VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THỊ THU THỦY
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH TỪ
THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 60.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Nguyễn Minh Đoan
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung nghiên cứu trình bày trong luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với đề tài “Quản lý
nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu của
cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai. Nếu có sự thiếu trung thực, tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn và Ban Giám đốc
Học viện Khoa học xã hội.
Tác giả
Đoàn Thị Thu Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
HỘ TỊCH………………………………………………………….………….. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch...........7
1.2. Nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch......17
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch ........................24
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH Ở TỈNH
HẢI DƯƠNG ...................................................................................................30
2.1 Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về hộ tịch
ở tỉnh Hải Dương..........................................................................................30
2.2 Thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch tại tỉnh Hải Dương ...................32
Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG ..........................................52
3.1 Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch..................................52
3.2 Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch....................................54
KẾT LUẬN ......................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................71
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đăng ký và quản lý hộ tịch là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối với
người dân và Nhà nước. Thông qua việc đăng ký, quản lý hộ tịch, tạo cơ sở pháp lý
để Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân.
Đồng thời, góp phần vào các biện pháp quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ
cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng của đất nước. Với phạm vi và đối tượng quản lý vô cùng rộng lớn, tác động
đến mọi tầng lớp dân cư, việc thiết lập hệ thống quản lý dân cư, quản lý hộ tịch
luôn là mối quan tâm của mọi quốc gia.
Ở Việt Nam, hệ thống quản lý hộ tịch đến nay đã trải qua nhiều mô hình
quản lý khác nhau, được điều chỉnh bởi các chế độ quản lý khác nhau trong thời kỳ
phong kiến, thực dân, thời kỳ chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam,… Trải qua
các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước, từ mô hình quản lý tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường, mô hình hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch cũng trải
qua những biến đổi căn bản nhưng tựu chung cho thấy, công tác hộ tịch đóng vai
trò quan trọng và luôn được duy trì trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Trong thời gian qua, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta đã có
những bước phát triển ổn định, đạt được những kết quả quan trọng. Công tác xây
dựng thể chế được tăng cường; việc phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch ngày
càng được coi trọng. Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch được củng cố; đội
ngũ công chức làm công tác hộ tịch được tăng cường, kiện toàn. Trình tự, thủ tục
đăng ký hộ tịch cũng từng bước được đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân. Dữ liệu hộ tịch được lưu trữ và sử dụng lâu dài, khẳng định vai trò trong
quản lý nhà nước và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân. Việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch đạt được những thành tựu bước
đầu. Công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài đã có những chuyển biến tích
1
cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước cũng như đăng ký các việc phát sinh
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng,
việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, quyền con
người, quyền công dân đòi hỏi được ghi nhận và bảo đảm thực hiện ở mức cao hơn
thì công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã bộc lộ nhiều hạn chế như: Thủ tục quản
lý hộ tịch chưa khoa học, chưa phù hợp thực tế, trình độ, năng lực của đội ngũ công
chức làm công tác quản lý hộ tịch; việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hộ tịch
chưa được quan tâm đúng mức… Những hạn chế này đã làm giảm đi hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về hộ tịch. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có
những nguyên nhân xuất phát từ chính các quy định của pháp luật về đăng ký, quản
lý hộ tịch.
Chính vì vậy, nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập,
hạn chế, nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều
quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng
thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hướng từng bước chuyên
nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Ngày
20/11/2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Hộ tịch đánh
dấu việc lần đầu tiên có văn bản ở tầm Luật quy định riêng về lĩnh vực đăng ký và
quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện bằng các văn bản dưới Luật do Chính phủ
ban hành.
Trong những năm qua, tỉnh Hải Dương đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong
quản lý nhà nước về hộ tịch. Với sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền,
công tác đăng ký và quản lý về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã từng bước
được thực hiện nghiêm túc đầy đủ, chính xác và đã gặt hái được những thành tích
nhất định. Tuy nhiên, thực trạng quản lý hộ tịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương cho
thấy vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả.
2
Từ những nội dung trình bày nêu trên, học viên chọn đề tài “Quản lý nhà
nước về hộ tịch từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật.
Với mong muốn qua nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch tại tỉnh Hải
Dương, luận văn sẽ rút ra những kết luận, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn
nữa công tác quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, các luận án, luận văn, bài báo tạp chí đề
cập đến vấn đề hộ tịch và các chính sách thực hiện pháp luật về hộ tịch trong thời
gian qua. Có thể nêu một số công trình:
- Bộ Tư pháp (2006), “Hướng dẫn nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch”,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
- Bộ Tư pháp (2006), “Quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch”, Nxb.
Chính trị quốc gia;
- Bộ Tư pháp (2007), “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
- Bộ Tư pháp (2010), “Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ Tư pháp xã, phường,
thị trấn”, Nxb. Tư pháp;
- Viện nghiên cứu khoa học và pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), “Chuyên đề
thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch”;
- Viện nghiên cứu khoa học và pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), “Bảo vệ quyền
trẻ em trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội;
- Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở (2010), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở tỉnh Hòa Bình – Thực trạng và giải pháp” của Sở
Tư pháp tỉnh Hòa Bình, tác giả Trần Việt Hưng chủ nhiệm đề tài, Viện Khoa học
Pháp lý - Bộ Tư pháp;
- ThS. Phạm Trọng Cường (2004), “Về quản lý hộ tịch”, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội;
- ThS. Phạm Trọng Cường (2007), “Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch”,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
3
- Phạm Hồng Hoàn (2011), “Quản lý nhà nước về hộ tịch cấp xã, huyện
Đan Phượng, thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính
công, Học viện hành chính quốc gia Hà Nội;
- Lê Thị Minh Hiếu (2013), “Thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội;
- Bùi Thị Tư (2014), “Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Trương Thị Vân Anh (2015), “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, thực
tiễn ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Thị Hạnh (2016), “Pháp luật quản lý về hộ tịch - Từ thực tiễn
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp và Hành
chính, Học viện hành chính quốc gia Hà Nội;
- Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao (2012), “Kinh nghiệm thực tiễn và một số kiến
nghị về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 9;
- Lương Thị Lanh (2013), “Đánh giá thực trạng pháp luật về hộ tịch và giải
pháp hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề pháp luật về hộ
tịch);
- Nam Minh (2013), “Tiếp tục phân cấp thẩm quyền, cải cách phương thức
quản lý và đăng ký hộ tịch”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề pháp luật
về hộ tịch);
- TS. Trần Thất (2013), “Mối quan hệ giữa pháp luật về quản lý hộ tịch với
pháp luật về quản lý dân cư”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề Pháp
luật về hộ tịch);
- Đinh Ngọc Giang (2015), “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 228);
4
Các công trình khoa học nói trên đã đề cập từng khía cạnh của quản lý về hộ
tịch. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp
về quản lý hộ tịch từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Những tài liệu trên là những gợi ý
quý báu có giá trị tham khảo, kế thừa giúp tác giả tiến hành nghiên cứu trực tiếp
hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức lý luận về quản lý nhà nước về hộ tịch và đánh giá thực
trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương, luận văn
đưa ra những giải pháp thiết thực, có căn cứ khoa học và thực tiễn nhằm hoàn thiện
pháp luật về quản lý nhà nước về hộ tịch hiện hành.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về hộ tịch, quản lý hộ tịch.
+ Đánh giá thực trạng để làm rõ những ưu điểm và hạn chế; nguyên nhân
của những ưu điểm, hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hộ
tịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng, phạm vi nghiên cứu như sau:
+ Luận văn nghiên cứu lý luận và các quy định của pháp luật trong hoạt
động quản lý nhà nước ở Việt Nam về hộ tịch.
+ Việc áp dụng các quy định của pháp luật về hộ tịch và thực tiễn hoạt động
quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài là những luận điểm trong học thuyết
Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý hành chính nhà nước; các quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý hộ tịch.
5
Đồng thời tác giả có tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học.
Các phương pháp được tác giả sử dụng trong luận văn gồm: phương pháp
phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ
thống, so sánh, thống kê…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về hộ tịch. Đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước từ đó chỉ ra được hạn chế, nguyên nhân. Đề xuất hệ
thống giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
trong các cơ sở đào tạo, cho những người làm công tác nghiên cứu về hộ tịch hoặc
áp dụng trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về hộ tịch.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở tỉnh Hải Dương.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch từ
thực tiễn tỉnh Hải Dương.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ HỘ TỊCH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch
1.1.1. Khái niệm hộ tịch, đăng ký hộ tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch
- Hộ tịch
“Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt nhưng
rất khó xác định được thời điểm xuất hiện. Khảo cứu qua các bộ sử liệu như “Đại
Việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Việt sử thông giám cương
mục”… có thể thấy thuật ngữ “hộ tịch” đã xuất hiện từ rất sớm, bên cạnh nó còn
các từ cổ có liên quan và cùng nằm trong phạm trù quản lý dân cư như “trướng
tịch”, “hộ khẩu”, “sổ dân bạ”, “tiểu điển”, “phụ tịch”, “chính hộ”, “khách hộ”…
Tuy nhiên, theo “Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ điển của tác giả Huỳnh Tịnh
Paulus Của được biên soạn từ năm 1895 với phương pháp “tham dụng chữ Nho và
lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì trong bộ chữ “hộ”chưa có từ “hộ
tịch”[15, tr.425].
Xét về khía cạnh ngôn ngữ học, “hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ,
được ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Xét
về mặt từ loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm trừu tượng
[13, tr.211]. Nếu tìm hiểu riêng từng thành tố thì có thể thấy, các từ điển tiếng Việt
hiện nay khá thống nhất trong cách hiểu từng từ đơn này. Theo đó, từ “hộ” - khi sử
dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một nghĩa trực tiếp là
“dân cư” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những người
cùng ăn ở với nhau”. Với từ “tịch”, có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký
quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ hợp hai thành tố này thành danh từ “hộ tịch”
lại là một trường hợp rất đặc biệt về mặt ngôn ngữ, và được sử dụng với thuộc tính
kết hợp hạn chế (hạn chế về việc sử dụng và khả năng tổ hợp của từ ngữ) [67, tr.9].
7
Chính vì vậy, qua khảo cứu các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa
từ “hộ tịch” rất khác nhau:
“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch
quán của từng người” [1, tr.384]. “Hộ tịch: Sổ biên dân số ghi rõ tên họ, quê quán
và chức nghiệp của từng người” [38, tr.404]. “Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa
phương hoặc cả toàn quốc, trong có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của
từng người” [60, tr.296]. “Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp của mọi người trong một địa phương” [44, tr.321]. “Hộ tịch: Sổ sách ghi
chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” [37, tr.814].
Bên cạnh những cách giải nghĩa của các từ điển Hán - Việt nói trên, một số
từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” ở những khía cạnh khác hẳn. Ví dụ như: “Hộ
tịch: Sổ của cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương mình theo từng
hộ” [67, tr.442]. “Hộ tịch: Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản
lý của pháp luật” [70, tr.835]. “Hộ tịch: Quyền cư trú, được chính quyền công nhận
của một người tại nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng
một hộ, do chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần” [25, tr.385]. Như vậy,
có thể thấy, nghĩa của từ “hộ tịch”, xét về khía cạnh ngôn ngữ học còn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau, thậm chí có cuốn từ điển còn thể hiện sự nhầm lẫn cơ bản giữa
hai khái niệm “hộ tịch” và “hộ khẩu”. Điều này phản ánh một thực tế là sự nhầm lẫn
giữa hai khái niệm này trong nhận thức xã hội còn khá phổ biến.
Về khía cạnh pháp lý, bản thân khái niệm “hộ tịch” hoàn toàn không dễ định
nghĩa. Trong khoa học pháp lý một số nước trên thế giới, có thể nhận thấy khái
niệm về hộ tịch đã được đề cập, cụ thể như trong tiếng Anh, thuật ngữ “Civil
registration” được hiểu là việc đăng ký đúng thời hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn
với chính quyền trong thời hạn quy định. Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự của Cộng
hòa Pháp không đưa ra khái niệm riêng về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm “Chứng
thư hộ tịch”, nhưng trong tiếng Pháp thì từ “registre d etat civil” cũng được hiểu là
việc đăng ký dân sự của cá nhân. Như vậy, cả hai khái niệm nêu trên đều có thể
hiểu nghĩa đó là việc “đăng ký tình trạng dân sự của cá nhân”.
8
Hiện nay, theo các tài liệu và được Liên hiệp quốc công nhận, chính thức sử
dụng thường xuyên thì khái niệm “Civil registration” có nghĩa là: “Đăng ký hộ tịch
là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tình trạng dân sự của mỗi cá nhân
liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh, luật hoặc điều lệ phù hợp với yêu
cầu của pháp luật mỗi quốc gia”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo
trình giảng dạy của Trường Đại học Sài Gòn - khoa Luật dưới chế độ Việt Nam
Cộng hòa, trong đó nổi bật lên một số quan điểm như: “Hộ tịch - còn gọi là nhân thế
bộ - là cách sinh hợp pháp của một công dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch
căn cứ vào ba hiện tượng quan trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử” [59,
tr.7]. “Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ tịch gồm
ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử” [49, tr.111]. Tác giả Trần
Thúc Linh, tác giả cuốn “Danh từ pháp luật lược giải” - vốn được đánh giá là một
trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên - không đưa ra định nghĩa về khái
niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa khái niệm “chứng thư hộ tịch”: “Chứng thư hộ tịch
là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh một cách chính xác thân trạng
người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ tên, con trai con gái, con chính thức
hay con tư sanh, tư cách vợ chồng… tóm lại tình trạng xã hội của con người từ lúc
sinh ra đến khi chết. Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc
thay đổi về thân trạng người ta nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hóa con tư sinh,
khước từ phụ hệ, ly thân…” [45, tr.42].
Khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống pháp lý
tiếng Việt. Bản thân khái niệm này hoàn toàn không dễ dàng định nghĩa một cách
minh bạch, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó không thuận tiện theo nguyên
tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, do
khái niệm này, trải qua một quá trình lịch sử đã dần trở thành ngôn ngữ phổ thông
ăn sâu trong nhận thức của người dân nên giải pháp đi tìm khái niệm Việt hóa thay
thế không được lựa chọn mà thay vào đó các nhà làm luật đã dung hòa bằng cách
sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa
9
trong văn bản. Theo đó, khoản 1 Điều 2 và Khoản 1 Điều 3 Luật Hộ tịch năm 2014
đưa ra định nghĩa: Hộ tịch là những sự kiện xác định tình trạng nhân thân của cá
nhân từ khi sinh ra đến khi chết bao gồm: khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha,
mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch
và khai tử. Trong đó khai sinh, kết hôn, khai tử là ba sự kiện hộ tịch cơ bản phổ
biến mà bất cứ cá nhân nào cũng phải được đăng ký.
Mỗi cách giải thích đứng từ góc nhìn khác nhau, thể hiện sự vận động nhận
thức về khái niệm ở các thời kỳ khác nhau, nhưng điểm chung là đều liên quan đến
sự ghi nhận cái thuộc về nhân thân con người; là những sự kiện sinh, tử, kết hôn,
giám hộ, nhận cha mẹ con, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc… xác
định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết đi.
- Đăng ký hộ tịch
Việc đăng ký hộ tịch (tức là đăng ký cá nhân), được hiểu là một hành vi đăng
ký của cá nhân đối với Nhà nước nhằm bảo đảm các quyền dân sự của cá nhân. Theo
quan niệm truyền thống, đăng ký hộ tịch là việc ghi chép vào sổ các sự kiện về việc hộ
tịch của các hộ nhằm quản lý việc biến động của các sự kiện đó. Việc đăng ký hộ tịch
phải thể hiện trên giấy tờ. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
cho cá nhân theo quy định là căn cứ pháp lý để xác nhận các sự kiện hộ tịch của cá
nhân đó và mỗi sự kiện hộ tịch đều được cơ quan đăng ký hộ tịch ghi nhận bằng
giấy tờ hộ tịch.
Theo đó, đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận
hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà
nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư.
Nội dung đăng ký hộ tịch thường gồm các việc sau:
- Xác nhận và ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết hôn;
khai tử;giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân
tộc, bổ sung hộ tịch.
- Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: thay đổi quốc tịch; xác định
10
cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly
hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật; công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ;
tuyên bố hoặc huỷ tuyên một người mất tích, đã chết; bị mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự.
- Ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải
quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài bao gồm: khai sinh; kết hôn, ly
hôn, hủy việc kết hôn, giám hộ, nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi
con nuôi, thay đổi hộ tịch; khai tử...
- Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động tác
động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng
quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục tiêu nhất định
đã đề ra. Quản lý là hoạt động mang tính đặc thù của con người, là sự tác động có
mục đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện
ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó có hoạt động chung của con người.
Khi Nhà nước xuất hiện thì phần lớn các công việc của xã hội do nhà nước
quản lý. Theo nghĩa rộng, khái niệm quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều
hành của cả bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền
lực nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu
này, quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân lao động làm chủ”. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá
trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được
những mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà
nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính
chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công
tác nội bộ của mình.
11
Quản lý hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý nhà nước. Quản lý
nhà nước về hộ tịch là hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch của nhà nước gắn với
các sự kiện: sinh, tử, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha, mẹ, con, thay đổi,
cải chính, bổ sung hộ tịch. Thông qua việc đăng ký hộ tịch, nhà nước nắm được
tình hình biến động dân cư, giúp nhà nước có cơ sở để hoạch định các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng cũng như hoạch định các chính
sách về dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Quản lý nhà nước về hộ tịch là một nội dung trong quản lý nhà nước về hành
chính - tư pháp, tập trung chủ yếu vào các hoạt động: Ban hành hoặc trình cơ quan
có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch; Xây dựng và tổ
chức thực hiện chính sách, kế hoạch, định hướng về hoạt động hộ tịch; Phổ biến,
giáo dục pháp luật về hộ tịch; Thực hiện đăng ký hộ tịch; Quản lý hệ thống tổ chức
và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch; Đào tạo, bồi dưỡng,
hướng dẫn nghiệp vụ về hộ tịch; Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm,
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động hộ tịch; Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật
chất, phương tiện cho một số hoạt động hộ tịch; Hợp tác quốc tế về hộ tịch; Thống
kê nhà nước về hộ tịch; Tổng kết hoạt động hộ tịch; báo cáo cơ quan nhà nước cấp
trên về hoạt động hộ tịch.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch là một hình thức hoạt động của nhà nước, do
các chủ thể có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật
trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, phục cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Nhìn tổng quát, quản lý nhà
nước về hộ tịch có những đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính
quyền lực. Quyền lực trong quản lý nhà nước đối với hộ tịch thể hiện ở việc các chủ
thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện nhất định, trong đó
có phương tiện cơ bản và quan trọng nhất được sử dụng đó là hệ thống các văn bản
quản lý về hộ tịch. Bằng việc ban hành các văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện
12
ý chí của mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật nhằm đưa các quy định về
hộ tịch được áp dụng vào thực tiễn thông qua hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch
của Nhà nước. Bên cạnh đó, chủ thể quản lý hộ tịch có thẩm quyền chịu trách nhiệm
bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch được thực hiện một cách triệt để,
chính xác nhằm bảo đảm thực hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước thông qua các
biện pháp như: các biện pháp về tổ chức, giáo dục, thuyết phục, hòa giải… Chính
những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất của sức mạnh nhà nước,
nhờ đó ý chí của chủ thể quản lý hộ tịch được bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch có tính chấp hành và điều
hành. Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch luôn
đan xen, song song tồn tại, được thể hiện trong việc những hoạt động này được tiến
hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp luật, cho dù đó là hoạt
động chủ động, sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng không được vượt quá khuôn
khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những
hoạt động thực tiễn trên cơ sở các quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý hộ tịch thể hiện trong việc chủ thể có thẩm
quyền tổ chức thực hiện pháp luật về hộ tịch trong đời sống xã hội. Trong quá trình
đó, các chủ thể này, không chỉ tự mình thực hiện pháp luật về hộ tịch mà còn đảm
nhận chức năng chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan đơn vị trực
thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thực
hiện pháp luật về hộ tịch nhằm thực hiện hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ quản lý hộ tịch.
Thứ ba, quản lý nhà nước hộ tịch là hoạt động được tiến hành bởi những chủ
thể có quyền năng hành pháp là các cán bộ, công chức làm công tác hộ tịch trong
bộ máy nhà nước. Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước với sự phân cấp từ Trung ương đến cơ sở, cấp
dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của
cấp trên.
13
Thứ tư, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, được tổ
chức chặt chẽ và mang tính liên tục. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch
được tổ chức một cách thông suốt từ Trung ương đến cơ sở, thể hiện tính thứ bậc
chặt chẽ trong tổ chức và hoạt động của nội bộ cơ quan và cũng như trong toàn bộ
hệ thống. Các cơ quan quản lý hoạt động và thực hiện các nhiệm vụ trong phạm vi,
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật và đảm
bảo thực hiện đúng mối quan hệ trên - dưới; ngang - dọc theo quy định của pháp
luật, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất, bảo
đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các
địa phương, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, tránh được sự cục bộ phân hóa
giữa các địa phương, vùng miền. Mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng
về vị trí địa lý, các điều kiện về kinh tế - văn hóa - xã hội, do vậy, để phát huy tối
đa tiềm năng của từng địa phương, tạo sự năng động, sáng tạo trong quản lý điều
hành, bộ máy quản lý nhà nước về hộ tịch còn được tổ chức theo hướng phân cấp,
trao quyền tự quyết cho từng địa phương.
Thứ năm, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục. Tính
liên tục trong quản lý nhà nước về hộ tịch xuất phát từ sự vận động không ngừng
của đời sống xã hội; các sự kiện hộ tịch như sinh, tử, kết hôn diễn ra thường xuyên,
hàng ngày. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch luôn cần có tính kịp thời,
linh hoạt; đảm bảo các hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào.
Chính đặc điểm này được coi là cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về hộ tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có
đội ngũ cán bộ, công chức năng động, sáng tạo và chịu trách nhiệm đối với hoạt
động của mình.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người
từ khi sinh ra đến khi chết. Do vậy, đăng ký và quản lý hộ tịch là một vấn đề quan
trọng đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Quản lý nhà nước về hộ tịch là nhiệm vụ
thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động
14
về hộ tịch. Mọi sự kiện hộ tịch đều được đăng ký kịp thời, chính xác, đúng quy định.
Trên cơ sở đó, bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình khi
tham gia vào các quan hệ xã hội như quyền được khai sinh, quyền được kết hôn,
quyền được giám hộ, quyền được thừa kế… Đồng thời, góp phần xây dựng chính
sách về kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng, dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện chức năng xã hội của nhà nước; là hoạt
động gắn bó mật thiết đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi công dân, được Đảng
và Nhà nước đặc biệt chú trọng, là lĩnh vực có mối liên hệ mật thiết với hiệu quả
của việc quản lý dân cư nói chung. Do vậy, vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch
được thể hiện trên các mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò quan trọng trong việc ghi
nhận và bảo đảm việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2015 như: quyền có họ
tên; quyền được thay đổi họ tên; quyền xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh,
khai tử, kết hôn; quyền đối với quốc tịch; quyền xác định lại giới tính… Các dữ
liệu về tình trạng thân nhân của mỗi cá nhân thể hiện trên các giấy tờ hộ tịch là sự
khẳng định địa vị pháp lý của mỗi cá nhân, qua đó, các cơ quan, tổ chức và cá nhân
khác có thể đánh giá, xem xét người đó có khả năng, điều kiện tham gia vào các
quan hệ pháp luật nhất định hay không. Ví dụ: Một đứa trẻ khi sinh ra, được cơ
quan có thẩm quyền đăng ký khai sinh, thể hiện bằng Giấy khai sinh. Kể từ thời
điểm đó, đứa trẻ chính thức trở thành một chủ thể pháp luật độc lập, được pháp luật
bảo vệ bởi các yếu tố nhân thân riêng biệt, được xác định trên Giấy khai sinh.
Hoạt động đăng ký khai sinh của cơ quan có thẩm quyền đánh dấu điểm khởi
đầu của hoạt động quản lý nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là
điểm khởi đầu cho mọi mối quan hệ giữa công dân với nhà nước. Với ý nghĩa quan
trọng như vậy, quản lý nhà nước về hộ tịch chính là sự bảo hộ việc thực hiện các
quyền con người. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, khi mà nền dân chủ được mở
rộng và phát huy, các giá trị quyền con người luôn được nhà nước đề cao, có trách
nhiệm bảo hộ và tôn trọng.
15
Thứ hai, quản lý nhà nước về hộ tịch là cơ sở để nhà nước hoạch định các
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng… và tổ chức
thực hiện có hiệu quả các chính sách đó. Hệ thống dữ liệu đầy đủ, chính xác và
được cập nhật kịp thời, thường xuyên sẽ là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, hỗ
trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp
với từng địa phương, từng giai đoạn phát triển, góp phần tiết kiệm chi phí xã hội. Ví
dụ: Khi triển khai các chính sách liên quan đến dân cư như: chăm sóc y tế, phổ cập
giáo dục, hôn nhân và gia đình… các cơ quan, tổ chức thường căn cứ vào số liệu
thống kê về đăng ký khai sinh, kết hôn để xác định đối tượng và triển khai các biện
pháp phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương đó.
Tuy nhiên, việc hoạch định các chính sách, đề ra biện pháp có sự khác biệt
giữa các vùng miền. Tại các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, hoạt động
quản lý nhà nước về hộ tịch bị buông lỏng, hệ thống sổ hộ tịch được lưu trữ không
phản ánh chính xác tình hình dân cư. Do đó, việc thực hiện các chính sách của
Đảng và Nhà nước gặp nhiều khó khăn, đạt kết quả thấp. Đối với quốc gia có kết
cấu dân cư đa dạng về thành phần dân tộc như Việt Nam, việc quản lý hộ tịch còn
góp phần quan trọng vào việc thực hiện, triển khai các chính sách dân tộc, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba, quản lý nhà nước về hộ tịch còn có vai trò to lớn trong việc bảo đảm
trật tự an toàn xã hội. Hệ thống sổ sách hộ tịch có thể giúp các cơ quan, tổ chức
trong việc truy nguyên nguồn gốc của cá nhân một cách dễ dàng. Các giấy tờ hộ
tịch được cơ quan có thẩm quyền xác lập và cấp theo trình tự, thủ tục chặt chẽ. Đây
là cơ sở khẳng định về giá trị pháp lý để mỗi cá nhân tham gia vào các quan hệ
trong gia đình và xã hội.
Trong hoạt động tư pháp, khi cần đánh giá năng lực chủ thể của một cá nhân,
các cơ quan tố tụng luôn cần đến các thông tin về ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh,
dân tộc, quốc tịch, quê quán, họ tên cha mẹ… Do đó, các thông tin trên Giấy khai
sinh là cơ sở để giúp các cơ quan tố tụng đánh giá nhiều vấn đề trong các vụ án
hình sự, dân sự, hành chính… Ví dụ: Một cá nhân tham gia giao thông, có vi phạm
16
hành chính trong lĩnh vực này, cơ quan Công an cần nắm được các thông tin cá
nhân của người vi phạm như họ và tên người vi phạm, ngày, tháng, năm sinh, quê
quán,…để làm dữ liệu tiến hành xử phạt.
Chính vì ý nghĩa quan trọng như vậy, nên trong sự phát triển của mỗi quốc
gia, vấn đề xây dựng và khai thác có hiệu quả hệ thống quản lý hộ tịch luôn được
các quốc gia quan tâm, chú trọng.
1.2. Nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý Nhà
nước, thông qua việc quản lý về hộ tịch Nhà nước nắm được tình hình biến động
dân cư và sự biến động của xã hội, giúp Nhà nước có cơ sở khoa học để xây dựng
kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội.
Là một hoạt động quản lý con người, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch hướng
đến đối tượng quản lý là các đặc điểm nhân thân của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân
được hình thành từ rất nhiều đặc điểm nhân thân gắn liền với cá nhân đó như: họ
tên, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú, nơi sinh, các mối quan hệ gia đình…Tất cả
những dấu hiệu đặc trưng đó bảo đảm cho việc phân biệt chính xác một cá nhân
này với một cá nhân khác.
Dưới góc độ quản lý thì phạm vi quản lý hộ tịch không chỉ giới hạn trong đối
tượng công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả người nước ngoài, người không quốc
tịch. Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch bao gồm các quy định về đăng ký hộ
tịch; cơ sở dữ liệu hộ tịch và trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch.
- Đăng ký hộ tịch
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi
vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo
hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Bao gồm các
nội dung cụ thể sau:
17
+ Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch, bao gồm: khai sinh; kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ
sung thông tin hộ tịch; khai tử.
Khai sinh: Đăng ký khai sinh được xem là thủ tục cần thiết của mỗi cá nhân
ngay từ khi sinh ra, là biện pháp đầu tiên của quản lý hành chính nhà nước trong
lĩnh vực đăng ký hộ tịch. Thông qua hoạt động quản lý trong lĩnh vực này đã giúp
cho Nhà nước theo dõi được sự biến động tự nhiên của dân số, từ đó đề ra các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước cũng như trong từng địa
phương. Mặt khác, việc đăng ký khai sinh một cách đầy đủ, chính xác là bảo vệ
quyền của trẻ em được đăng ký khai sinh ngay từ khi sinh ra theo quy định của
pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Kết hôn: Quyền kết hôn là một trong những quyền đầu tiên trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình của mỗi con người. Đăng ký kết hôn là thủ tục pháp lý, là cơ
sở để luật pháp bảo vệ quyền lợi và sự ràng buộc về nghĩa vụ của mỗi người. Từ
đó, sẽ phát sinh những quan hệ pháp lý giữa vợ, chồng, cha, mẹ, con, giữa ông bà
nội, ngoại và cháu.
Giám hộ: Là việc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định hoặc được cử để
thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Một người có thể giám hộ cho nhiều
người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ.
Nhận cha, mẹ, con: Việc nhận cha, mẹ, con được thực hiện, nếu bên nhận,
bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con
và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.
Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch:
đây là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi; cập nhật thông tin
hay sửa đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy
định của pháp luật dân sự hoặc những thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung
khai sinh đã đăng ký đúng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh.
18
Khai tử: Đăng ký khai tử là việc khai báo cho người mới chết; là một trong
những lĩnh vực quản lý của nhà nước nhằm theo dõi sự biến động tự nhiên dân số.
Đây là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện chết của một người
và ghi vào Sổ đăng ký khai tử. Trên cơ sở đó, chấm dứt quan hệ của người đó đối với
gia đình, xã hội đồng thời phát sinh quyền và nghĩa vụ của thân nhân người chết.
+ Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền: Thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định
lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn
trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc hủy tuyên
bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh, kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch;
khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài.
- Cơ sở dữ liệu hộ tịch
Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tài sản quốc gia, lưu giữ toàn bộ thông tin hộ tịch
của mọi cá nhân, làm cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, phục vụ
yêu cầu tra cứu thông tin, quản lý, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Cơ sở dữ liệu hộ tịch bao gồm Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch
điện tử. Đây là căn cứ để cấp bản sao trích lục hộ tịch cho công dân.
Sổ hộ tịch là căn cứ pháp lý để lập, cập nhật, điều chỉnh thông tin hộ tịch của
cá nhân trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử. Mỗi loại việc hộ tịch phải được ghi vào
một quyển sổ, các trang được đóng dấu giáp lai và được lưu trữ vĩnh viễn theo quy
định của pháp luật.
Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được lập để lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu
thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; được kết nối để cung
cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản của mỗi cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư.
19
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch
Việc quản lý nhà nước về hộ tịch được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác
nhau trong bộ máy nhà nước, pháp luật về hộ tịch quy định về trách nhiệm của các
cơ quan đó trong việc quản lý nhà nước về hộ tịch gắn với nhiệm vụ, quyền hạn
riêng biệt của mỗi cơ quan. Cụ thể:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch. Bộ Tư pháp là cơ quan
giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả
nước. Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp trong phạm vi, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch đối với công dân
Việt Nam ở nước ngoài. Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại
giao và các Bộ, ngành có liên quan tham mưu giúp Chính phủ bảo đảm kết nối, an
ninh, an toàn thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Cơ sở dữ liệu hộ tịch
điện tử theo quy định.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý
nhà nước về hộ tịch tại địa phương mình. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch theo quy định.
Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa
phương mình. Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp
huyện, tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch theo quy định.
Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa
phương mình và thực hiện đăng ký các việc hộ tịch thuộc thẩm quyền của Ủy ban
nhân dân cấp xã theo quy định. Công chức Tư pháp - Hộ tịch có trách nhiệm giúp
Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định, trừ
trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thực hiện việc quản lý
nhà nước về hộ tịch, đăng ký cho công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài theo quy
định của pháp luật. Viên chức Lãnh sự làm công tác hộ tịch có trách nhiệm giúp Cơ
20
quan ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định, trừ trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo.
So sánh nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch của nhà nước ta hiện nay (tính
từ năm 1998 khi Chính phủ ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP đến nay) với
thời kỳ trước đây (thời kỳ thực hiện Điều lệ hộ tịch năm 1961), có thể thấy nội
dung quản lý hộ tịch ngày càng được mở rộng hơn. Đây là một bước tiến quan
trọng cho thấy hoạt động quản lý hộ tịch ngày càng được quan tâm một cách toàn
diện. Tuy nhiên, sự mở rộng nội dung quản lý cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp
đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch phải được nâng lên một trình độ cao
hơn, toàn diện hơn.
1.2.2. Hình thức quản lý nhà nước về hộ tịch
Hình thức quản lý nhà nước là những hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
những hoạt động quản lý cùng loại về nội dung, tính chất và phương thức tác động
của chủ thể lên khách thể quản lý. Hình thức quản lý nhà nước về hộ tịch là một
trong các hình thức quản lý nhà nước nói chung. Quản lý nhà nước về hộ tịch được
thông qua các hình thức sau:
- Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đăng ký và
quản lý hộ tịch, bao gồm toàn bộ hệ thống quy phạm điều chỉnh các vấn đề về hộ
tịch (Luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư…);
- Áp dụng pháp luật về hộ tịch trong các trường hợp cụ thể;
- Áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp như tổ chức việc rà soát, thống kê,
yêu cầu các cá nhân, tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về hộ tịch;
- Thực hiện những hoạt động không mang tính pháp lý như tuyên truyền,
giáo dục pháp luật về hộ tịch, tổ chức hội thảo, hội nghị về công tác hộ tịch, tập
huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác hộ tịch, tổ chức kiểm
tra việc áp dụng và triển khai các quy định của pháp luật về hộ tịch…;
- Áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động đăng ký và
quản lý về hộ tịch;
21
- Thực hiện những tác động về nghiệp vụ - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả,
chất lượng của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch (lưu trữ sổ sách, số liệu về hộ
tịch, cập nhật đầy đủ vào cơ sở dữ liệu hộ tịch…).
1.2.3. Phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch
Phương pháp quản lý nhà nước là cách thức thực hiện những chức năng,
nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lý
hành chính lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết.
Các phương pháp quản lý nhà nước về hộ tịch cũng chính là các phương pháp quản
lý hành chính nhà nước nói chung. Các phương pháp quản lý cơ bản gồm: phương
pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương
pháp kinh tế.
- Phương pháp thuyết phục là phương pháp làm cho công dân, tổ chức thuộc
đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi nhất định
hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định; nhận thức đúng đắn về quy tắc sử xự
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính. Phương pháp thuyết phục được
thể hiện bằng những hoạt động như: giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh,
tuyên truyền... làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp hành các yêu cầu của cơ
quan quản lý. Trong quản lý nhà nước về hộ tịch, phương pháp thuyết phục mang
lại hiệu quả cao. Thông qua thuyết phục, các cơ quan quản lý giáo dục cho mọi
công dân nhận thức đúng đắn về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về hộ tịch góp phần nâng cao ý thức pháp luật của công dân. Việc tự giác
chấp hành các quy định của pháp luật của công dân bao giờ cũng tốt hơn sự cưỡng
chế, ép buộc phải thực hiện.
- Phương pháp cưỡng chế là phương pháp bắt buộc bằng sức mạnh của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong
những trường hợp pháp luật quy định nhằm buộc cá nhân hay tổ chức đó phải thực
hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn
chế nhất định đối với tài sản của cá nhân hay tổ chức hoặc tự do thân thể. Có bốn
22