Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp "Nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.31 KB, 53 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài "Nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám
sát của Quốc hội"
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến hành xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Thực hiện nhiệm vụ đó
không thể tách rời với việc nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội – cơ quan
đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để hoàn thành được mục tiêu đó thì
yêu cầu đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó tính tối
cao của Hiến pháp đựợc đảm bảo và có một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu
quả đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà trước hết
là hoạt động giám sát của Quốc hội.
Trong những năm qua, cùng với công cuộc cải cách, đổi mới bộ máy nhà
nước nói chung, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nói riêng cũng đã có
nhiều bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Chất lượng và hiệu quả của việc
thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước ngày càng được
nâng cao, bước đầu đáp ứng được nhu cầu đổi mới và sự tin tưởng và ủng hộ
2
của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn, nhất là
đòi hỏi của một Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật
sự của dân, do dân và vì dân, Quốc hội còn phải tiếp tục đổi mới cả về nhận
thức, lý luận lẫn tổ chức thực hiện các chức năng của mình trong thực tiễn.
Duy trì định hướng đó, Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
đề ra chủ truơng là cần phải “Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả


giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, xác định rõ phạm vi, nội dung
cơ chế giám sát của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội”.
Đi sâu nghiên cứu việc thực hiện chức năng Hiến định “ giám sát toàn bộ
hoạt động của Nhà nước, đặc biệt từ sau khi Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội có hiệu lực (8- 2003) cho thấy: mặc dù Quốc hội nước ta đã có
nhiều nỗ lực nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế pháp lý, cải tiến quy trình,
tăng cường điều kiện hỗ trợ để nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát,
nhưng xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, giám sát vẫn là khâu
yếu nhất và hiệu lực và hiệu quả chưa cao trong tổng thể việc thực hiện các
chức năng của Quốc hội, chưa xứng tầm với quyền giám sát tối cao mà
Quốc hội được trao. So với yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống, quy định của
Hiến pháp, pháp luật và nguyện vọng của nhân dân thì giám sát tối cao của
Quốc hội còn phải đổi mới một cách mạnh mẽ hơn nữa, nhất là trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang tiến hành mạnh mẽ ở nước ta.
Tóm lại, mặc dù sự ra đời về Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đã
giải quyết được nhiều vấn đề liên quan đến chức năng giám sát tối cao của
Quốc hội nhưng vẫn đang còn tồn tại nhiều vấn đề về những biện pháp nâng
cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Trong điều kiện nói trên thì
việc tổng kết thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội từ đó tìm ra nguyên
nhân của những hạn chế và tồn tại để đưa ra những giải pháp là những điều
3
rất cần thiết để nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc
hội trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu.
Chức năng giám sát Quốc hội đã là đối tượng ngiên cứu từ nhiêu năm
nay ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên cứu về
chức năng giám sát của Quốc hội mới chỉ đặt trong phạm vi nghiên cứu tổng
thể về Quốc hội chứ chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng biệt về vấn
đề này. Ở Việt Nam trong một thời gian dài chưa có công trình nghiên cứu

chuyên sâu, quy mô về hoạt động giám sát của Quốc hội. Gần đây bắt đầu có
một số công trình nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc hội với các
luận án tiến sĩ như:
“ Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam” của NCS
Phạm Trọng Kỳ, năm 1993;
“ Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của NCS Trương Thị Hồng
Hà, năm 2007.
Ngoài ra còn một số sách chuyên khảo như:
“Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội”, Ts Phạm Ngọc Kỳ. NXB
Chính trị Quốc gia (1995)
“Quyền giám sát của Quốc hội - nội dung và thực tiến từ góc nhìn tham
chiếu”, TS. Nguyễn Sĩ Dũng chủ biên. NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004;
“Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội”, Ts. Nguyễn Sĩ
Dũng chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội 2006;
“Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát” Văn phòng Quốc hội, NXB
Tư pháp, Hà Nội, 2006.
Mặc dù dưới các góc độ tiếp cận khác nhau nhưng các tác giả đều khẳng
định vị trí pháp lý của Quốc hội trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước
4
Việt Nam với tư cách là cơ quan đại diện cho cử tri cả nước, cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất. Cùng với chức năng lập pháp và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước, giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc
hội. Các tác giả cũng có cùng nhận định: so với chức năng được pháp luật
quy định, trước các yêu cầu đổi mới và kiện toàn bộ máy nhà nước hiện nay
thì giám sát vẫn là một khâu yếu, quyền lực và hiệu quả chưa cao, cần có
những giải pháp đồng bộ để tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả giám
sát của Quốc hội.
Có thể khái quát một số nhóm nội dung nghiên cứu cơ bản sau đây:
Nhóm nghiên cứu chung về chức năng giám sát của Quốc hội: các tác giả

tập trung phân tích vị trí , vai trò quyền giám sát trong cơ chế quyền lực Nhà
nước, phân tích những vấn đề lý luận về quyền giám sát tối cao của Quốc
hội Việt Nam. Ở nội dung này PGS.Ts Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “ Sự
hạn chế quyền lực Nhà nước” nhấn mạnh vai trò của Quốc hội trong việc
kiểm soát các cơ quan hành pháp và coi đây như một chức năng căn bản của
Quốc hội.
Nhóm nghiên cứu về hiệu lực và hiệu quả giám sát: Vấn đề hiệu lực và
hiệu quả giám sát đã được một số tác giả đề cập đến trong một số công trình
nghiên cứu hoặc bài viết liên quan đến tổ chức và hoạt động của Nhà nước
nói chung hoặc về hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng. Tuy nhiên
chưa có công trình chuyên sâu, riêng biệt về vấn đề này, chưa có công trình
nào nghiên cứu về các tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo hiệu lực hiệu
quả giám sát.
Nhóm nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
giám sát của Quốc hội cho rằng cần đổi mới toàn diện cơ chế giám sát hiện
nay, phân định rõ phạm vi giám sát thuộc thẩm quyền của Quốc hội và phạm
5
vi giám sát thuộc thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước khác, tăng cường
các điều kiện đảm bào hoạt động giám sát sủa Quốc hội.
Nhìn chung có thể thấy rằng đã có một số nghiên cứu khoa học liên quan
khá chặt chẽ đến nội dung đề tài của tiểu luận đã đặt ra. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chưa đi sâu một cách tổng thể. Trên cơ sở tổng hợp và chắt
lọc những kiến thức từ các tài liệu người viết đi sâu nghiên cứu và cụ thể
hóa về vấn đề giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn , phân tích những cách tiếp
cận khác nhau về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong cơ chế quyền
lực Nhà nước để đưa ra cách nhìn nhận tổng thế và hệ thống về quyền giám
sát của Quốc hội trong tổ chức quyền lực Nhà nước để làm rõ thêm tầm

quan trọng, vai trò của quyền giám sát của Quốc hội trong đời sống chính trị
xã hội. Đồng thời cũng đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu lực
hiệu quả giám sát của Quốc hội.
Nhiệm vụ:
Phân thích và làm sang tỏ những vấn đề lý luận về vai trò, nội dung
quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền lực Nhà
nước trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về quyền giám sát và các hình
thức giám sát của Quốc hội.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hiệu lực và hiệu quả giám sát của
Quốc hội; các tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả giám sát, các điều kiện
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
Đánh giá thực trạng hiệu lực hiệu quả giám sát của Quốc hội trên cơ sở
các tiêu chí đánh giá và phân tích những nguyên nhân, những hạn chế tồn
tại.
6
Nêu ra các giải pháp về nhận thức, pháp lý, tổ chức, phương thức, kĩ
năng và điều kiện hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của
Quốc hội.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của nghĩa Mác – Lê nin
tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về bản chất Nhà nước và các định
hướng xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp khoa học :
tổng hợp, phân tích, so sánh các tư liệu liên quan đến chức năng giám sát
của Quốc hội Việt Nam. Các biện pháp khoa học đã được áp dụng trên nền
tảng tư duy biện chứng nhằm đạt được mục đích và thể hiện được các nội
dung đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận.
Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức lý luận về quyền giám sát tối cao

của Quốc hội trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở nước ta và vấn đề nâng
cao hiệu lực, hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội trong thực tiến.
Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn
đề liên quan tới hoạt động giám sát của Quốc hội, cho các nhà hoạt động
chính trị thực tiễn.
6. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả
giám sát của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.
7
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ hạn chế nên tiểu luận không
tránh khỏi những sai sót, vì vậy rất mong nhận được những ý kiến nhận xét
quý báu của thầy cô để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Trịnh Thị Hè
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC VÀ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
1.1 Quốc hội.
Giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp và pháp luật là một trong những
quyền hạn quan trọng của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Để nhận thức được bản chất, nội dung và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
giám sát của Quốc hội thì trước tiên chúng ta cần biết đựợc Quốc hội là gì và
có vai trò như thế nào trong hệ thống các cơ quan Nhà nước ở nước ta hiện
nay.
1.1.1 Khái niệm.

Theo từ điển Tiếng Việt thì quốc hội là quốc dân đại hội, là cơ quan lập
pháp tối cao của một nước, do nhân dân bầu ra.
Có ý kiến lại cho rằng Quốc hội là một chế định hiến pháp – pháp lý có
lịch sử lâu đời và được coi như một nhánh quyền lực trong hệ thống tổ chức
quyền lực Nhà nước.
Và mới đây lại có ý kiến cho rằng Quốc hội là một thiết chế chính trị, xã
hội, pháp lý. Sự ra đời và phát triển của Quốc hội gắn liền với sự phát triển
của Nhà nước và Pháp luật.
8
Tuy nhiên, để có một khái niệm chính xác nhất, xác định đúng vị trí pháp
lý của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước cần phải xuất phát từ những quy
định của Hiến pháp. Điều 83 chương VI trong Hiến pháp năm 1992 ghi rõ:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội
là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân.”
Như vậy có thể nói khái niệm mà Hiến pháp quy định là khái niệm rõ
ràng và chính xác nhất, nó thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Việt Nam là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây cũng chính là sự
quán triệt tư tuởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về một Nhà nước kiểu mới,
khác với các kiểu Nhà nước trước đây trong lịch sử.
1.1.2 Vai trò của Quốc hội.
Vai trò của Quốc hội ở từng nước và từng thời điểm có khác nhau tùy
thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và truyền
thống của từng quốc gia hay từng giai đoạn lịch sử. vai trò của Quốc hội
hôm nay thể hiện ở những điểm sau:
Quốc hội là cơ quan có tính chất đại diện: Do được hình thành trên cơ sở

bầu cử nên Quốc hội mang trọng trách đại diện cho quyền lựoi và lợi ích của
toàn thể các giai tầng trong xã hội, đại diện cho lợi ích dân tộc.
Quốc hội đảm bảo sự ổn định trong hệ thống chính trị: bởi vì Quốc hội là
diễn đàn đặc quyền sinh hoạt chính trị, thảo luận các vấn đề của quốc gia và
chính sách của Chính phủ; là cầu nối quan trọng giữa dân chúng và các cơ
quan quyền lực hành pháp, là nơi thỏa hiệp của những quyền lợi, thế lực
9
chính trị khác nhau; là nơi bảo vệ quyền lợi cho những ai có ít khả năng hơn
để tác động lên đời sống chính trị. Quốc hội ở nhiều nước tượng trưng cho
truyền thống chính trị, là chỉ số quan trọng của đời sống chính trị. Quốc hội
là sự hợp thức hóa quyền lực Nhà nước của nhân dân.
1.2 Quyền giám sát của Quốc hội.
Quốc hội được biết đến trong hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nước là cơ
quan có quyền lập pháp, nhưng xuất phát từ vai trò đại diện mà cùng với
chức năng lập pháp thì chức năng giám sát với những quyền hạn về giám sát
đã và đang trở thành một một chức năng đặc thù của Quốc hội. Hoạt động
giám sát là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, mang tính tất yếu
khách quan của tất cả các Nhà nước, ở mọi thời đại lịch sử. Quyền giám sát
của Quốc hội Việt Nam là quyền giám sát tối cao bắt nguồn từ vị trí pháp lý
tối cao của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước.
1.2.1 Khái niệm.
Giám sát tối cao là quyền của Quốc hội trong quá trình thực hiện hoạt
động theo dõi, kiểm tra, đánh giá, kiến nghị về hoạt động tuân theo Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội đối với toàn bộ Nhà nước đồng thời đưa ra các biện
pháp về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm chính trị đối với đối tượng bị
giám sát nhằm mục đích phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các vi
phạm có thể hoặc đã xảy ra.
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội thể hiện ở những đặc trưng cơ bản.
Đó là tính quyền lực nhà nước cao nhất và tính chất tối cao về chủ thể giám

sát, phạm vi giám sát, hệ quả giám sát.
Chủ thể quyền giám sát tối cao duy nhất chỉ có Quốc hội ( theo đúng
nghĩa là toàn thể đại biểu Quốc hội tại kỳ họp quốc hội).
10
Phạm vi giám sát tối cao theo cách hiểu là “giám sát toàn bộ hoạt động
của Nhà nước” sẽ đặt Quốc hội trước rất nhiểu thách thức cả về khía cạnh lý
luận và thực tiễn. Khi đã phân định cho nhiều cơ quan chức năng của Nhà
nước làm công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thì Quốc hội chỉ
giữ cho mình quyền giám sát đối với các cơ quan Nhà nước cấp cao ở trung
ương, tức là các cơ quan do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn, mà trong đó
giám sát hoạt động của Chính phủ là chủ yếu.
Đối tượng của giám sát tối cao là một yếu tố quan trọng để phân biệt hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động giám sát của các cơ quan
khác cũng được pháp luật quy định chức năng giám sát. Theo quy định của
pháp luật, hoạt động giám sát của Quốc hội tác động lên các đối tượng là các
cơ quan và các chức danh cấp cao của bộ máy Nhà nước, tập trung là cơ
quan hành pháp và tư pháp.
Về hệ quả giám sát tối cao: Quốc hội có quyền áp dụng những biện pháp
chế tài cao nhất mang tính quyền lực Nhà nước để xử lý những vấn đề nảy
sinh trong quá trình giám sát (như hủy bỏ các văn bản của các cơ quan Nhà
nước trái Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội…) hoặc quy trách nhiệm
đối với chức danh bị giám sát (ỏ phiếu tín nhiệm…). “Chế tài” giám sát chỉ
mang tính khen chê, ca ngợi hoặc phê phán và quy trách nhiệm chính trị mà
không có hậu quả pháp lý trực tiếp.
1.2.2 Vai trò giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lực
Nhà nước của Quốc hội.
Thứ nhất, giám sát là yếu tố quan trọng hạn chế sự lạm quyền từ phía các
cơ quan Nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thực thi, bảo đảm quyền và
lợi ích của công dân. Mục tiêu của giám sát là để bảo đảm rằng hoạt động
của các cơ quan Nhà nước tuân thủ những quy định pháp luật do Quốc hội

đề ra và lợi ích của nhân dân được bảo đảm. Bất luận mọi quốc gia nào một
11
khi hình thành Nhà nước đều phải chú trọng việc giữ gìn, duy trì và bảo vệ
pháp chế tức là đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân
phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật do Nhà nước ban hành. Giám sát của
Quốc hội là một phương thức hữu hiệu nhất để cân bằng quyền lực và bảo
đảm cho quyền lực Nhà nước được thực thi có hiệu quả. Để làm được điều
đó, các Nhà nước đều tìm cách thiết lập một cơ chế giám sát hữu hiệu nhất
để ngăn chặn sự vi phạm pháp luật, đặc biệt là chống lại tính trách nhiệm
của các đối tượng giám sát được đề cao. Chính bởi vậy, khi Quốc hội có khả
năng áp đặt chế độ trách nhiệm cho các đối tượng chịu sự giám sát buộc họ
phải tuân thủ thì điều đó chứng tỏ giám sát của Quốc hội có hiệu lực và
Quốc hội có thực quyền.
Thứ hai, giám sát phản ánh mức độ thực hiện chức năng đại diện Quốc
hội. Quốc hội là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của các tầng lớp nhân
dân và càng ngày tính đại diện càng được mở rộng do cách thức bầu Quốc
hội ngày càng dân chủ hơn. Việc xác định và thực hiện đúng đắn vai trò sẽ
giúp cho Quốc hội có khả năng giám sát hiệu lực và hiệu quả, xác định đúng
vấn đề cần giám sát và theo đuổi đến cùng việc thực hiện các kiến nghị giám
sát. Mặt khác, việc thực hiện có hiệu lực và hiệu quả quyền giám sát được
trao sẽ khẳng định vai trò đại diện cho lơi ích quốc gia và toàn dân của Quốc
hội. Ngoài ra, với việc thực hiện quyền giám sát Quốc hội còn có vai trò như
“cầu nối” giữa nhân dân với Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao
nhất. Thông qua các hoạt động giám sát, đặc biệt là khi chất vấn, khi kết hợp
được với công luận một cách hữu hiệu thì khả năng kiểm soát Chính phủ của
Quốc hội sẽ tăng lên.
Thứ ba, giám sát quan hệ chặt chẽ và tác động mạnh mẽ đến hoạt động
lập pháp. Lập pháp và giám sát là hai chức năng cơ bản của Quốc hội và
giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ mật thiết. Hoạt động lập pháp tạo cơ sở
12

pháp lý và cơ sở chính trị để Quốc hội tiến hành hoạt đông giám sát. Về
phần mình, hoạt động giám sát của Quốc hội có mối quan hệ tuơng hỗ trực
tiếp đến hoạt động lập pháp. Giám sát với mục đích là nhằm đảm bảo việc
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật nhưng đồng thời giám sát còn nhằm phát
hiện ra những kẻ hở những quy định pháp luật chưa phù hợp với cuộc sống
để kịp thời sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện hoặc giúp Quốc hội có những
quyết định đúng đắn, phù hợp với yêu cầu cuộc sống. Giám sát cũng còn là
nguồn để nắm tình hình đất nước, thu thập ý kiến công chúng về các chính
sách quan trọng của quốc gia để sửa đổi, hình thành các chính sách mới , tạo
nên một nguồn quan trọng để hình thành nên những kến nghị lập pháp.
1.2.3 Mối quan hệ giữa giám sát của Quốc hội với thanh tra, kiểm
tra, kiểm sát của các cơ quan Nhà nước.
Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là một yếu tố của cơ chế đảm
bảo và tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật, bao gồm một hệ
thống các yếu tố có tác động qua lại với nhau. Qua việc phân tích những đặc
thù mang tính pháp lý trong hoạt động giám sát của Quốc hội, kiểm tra giám
sát của Chính phủ, kiểm sát của Viện kiểm sát và kiểm tra, giám sát của Tòa
án ta thấy rằng: Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát là một dạng lao động
quyền lực với mục đích chung là đảm bảo không có vi phạm Hiến pháp và
lạm dụng quyền lực từ phia Nhà nước. Sự khác nhau của các hoạt động kiểm
tra giám sát giữa các cơ quan là ở cấp độ, đối tượng, phạm vi, nội dung,
phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó. Hoạt động giám sát của
các cơ quan Nhà nước chứa đựng trong đó tính hệ thống, tính đồng bộ và
tính thống nhất. Do đó, không thể tách quyền giám sát của Quốc hội ra một
cách độc lập, đơn lẻ, riêng biệt mà phải đặt nó trong hoạt động giám sát của
Nhà nước nói chung để nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả
giám sát của Quốc hội.
13
1.3 Hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội - khái niệm, mối quan
hệ, các tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo.

3.1.1 Khái niệm và mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả giám sát của
Quốc hội.
a. Hiệu lực
Theo các nhà biên soạn từ điển: “ Hiệu lực là khả năng đưa đến kết quả
nhất định”. Theo từ điển Hán - Việt (Đào Duy Anh, 2001, NXb Khoa học xã
hội. Hà Nội) thì hiệu lực là từ ghép của “ hiệu” với nghĩa là trao cho, giao
phó và “lực” có nghĩa là sức mạnh. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa có thể hiểu
“hiệu lực” hàm chứa sức mạnh quyền uy để thực hiện một công việc có kết
quả trên thực tiễn. Nói cách khác, “hiệu lực” có thể được hiểu là mức độ
hiện thực hoá sức mạnh, khả năng tác động của chủ thể lên đối tượng chịu
sự tác động được thể hiện trên kết quả trong thực tiễn. Điều kiện để đảm bảo
một quyết định hay hoạt động quản lý đạt được hiệu lực và đạt được mục
tiêu đề ra là chúng phải hợp pháp và hợp lý.
Giám sát là một hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước nên hiệu lực
giám sát vừa mang những đặc tính chung của hiệu lực quản lý nhà nước vừa
có những đặc thù riêng thể hiện vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Hiệu lực của hoạt động giám sát cũng bị chi phối bởi yếu tố
hợp pháp và hợp lý. Những quy định pháp luật về vị trí, vai trò và thẩm
quyền của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đã tạo nên
giá trị, sức mạnh pháp lý nhất định cho các hoạt động giám sát và bắt buộc
các đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện. Khi các chủ thể giám sát thực
hiện đúng thẩm quyền, hoạt động giám sát tuân thủ đúng các quy định pháp
luật thì hiệu lực pháp lý của nó sẽ cao, sẽ khiến cho các đối tượng chịu sự
giám sát phải tuân thủ. Chính vì vậy, hiệu lực giám sát cũng được đánh giá
14
thông qua mức độ thực thi các nghị quyết, kiến nghị về giám sát của Quốc
hội.
b. Hiệu quả
Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động giám sát thông qua mức độ
tác động của hoạt động này vào các đối tượng giám sát. Hiệu quả giám sát

của Quốc hội cao hay thấp phụ thuộc vào việc Quốc hội thực hiện chức năng
giám sát của mình theo quy định của pháp luật đến đâu cũng như những kết
luận kiến nghị từ hoạt động giám sát có được các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện nghiêm chỉnh hay không, việc xử lý các vi phạm theo các đề xuất,
kiến nghị đó đến mức độ nào tức là mức độ hiệu lực của giám sát. Muốn đạt
được hiệu quả giám sát thì trước hết, các chủ thể giám sát phải thực hiện
đúng chức năng giám sát như luật định và đảm bảo cho các kiến nghị , đề
xuất của mình được thực hiện nghiêm chỉnh. Chính vì vậy mà trong báo cáo
công tác của Quốc hội nhiệm lỳ khoá IX (1992 – 1997) đã nhấn mạnh: “hiệu
quả và hiệu lực giám sát của Quốc hội được đánh giá bằng tác động của các
quyết định , kết luận và kiến nghị của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và
đại biểu Quốc hội thông qua các hoạt động giám sát.”
1.3.2 Mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả
Khi nghiên cứu hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội cần phải xét
mối quan hệ giữa chúng với nhau. Do hiệu lực là sự tác động của hoạt động
giám sát vào các quan hệ xã hội, còn hiệu quả là kết quả đạt được do sự tác
động nói trên, nên giữa hiệu lực và hiệu quả có mối quan hệ khăng khít mà
trong đó hiệu lực là tiền đề, điều kiện của hiệu quả, còn hiệu quả là thước đo
đánh giá hiệu lực. Có thể nói rằng, hiệu lực là cơ sở của hiệu quả, là một
trong những yếu tố ảnh hưởng sâu sắc tới hiệu quả. Nhưng ở một khía cạnh
khác, khi đánh giá hiệu lực thì hiệu quả lại trở thành cơ sở để đánh giá hiệu
15
lực hay nói cách khác hiệu quả là minh chứng cụ thể cho mức độ hiệu lực
của hoạt động mà chúng ta cấn đánh giá.
Trong mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả giám sát thì hiệu lực giám
sát đạt được khi có sự tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của các đối tượng
chịu sự giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn rút ra từ hoạt động,
kết quả giám sát cụ thể và hiệu quả giám sát lại là yếu tố quan trọng bảo đảm
hiệu lực.
Như vậy “hiệu lực” và “hiệu quả” là hai khái niệm không thể tách rời.

Một khi hiệu lực giám sát được đảm bảo thì đương nhiên hiệu quả của hoạt
động giám sát sẽ tốt hơn và ngược lại khi hiệu quả giám sát tốt là minh
chứng cho hiệu lực giám sát. Tuy nhiên để tính hiệu quả hoạt động giám sát
của một chủ thể, bên cạnh đảm bảo về mặt hiệu lực, phải tính toán những
đầu tư, chi phí (thời gian, vật chất, nguồn lao động…)cần phải ở mức tối ưu.
1.3.3 Các tiêu chí đánh giá hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội.
Hiện nay việc xác định những tiêu chí đánh giá hiệu lực và hiệu quả giám
sát của Quốc hội vẫn chưa được nghiên cứu nhiều vì vậy đây là vấn đề mới
mẻ và đang còn nhiều những ý kiến khác nhau. Dưới đây là những tiêu chí
cơ bản nhất nhằm đánh giá hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội.
a. Các tiêu chí đánh giá hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội.
- Mức độ thể hiện thẩm quyền của các chủ thể giám sát ( Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội).
Một yếu tố quyết định tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động giám sát
của Quốc hội là mỗi chủ thể giám sát phải thực hiện đúng và đầy đủ phạm vi
thẩm quyền theo luật định. Hiệu lực giám sát của Quốc hội phụ thuộc rất
16
nhiều vào khả năng thực thi một cách đầy đủ, trọn vẹn thẩm quyền giám sát
trên thực tế của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Ở đây còn có sự đánh giá mức độ bảo vệ quyền và lợi ích của cử tri và
thái độ đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng
chịu sự giám sát của Quốc hội. Điều này thể hiện ở các khả năng của các cơ
quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong việc phản ánh đúng đắn và
chính xác các kiến nghị của cử tri cho các đối tượng chịu sự giám sát, thể
hiện tâm tư, nguyện vọng của cử tri cũng như khả năng bảo vệ quyền và lợi
ích của họ trên diễn đàn Quốc hội. Để đạt được điều này quả là không đơn
giản khi đại biểu Quốc hội chịu sự ràng buộc của nhiều cơ chế và quy định
đan xen khi họ phải gánh trên vai nhiều gánh nặng của cơ cấu, của trách

nhiệm. Ở khía cạnh này, giám sát của Quốc hội đạt hiệu lực khi Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội ý thức được đầy đủ vai trò đại diện của mình, có
khả năng sử dụng đúng và tối đa thẩm quyền mà mình được trao, có khả
năng sử dụng linh hoạt và hiệu quả những công cụ giám sát đặc thù của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất trong quá trính thực hiện giám sát. Đây
chính là thước đo khả năng đại diện và mức độ thực hiện chức năng đại diện
của Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với cử tri.
- Khả năng của Quốc hội ban hành các kiến nghị xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật.
Nói một cách khác thì đây là khả năng của Quốc hội trong việc áp đặt chế
độ trách nhiệm chính trị đối với các cơ quan, chức danh do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn. Điều này dựa trên triết lý: Nếu chính sách do chính phủ đề
ra mà sự minh bạch không được làm rõ thông qua giám sát của Quốc hội thì
giám sát không thành công. Nếu chính sách do chính phủ đề ra không đạt
được mục đích mà Quốc hội không có ý kiến hoặc không thể làm rõ trách
nhiệm thì coi như Quốc hội chưa giám sát.
17
Trên thực tế thì có thể xác định mức độ này thông qua khả năng tranh
luận của Quốc hội trong quá trình chất vấn, xét báo cáo của các cơ quan chịu
sự giám sát, khả năng đề xuất kiến nghị trong quá trình tiến hành các hình
thức giám sát khác, mức độ thực hiện các nghị quyết về giám sát của Quốc
hội, các kiến nghị của các đoàn giám sát và cuối cùng là khả năng của Quốc
hội trong việc làm rõ trách nhiệm của các đối tượng bị giám sát.
- Ý thức, thái độ của các đối tượng chịu sự giám sát trong việc chấp
hành, thực hiện các kiến nghị giám sát.
Hiệu lực giám sát sẽ được xác định thông qua việc các đối tượng bị giám
sát thực hiện các nghị quyết, kiến nghị ở mức độ nào, các quan hệ xã hội có
liên quan được thay đổi ra sao sau khi được các đối tượng xử lý… Ở đây,
cần dựa trên các kết quả cụ thể (hiệu quả) để nhìn nhận, đánh giá xác định
hiệu lực từ khía cạnh sức mạnh tác động của các kiến nghị giám sát và mức

độ tuân thủ của các đối tượng giám sát. Nếu sau khi các hoạt động giám sát
của Quốc hội được triển khai, các kiến nghị giám sát được đưa ra, các đối
tượng chịu sự giám sát tuân thủ một cách nghiêm chỉnh và các vấn đề được
giám sát có chuyển biến theo nội dung những kiến nghị của Quốc hội, có tác
động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội và tâm lý của nhân dân thì điều
đó cho thấy, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có hiệu lực.
- Sự đánh giá của dư luận xã hội về kết quả hoạt động giám sát của các
chủ thể giám sát về mức độ chấp hành của các đối tượng giám sát.
Quốc hội là cơ quan đại diện nên ý kiến phản hồi của cử tri, của các tấng
lớp nhân dân, các tổ chức xã hội…về các hoạt động của Quốc hội, trong đó
có hoạt động giám sát là hết sức quan trọng. Thông qua các con đường khác
nhau: trực tiếp (qua các cuộc tiếp xúc cử tri, qua đơn thư..) hay gián tiếp
(thông qua các phương tiện thông tin đại chúng) cử tri có thể nêu ý kiến
đánh giá kết quả giám sát của Quốc hội trong việc chọn nội dung, chuyên đề
18
giám sát, cách thức tổ chức và chất lượng các kết luận, kiến nghị giám sát,
cũng như đánh giá về thái độ, ý thức của đối tượng chịu sự giám sát trong
việc chấp hành các kiến nghị giám sát. Sự đánh giá của dư luận xã hội tích
cực hay tiêu cực đối với hoạt động giám sát sẽ phản ánh được mức độ hiệu
lực của hoạt động này.
b. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
- Mức độ đạt được mục đích, yêu cầu giám sát đặt ra.
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào trong chương trình giám sát
Quốc hội đều nhằm đạt một mục đích cụ thể. Mục đích của giám sát là điều
mà các chủ thể khi tiến hành giám sát hướng tới và mong muốn đạt được.
Hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta tập trung vào các mục đích cơ bản
là đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và cao hơn là
để đảm bảo quyền và lợi ích cho các tầng lớp nhân dân. Việc so sánh, đối
chiếu kết quả đạt được sau khi tiến hành giám sát với mục đích đặt ra trước
khi tiến hành giám sát sẽ cho thấy hiệu quả trong quá trình thực hiện quyền

giám sát của Quốc hội. Mức độ đạt được của mục đích đề ra đã trở thành
tiêu chuẩn, thước đo cho việc đánh giá hiệu quả giám sát, là khuôn khổ cho
việc đánh giá thực tế.
- Kết quả cụ thể đạt được do tác động của hoạt động giám sát.
Điều này được xác định thông qua sự thay đổi của các quan hệ xã hội
trước và sau khi tiến hành giám sát. Để đánh giá hoạt động của các cơ quan
nhà nước nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, trước hết phải căn cứ
vào mức độ thay đổi của các quan hệ trước và sau khi có hoạt động giám sát.
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả giám sát của Quốc
hội là phải căn cứ vào những kết quả tực tế đạt được dưới tác động của hoạt
động giám sát. Do đó việc xác định được những kết quả cụ thể và có sự so
19
sánh trước và sau khi giám sát sẽ là minh chứng cho hiệu quả hoạt động
giám sát.
- Số lượng hoạt động giám sát.
Đây là tiêu chí mang tính định lượng thể hiện số lượng các báo cáo công
tác, các chuyên đề đã trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp, số
lượng các chất vấn và trả lời chất vấn, số lượng các đoàn giám sát, số lượng
các nghị quyết giám sát chuyện đề, các kiến nghị giám sát. Đây là những con
số cụ thể mang tính hình thức thường được sử dụng làm căn cứ phân tích,
đánh giá.
- Xác định khía cạnh hiệu quả kinh tế của hoạt động giám sát.
Hiệu quả kinh tế của hoạt động giám sát được phản ánh thông qua việc
đánh giá các chi phí vật chất bao gồn: vật chất, nhân lực, thời gian mà các
chủ thể tham gia giám sát bỏ ra khi triển khai hoạt động giám sát… Hiệu quả
đạt được phải là những chi phí cho hoạt động giám sát ở mức thấp nhưng
phải đủ đảm bảo cho các chủ thể giám sát phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ và
năng lực của mình để đạt được những kết quả ở mức cao nhất. Điều này có
nghĩa là phải có chương trình giám sát hợp lý và khoa học để tiết kiệm được
thời gian, công sức và tiền của, phải biết lựa chọn những phương pháp ít tốn

kém để đạt được mục đích đề ra. Xét hiệu quả giám sát trên khía cạnh thực
tế phải thông qua cơ quan chuyên môn mang tính độc lập như Kiểm toán
nhà nước, bởi xét trên bình diện nguyên tắc tổ chức giám sát lẫn năng lực
vật chất thì Quốc hội và đại biểu Quốc hội không thể làm được việc này.
Như vậy có thể khái quát rằng: hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội được thể hiện thông qua giá trị thi hành và kết quả thực
hiện những quyết định của Quốc hội trên thực tế cũng như tác động của nó
lên đời sống xã hội của đất nước.
20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC
HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1 Kết quả đạt được.
Dựa trên những tiêu chí đánh giá đã đưa ra ở chương 1 chúng ta có thể
xem xét kết quả của hoạt động giám sát của Quốc hội trên các khía cạnh về
hiệu lực và hiệu quả như sau:
2.1.1 Về hiệu lực hoạt động giám sát.
a. Các chủ thể giám sát đã chủ động và tích cực trong việc thực hiện thẩm
quyền giám sát.
Trong những năm qua trên cơ sở thẩm quyền được pháp luật quy định,
các chủ thể giám sát đã phát huy được tính chủ động tìm tòi, cải tiến các
phương thức tiến hành nhằm bảo đảm hoạt động ngày càng hiệu quả, kiến
nghị giám sát ngày càng có hiệu lực thực tế cao hơn.
Quốc hội:
Quốc hội với tư cách là chủ thể giám sát tối cao đã chú trọng vào giám
sát các vấn đề liên quan đến chính sách quản lý đất nước, xem xét các vấn đề
liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội thông qua các hình thức giám sát tại
kỳ họp. Việc xét báo cáo hoạt động của Chính phủ, các cơ quan của Chính
phủ, các cơ quan tư pháp giúp Quốc hội xác định được khả năng thực hiện
nhiệm vụ của các cơ quan này theo chức năng luật định, đảm bảo sự phân
21

công, phối hợp trong bộ máy nhà nước, đồng thời hoạt động này cũng tạo cơ
sở để các đại biểu tham gia có hiệu quả hơn trong hoạt động chất vấn.Việc
giám sát theo chuyên đề đã giúp Quốc hội đánh giá khá đầy đủ kết quả thực
thi chính sách và nhìn nhận chính xác những hạn chế trong cơ chế quản lý
cũng như trách nhiệm của các cấp, các nghành, các cá nhân. Để hoạt động
giám sát đạt hiệu quả cao hơn, Quốc hội đã thông qua chương trình giám sát
hằng năm và toàn khoá Quốc hội. Sau khi tiến hành giám sát tại kỳ họp,
Quốc hội cũng đã ban hành một số Nghị quyết về các vấn đề mà Quốc hội
quan tâm. Tại các kỳ họp hoạt động chất vấn được duy trì và đổi mới cách
thức nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của các chủ thể có thẩm
quyền giám sát tối cao thông qua viêc tập trung vào chất vấn những vấn đề ở
tầm vĩ mô, bức xúc được cử tri cả nước quan tâm.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
Trong phạm vi thẩm quyền luật định , Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
kịp thời ban hành kế hoạch cụ thể để triển khai nghị quyết về chương trình
giám sát của Quốc hội, chỉ đạo sát sao các cơ quan của Quốc hội trong việc
thực hiện các chương trình giám sát hằng năm của Quốc hội. Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội cũng trực tiếp giám sát chuyên đề và xem xét một số
nội dung của công tác tư pháp nhằm từng bước tìm ra nguyên nhân và giải
pháp để giải quyết ting trạng vướng mắc về khiếu nại, tố cáo và đánh giá
chất lượng công tác xét xử, tuy nhiên hiệu quả của vấn đề giám sát này cần
cân nhắc và trao đổi thêm.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội:
Theo chức năng, nhiệm vụ và sự phân công đã chú trọng triển khai các
hoạt động giám sát tho các chuyên đề có nội dung quan trọng, bức xúc trong
xã hội và chuẩn bị báo cáo kết quả giám sát với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
và Quốc hội như: việc thực hiện pháp luật về dân số, người cao tuổi, người
22
tàn tật… Theo chức năng, nhiệm vụ của mình Hội đồng dân tộc và các Uỷ
ban của Quốc hội thực hiện việc tiếp nhận và trực tiếp xử lý hoặc chuyển

đến các cơ quan có thẩm quyền xử lý hàng ngàn đơn thư khiếu nại, tố cáo,
lựa chọn một số vụ việc tồn đọng, kéo dài để trực tiếp tiến hành giám sát,
kiến nghị đến các cơ quan nhà nước hữu quan.

Đoàn đại biểu Quốc hội:
Đã chủ động xây dựng kế hoạch giám sát của mình theo chương trình
hoạt động chung của Quốc hội và theo quyền hạn, trách nhiệm được quy
định. Nội dung giám sát của các đoàn thường tập trung vào giám sát tình
hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, việc quản
lý sử dụng đất đai, việc thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương.
b.Ý thức của các đối tượng giám sát trong việc chấp hành thực hiện các
kiến nghị giám sát được bước đầu nâng cao.
Qua giám sát các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã đưa
ra nhiều ý kiến, kiến nghị ( thông qua các báo cáo thẩm tra, thuyết trình và
thảo luận) đóng góp vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước. Các cơ quan chịu sự giám sát đã tích cực cộng tác, đáp
ứng yêu cầu của cơ quan giám sát. Phần lớn những kết luận, kiến nghị của
cơ quan giám sát đã được cơ quan chức năng tiếp thu, chuyển hoá vào quá
trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, cơ chế chính sách và
công tác chỉ đạo điều hành của ngành, lĩnh vực. Từ đó đã góp phần tạo nên
thành tựu chung về phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh. Trong các
báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ hằng năm,
Chính phủ đã khẳng định thành quả đạt được có phần đóng góp quan trọng
từ kết quả giám sát của Quốc hội. Tác động của hoạt động giám sát cũng đã
23
tạo nên chuyển biến đáng kể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
pháp và tư pháp.
c. Hoạt động giám sát được dư luận xã hội đánh giá tích cực.
Tại các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
đại biểu Quốc hội với ý thức trách nhiệm trước cử tri cả nước đã đóng góp

nhiều ý kiến thiết thực, thẳng thắn có tinh thần xây dựng đối với các báo
cáo, khẳng định mặt làm được, mặt chưa làm được trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước. Quốc hội cũng đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao
trong việc phối hợp với các cơ quan khác của bộ máy nhà nước để hoàn
thiện những giải pháp hữu hiệu, những phương án tối ưu ở tầm vĩ mô để giải
quyết những vấn đề bức xúc của đời sống nhân dân. Cùng với việc mở rộng
dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội, hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn đã
phản ánh những vấn đề đang được dư luận quan tâm, tạo không khí đối thoại
tại các kỳ họp của Quốc hội , thu hút sự quan tâm theo dõi của cử tri. Mức
độ nhanh nhạy trong việc lựa chọn những vấn đề trọng điểm để giám sát
cũng góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này và tăng
thêm lòng tin của cử tri đối với hoạt động giám sát của Quốc hội.
2.1.2 Về hiệu quả hoạt động giám sát.
a. Các hoạt động giám sát cơ bản đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.
Cách thức tổ chức giám sát của Quốc hội ngày càng được cải tiến, hoàn
thiện theo hướng tăng cường hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội để
giảm những vấn đề cụ thể không thuộc phạm vi, đối tượng giám sát.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X và khoá XI “điểm nổi bật là các cơ
quan của Quốc hội đã tích cực cải tiến, tìm những hình thức thích hợp nhằm
nâng cao chất lượng giám sát của mình như: thực hiện giám sát theo chuyện
đề, đi sâu khảo sát, theo dõi sát sao việc giải quyết kiến nghị sau giám sát về
những vấn đề đang sôi động trong đời sống kinh tế - xã hội như: vấn đề
24
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực trạng, phương hướng đổi mới hoạt động
của doanh nghiệp Nhà nước”.
Hoạt động giám sát thực hiện chủ yếu tại các cuộc làm việc , xem xét báo
cáo của Chính phủ, các bộ ngành, kết hợp với giám sát thực tế tại địa
phương, cơ sở, vừa thực hiện giám sát thường xuyên vừa giám sát theo
chuyên đề. Lần đầu tiên tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI tiến hành giám
sát tại kỳ họp chuyên đề về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, nhằm đánh giá một cách khách quan,
toàn diện về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, qua đó tìm biện
pháp nâng cao chất lượng thi hành luật. Hình thức giám sát này tạo nên được
những tiếng vang nhất định, là sự nhắc nhở có trọng lượng đối với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật thuộc lĩnh vực mà mình quản lý.
Trong năm 2007, tại các kỳ họp Quốc hội đã tiến hành xem xét báo cáo
chuyên đề bao gồm:
- Giám sát việc thực hiện dự án Khí - điện - đạm Bà Rịa – Vũng Tàu
- Giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và luật thực
hành thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật về cấp giấy chngứ nhận quyền sử
dụng đất.
Quy trình thực hiện các hình thức giám sát được tiến hành theo quy định
và luôn được quan tâm, cải tiến cho phù hợp. Đặc biệt hình thức chất vấn và
trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội đã trở thành nếp sinh hoạt thường
xuyên, dân chủ trong các kì họp Quốc hội, được cử tri cả nước quan tâm,
theo dõi và hoan nghênh. Tại mỗi kỳ họp các đại biểu Quốc hội đã thực hiện
hàng trăm chất vấn đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chánh
25

×