa giam
sát của Quốc hội và giám sát của các cơ quan nhà nước khác.
Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao và nó có một số đặc điểm riêng
như sau:
+ Quyền giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất.
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội mang tính tổng quát nhất, bao trùm
nhất, mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô,
những vấn đề mà nhân đân cả nước quan tâm.
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội được tiến hành với các điều kiện bảo

đảm ở mức độ tin cậy cao nhất, toàn diện trên các mặt: Báo cáo, cung cấp thông
tin, tư liệu, số liệu và các điều kiện đảm bảo khác.
+ Áp dung nhiều biện pháp mang tính quyền lực nhà nước cao nhất để xử
lý những vấn đề nảy sinh trong giám sát và chịu trách nhiệm pháp lý đối với
những người bị giám sát.
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội quan hệ trực tiếp và tác động trực tiếp
đến hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhẩt trong hoạt động lập
pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng: Sự khác nhau căn bản giữa
quyền giám sat tối cao của Quốc hội với quyền giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và Luật của các cơ quan nhà nước khác như: TAND, VKSND, HĐND... là
ở đối tượng chịu sự giám sát và thẩm quyền giải quyết cũng như phương thức
hoạt động. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao vì nó do cơ quan quyền lực
10


nhà nước cao nhất thực hiện, nó giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
cao nhất, hiệu lực pháp lý của nó là cao nhất vì các Nghị quyết của Quốc hội
phải có giá trị pháp lý như là một văn bản buộc các cơ quan nhà nước phải thực
hiện. Về phương thức, Quốc hội là cơ quan dân cử, làm việc theo chế độ hội
nghị và quyết định theo đa số chứ không theo cách làm việc với chế độ thủ
trưởng như các cơ quan nhà nước khác.
IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
1. Chủ thể giám sát.
Như chúng ta đã biết, chức năng giám sát của Quốc hội được cụ thể thành
các nhiệm vụ và quyền hạn. Quyền giám sát của quốc hội là quyền giám sát tối
cao và quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Giám sát là công việc thường xuyên, liên tục trên nhiều phương diện với
nhiều nội dung khác nhau. Nhưng Quốc hội nước ta lại hoạt động theo kỳ họp

và phần đa các đại biểu Quốc hội là đại biểu chuyên trách. Chính vì vậy hoàt
động giám sát của quốc hội không được thường xuyên liên tục, chưa có hiệu lực
và hiệu quả cao, mang nặng tính hình thức.
Khắc phục điều này, luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định:
“Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của
mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và
đại biểu Quốc hội” (Điều 1 - Luật hoạt động giám sát của Quốc hội).
Như vậy, ngoài Quốc hội còn có những cơ quan và người có thẩm quyền
thực hiện quyền giám sát của Quốc hội là:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại Điều 11,
12, 13 của Luật Tổ chức Quốc hội.

11


- Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội: Thẩm quyền giám sát
viêc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội được quy định từ điều 23 đến điều 29 của Luật Tổ chức Quốc hội.
- Đại biểu Quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật của Đại biểu Quốc hội được quy định tại các Điều 39, Điều 42, Điều
45, Điều 46 của Luật Tổ chức Quốc hội.
2. Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, thì Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội co thẩm quyền
giám sát đối với các tổ chức, cá nhân sau:
- Quốc hội giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác

của Chính phủ, Tòa an nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm
a, Khoản 1, Điều 3 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội). Như vậy, đối tượng
giám sát tối cao của Quốc hội là tầng cao nhất của bộ máy nhà nước. Đó là các
cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân
công của Quốc hội.
- Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ
quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
việc thi hành Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực Hội
đồng dân tộc, Ủy ban phụ trách giúp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thực
hiện quyền giám sát theo sự phân công của các cơ quan này.
- Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của đoàn và tổ chức
để đại biểu Quốc hội trong đoàn giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương,
12


giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân; tham gia đoàn giám sát của ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.
- Đại biểu Quốc hội chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong
phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật,
giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo của công dân.
3. Nội dung giám sát của Quốc hội.
Theo Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội, nội dung hoạt động giám sát của Quốc hội như sau:
- Thứ nhất là giám sát văn bản. Giám sát văn bản hoạt động theo dõi,
đánh giá, xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản của các đối tượng bị
giám sát. Văn bản của các đối tượng bị giám sát là những văn bản lập quy triển
khai thực hiện hiến pháp và các đạo luật, nghị quyết, pháp lệnh của các chủ thể
giám sát. Nội dung giám sát văn bản nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống
phạm luật, tính tối cao của hiến pháp. Cụ thể Quốc hội giám sát văn bản quy
phạm pháp luật của chủ tịch nước, ủy ban thường vụ quốc hội, chính phủ,thủ
tướng chính phủ.
- Thứ hai là giám sát hoạt động. Giám sát hoạt động dược hiểu là hoạt
động theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động thực tiễn của các đối tượng bị giám
sát trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Hoạt
động giám sát này nhằm đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện các hoạt động
thực tiễn của các đối tượng giám sát tuân thủ Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc giải
quyết các công việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình. Cụ thể “Quốc hội giám
sát hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân
13


dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành Hiến pháp, Luật,
Nghị quyết của Quốc hội”.
4. Các hình thức giám sát của Quốc hội.
Quốc hội chủ yếu thục hiền chức năng giám sát tối cao của mình thông
qua các hình thức chủ yếu sau:
 Thông qua các kỳ họp Quốc hội.

Trong các kỳ họp Quốc hội đều thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước bằng các biện pháp sau:
- Xem xét các báo cáo công tác:
Theo Điều 21 nội quy kỳ họp Quốc hội (Thông qua ngày18/12/1992) thì
những người đứng đầu các cơ quan nhà nước (Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) phải báo cáo về tình hình công tác của cơ
quan hoặc ngành mình giữa 2 kỳ họp Quốc hội. Nếu là kỳ họp cuối khóa, trong
báo cáo của mình Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn phải nêu được các vấn đề, nhiệm vụ
đã thực hiện được và những vấn đề, nhiệm vụ chưa thực hiện được. Qua đó,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định
nguyên nhân, trách nhiệm và biên pháp khắc phục.
Sau khi các cơ quan nhà nước nói trên đã báo cáo, ủy ban thường vụ quốc
hội phát biểu ý kiến về các báo cáo đó, yêu cầu các cơ quan nói trên báo cáo bổ
sung hoặc giải thích rõ những vấn đề mà ủy ban thường vụ quốc hội thấy cần
thiết phải làm sáng tỏ để tìm ra nguyên nhân và quy trách nhiệm. Những nhận
xét, yêu cầu này chính là bước thứ hai của quá trình giám sáttại kì họp đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Chất vấn của đại biểu quốc hội cũng là một biện pháp quan trọng để
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao tại kỳ họp.
Qua các báo cáo thuyết trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại kỳ họp
cũng gợi mở, định hướng cho các đại biểu quốc hội bước vào những giai đoạn
tiếp theo là thảo luận tại các tổ, các đoàn đại biểu, tại các hội đồng, các Ủy ban
của Quốc hội. Tại các kỳ họp này, đại biểu Quốc hội nêu lên những nhận xét,
14


đánh giá về báo cáo công tác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, đồng thời trao đổi về những vấn đề mà các báo cáo chưa
nêu lên hoặc đã nêu lên nhưng chưa đầy đủ chính xác, cần phải báo cáo, bổ

sung, giải thích.
Sau các phiên họp ở đoàn, tổ đại biểu, các đại biểu bước vào giai đoạn
chất vấn tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất
vấn đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các
thành viên khác của Chính phủ và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời
tại kỳ họp những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội
không đồng ý với những nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội
đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể, Chủ tịch Quốc hội có thể nêu những vấn
đề chất vấn để Quốc hội thảo luận và khi cần thiết Quốc hội ra Nghị quyết về
việc trả lơi chất vấn cũng như trách nhiệm của người bị chất vấn.
Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội làm tăng vai trò, trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội đảm bảo tính thống nhất của luật pháp và vai trò của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Nếu kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội thì hoạt động
giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước cũng chủ yếu được thực
hiện tại các kỳ họp Quốc hội. Vì vậy, hiệu quả các kì họp quốc hội gắn liền với
việc nâng cao hoạt động giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước tại
kỳ họp.
 Thông qua hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ủy ban thường vụ Quốc hội là “cơ quan thường trực Quốc hội”, thay mặt
Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội đối
với hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tố cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương… giữa 2 kỳ
họp.

15



Căn cứ vào chương trình giám sát đã được thông qua, Ủy ban thường vụ
Quốc hội phân công thành viên của ủy ban chịu trách nhiệm về từng nội dung
giám sát cũng như quyết định những vấn đề giao cho hội đồng dân tộc, các Ủy
ban Quốc hội giám sát, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng quyết định tiến độ
thực hiện chương trình giám sát và các biện pháp bảo đảm khác.
Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiếm sát nhân dân tối cao băng các biện pháp chủ
yếu là:
+ Xem xét báo cáo của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian Quốc hội không họp.
Khi cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu thành viên của Chính phủ
trực tiếp đến báo cáo hoặc cung cấp những tài liệu mà Ủy ban thường vụ Quốc
hội thấy cần cho công tác giám sát của Ủy ban.
+ Cử các đoàn đi kiểm tra các vấn đề thuộc phạm vi giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện những hành vi vi
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước tổ chức và cá nhân, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, đoàn kiểm tra của Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu cơ
quan tổ chức và cá nhân có liên quan có trách nhiệm thi hành những biện pháp
cần thiết để kịp thời chống. Nếu phát hiện văn bản trái với Hiến pháp, Luật,
Nghị quyết của Quốc hội thì Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành
và trình Quốc hội hủy bỏ các văn bản đó tại kỳ họp thứ nhất.
+ Ủy ban thường vụ Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát thông qua
việc xem xét đơn khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như tình hình tổ chức,
hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc xem xét giải quyết các kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội và yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế
trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình có trách nhiệm nghiên cứu thực
hiện các kết luận hoặc yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội về dân nguyện


16


và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được kết luận hoặc yêu cầu.
Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc ra Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân, xem xét tình hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khi cần thiết. Nếu Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với các văn bản của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thì Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết
bãi bỏ Nghị quyết sai trái đó. Nếu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân thì Ủy ban
thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết giải tán đối với Hội đồng nhân dân đó.
 Thông qua hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội.
Với tính chất là cơ quan chuyên môn giúp việc cho Quốc hội trong những
lĩnh vực nhất định, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội giám sát việc
thực hiện Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề thuộc
chuyên môn của mình.
Để đảm bảo tính chủ động và hiệu quả trong hoạt động giám sát, Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội thường thông báo trước nội dung và
kế hoạch giám sát cho các cơ quan hữu quan cũng như chính quyền địa phương
nơi Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban tiến hành giám sát. Để thực hiện những nội
dung cần giám sát, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội yêu cầu cơ quan tổ
chức và cá nhân được giám sát cung cấp tài liệu, báo cáo vấn đề thuộc nội dung
giám sát và thu thập các tài liệu khác có liên quan. Khi cần thiết, Hội đồng dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội cử thành viên của mình tới các cơ quan, tổ chức
hữu quan để xem xét vấn đề mà Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban quan tâm. Trong
quá trình giám sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, hội đồng dân tộc hoặc
các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân có vi phạm
chấm dứt việc vi phạm đó đồng thời kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm giải

quyết và báo cáo với Ủy ban thường vụ Quốc hội. Kết quả thẩm tra, giám sát
của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban Quốc hội được trình bày trước Quốc hội, Ủy

17


ban thường vụ Quốc hội bằng hình thức thuyết trình, báo cáo hoặc ý kiến phát
biểu; đồng thời được thông báo cho các cơ quan hữu quan.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội còn thông qua hoạt động xem
xét đơn thư khiếu nại tố cáo gửi đến để thực hiện quyền giám sát trên cơ sở
nghiên cứu nội dung và đối tượng bị khiếu nại, tố cáo, Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban Quốc hội yêu cầu các Ủy ban có thẩm quyền giải quyết theo đơn thư
khiếu nại, tố cáo đó thì Hội đồng hoặc Ủy ban kiến nghị biện pháp giải quyết
với Ủy ban thường vụ Quốc hội.
 Thông qua hoạt động của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội.
Giữa 2 kỳ họp Quốc hội, đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chất vấn của đại biểu được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội gửi chất vấn đến người được chất vấn. Người được chất vấn
có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu quốc hội bằng văn bản trong thời
gian do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định đồng thời gửi văn bản tới Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp chưa thõa mãn với nội dung trả lời chất
vấn, đại biểu Quốc hội có thể đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
việc trả lời chất vấn trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc đưa ra thảo luận tại
kỳ họp của Quốc hội. Đại biểu chất vấn và người được chất vấn được mời dự
phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc này. Khi cần thiết, Quốc hội hoặc
Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người trả lời chất vấn. Đồng thời đại biểu Quốc hội tiếp nhân khiếu
nại, tố cáo của công dân và co trách nhiệm nghiên cứu chuyển đến các cơ quan

hữu quan đồng thời theo dõi và đôn đốc việc giải quyết. Nếu việc giải quyết
khiếu nại tố cáo đó không được thỏa đáng thì đại biểu Quốc hội có quyền yêu
cầu thủ trưởng cơ quan hữu quan hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó
xem xét lại. Nếu cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân không giải quyết hoặc giải quyết
không kịp thời thì đại biểu quốc hội có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc
hội xem xét và gửi kết quả tới đại biểu Quốc hội.
18


Trong hoạt động giám sát, nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây
thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền lợi hợp pháp của tổ chức xã hội hoặc
của công dân thì đại biểu Quốc hội có quyền trực tiếp yêu cầu các cơ quan tổ
chức hữu quan và người có trách nhiệm thi hành những biện pháp cần thiết để
kịp thời chấm dứt những hanh vi trái pháp luật. Cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc
người có trách nhiệm phải thông báo cho đại biểu Quốc hội biết kết quả giải
quyết.
5. Hậu quả pháp lý của giám sát của Quốc hội.
Quá trình thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội sẽ dẫn đến một số
hậu quả pháp lý nhất định. Hậu quả pháp lý của giám sát tối cao của Quốc hội
khác hoàn toàn với hoạt động thanh tra, điều tra và kiểm sát. Đó là giám sát tối
cao để đi đến một Nghị quyết về một vấn đề như sửa Luật hoặc một quy định
của luật là kiến nghị ở tầm vĩ mô những vấn đề trọng đại của quốc gia. Giám sát
là để xả lại chinh mình, sửa đổi lại Luật, để quyết định những vấn đề quan trọng
hơn, cụ thể là:
- Căn cứ vào kết quả giám sát, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định cụ thể sau: Ủy ban
thường vụ Quốc hội tự mình hoặc khi có kiến nghị của ít nhất 20% tổng số đại
biểu Quốc hội hoặc ý kiến của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trình
Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn. Người được đưa ra bỏ phiếu có quyền trình bày ý kiến của mình

trước Quốc hội và sau đó Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong
trường hợp người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm không dược quá nữa tổng số
đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề
nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm cách chức người đó.
- Sau khi đã tiến hành giấm sát quốc hội có quyền yêu cầu Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Hiến pháp,
Luật, Nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm
19


pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiếm sát nhân dân tối cao trái với Hiến
pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; ra Nghị quyết về việc trả lời chất vấn và
trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết; miễn nhiệm, bãi nhiệm
Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội,
ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sất nhân dân tối cao phê chuẩn việc
miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ.
V. THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Thực tiễn
Có thể thấy rằng, sự phát triển của các quy định của các bản Hiến pháp
Việt Nam về quyền giám sát tối cao của Quốc hội liên quan trực tiếp đến các
quan hệ quyền lực trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Hiệu quả thật sự của
việc thực hiện quyền giám sát tối cao không chỉ phụ thuộc vào quy định của
quyền này trong Hiến pháp mà còn phụ thuộc vào tính thực quyền của Quốc hội
trong hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức
Quốc hội, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 đã tạo ra những

khuôn khổ pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội. Trên thực tế, Quốc hội đã gặt hái được nhiều thành tựu trong quá trình
giám sát của mình và trong những nhiệm kỳ gần đây hoạt động giám sát của
Quốc hội đã có nhiều tiến bộ: Quốc hội, các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội
đã tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội
về tình hình kinh tế - xã hội và các lĩnh vưc khác của cuộc sống. Quốc hội, các
hội đồng và ủy ban của quốc hội đã gianh nhièu thời gian kiểm tra tình hình thực
tế, tìm biện pháp góp phần giải quyết những vấn đề nóng bỏng như tình hình đời
sống, công ăn việc làm, tiền lương, tháo gỡ ách tắc trong sản xuất, phát triển
kinh tế theo cỏ chể mới, chính sách dân tộc và miền núi, chống tham nhũng
buôn lậu, bảo đảm cho việc thực hiện các quyền cơ bản của công dân.

20


Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, hoạt động giám sát của quốc
hội còn có nhiều hạn chế. Hệ thống pháp luật đang được hoàn chỉnh nhưng thực
hiện còn chưa nghiêm. Việc ban hành văn bản quá chậm và có khi chưa thống
nhất. Một số vấn đề nổi cộm lâu năm không được giải quyết triệt để để gây bất
bình trong nhân dân như: quản lý đất đai, chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí… Những điểm còn hạn chế đó chính là thước đo hiệu quả,
hiệu lực giám sát của quốc hội. Theo ý kiến của một số đại biểu Quốc hội trong
những nhiệm kì gần đây có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của hoạt
động giám sát của quốc hội chưa cao. Cụ thể:
- Đổi mới chưa đủ mạnh: hiệu lực giám sát chưa cao, chế tài chưa đủ
mạnh và còn nhiều lĩnh vực mặc dù được giám sát, chất vấn nhiều nhưng khắc
phục rất chậm. Nguyên nhân bắt nguồn từ bộ máy nhà nước cồng kềnh, chồng
chéo. Trách nhiệm quyền hạn người đứng đầu chưa rõ, vẫn còn tư tưởng dựa
dẫm vào tập thể. Do vậy, dù thực hiện chất vấn, giám sát có được đẩy mạnh thì
với bộ máy cồng kềnh, trì trệ như vậy vẫn khó có thẻ giải quyết được những

kiến nghị sau khi giám sát;
- Tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn là trở ngại lớn trong
việc nâng cao hiệu quả giám sát;
- Chưa đáp ứng được yêu cầu cuộc sống. Nguyên nhân dẫn tới hiệu quả
giám sát chưa cao là do hoạt động giám sát của đoàn đại biểu Quốc hội, các cơ
quan Quốc hội nhìn chung mang tính chất “cưỡi ngựa xem hoa”, chủ yếu nghe
báo cáo là chính nhưng không phải báo cáo nào cũng chính xác trung thực. Chưa
có điều kiện đi sâu thâm nhập thực tế và mổ xẻ vấn đề, tìm nguyên nhân trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân đói và yếu kém tồn tại nên các kiến nghị thường
chung chung, né tránh, thiếu cụ thể và thiếu khả thi. Đáng lưu ý, phần lớn các
kiến nghị giám sát không được thường xuyên theo dõi, đôn đốc, đeo bám và xử
lý đến nơi đến chốn nên hiệu lực chưa cao.

21


2. Phương hướng hoàn thiện
Để giải quyết những mặt hạn chế đã nêu trên nhằm mục đích làm cho hoạt
động giám sát không còn là khâu yếu của quốc hội, chúng ta có thể đề xuất một
số phương hướng hoàn thiện hoàn thiện như:
- Trong hoạt động giám sát không nên tràn lan mà phải chọn những vấn
đề bức xúc để giám sát. Sau đó trở lại kiểm tra xem đơn vị có thực hiện đúng
theo ý kiến của đoàn giám sát hay không? Nếu không, phải có chế tài. Phải chọn
nội dung giám sát và đoàn giám sát phải tăng cường đại biểu hoạt động chuyên
trách.
- Tiếp tục nâng cao nhận thức và cải tiến cách thức tiến hành giám sát.
- Nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc
hội đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là giám sát việc
tuân thủ theo chuyên đề.
- Sửa dổi, bổ sung, hoàn thiện luật hoạt động giám sát của Quốc hội theo

hướng quy định cụ thể chi tiết, có chế tài cụ thể về việc thực hiện các kiến nghị
sau giám sát, trong đo có trách nhiệm trả lời việc xử lý khiếu nại, tố cáo của
công dân, việc thực hiện những cam kết khi trả lời chất vấn.
- Khắc phục tình trạng nể nang, dĩ hòa vi quý trong hoạt động của bộ
ngành, địa phương.
- Đối với việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân thì nên
tránh tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp, cần giám sát để đơn thư đến từng
cấp có thẩm quyền trả lời, không nhất thiết mọi việc đều khiếu nại ra Trung
ương. Giải quyết các khiếu nại phải thấu đáo, tránh để tình trạng khiếu nại kéo
dài gây kích động như môt số vụ việc dân bị xúi giục gây náo loạn.
Nhìn chung để hoạt động giám sát thực sự phát huy được hết hiệu lực và
hiệu quả, Quốc hội nước ta còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Để Quốc
hội thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát của mình trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân cần tiếp tục đổi mới tư duy
mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước, về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước, về quyền lực luật pháp để xây dựng một Quốc hội có quyền lực thực tế
22


đúng vị trí là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”, là “cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân”.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hiến pháp _trường đại học luật hà nội
2. Giáo trình luật hiến pháp_khoa luật trường đại học quốc gia hà nội
3. Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992
4. Luật tổ chức quốc hội

5. Luật về hoạt động giám sát của quốc hội năm 2003
6. Bình luận khoa học hiến pháp 1992
7. Tạp chí nghiên cứu lập pháp 2002, 2003, 2005
8. Về quyền giám sát tối cao của quốc hội_NXB chính trị quốc gia

24



×