Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hà nội (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.08 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
K

LÊ THỊ THU HƯỜNG

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luậ
Mã s

: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại:


Học viện Khoa học xã hội

hồi

giờ

ngày tháng năm 2017

th t m hi u luận văn tại:
hư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đứng trước công cuộc đổi mới và hội nhập thế giới, đất nước ta không ngừng
phát tri n cả về trí và lực. Điều kiện kinh tế, xã hội của con người ngày càng cao,
trình độ của người dân cũng ngày một phát tri n. Bên cạnh những thành tựu trên các
lĩnh vực về kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội nước ta đã đạt được, mặt trái của sự
phát tri n không th không nói đến tình hình tội phạm ngày càng phức tạp hơn, các
loại tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi với tính chất và mức độ nguy hi m ngày
càng nghiêm trọng. Dưới sự phát tri n của nền kinh tế thị trường, đời sống của
người dân ngày một nâng cao lại làm các tội phạm xâm phạm sở hữu càng nảy sinh
thêm lòng tham, ý muốn chiếm đoạt tài sản có giá trị của người khác đ phục vụ cho
bản thân. Một trong các loại tội xâm phạm sở hữu cần nói đến là tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Bằng các thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp, tội phạm lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản có th gây ra rất nhiều thiệt hại cho người dân, những người vì sự
tin tưởng mà trao tài sản cho người phạm tội. ũng chính vì sự tin tưởng này mà
nhiều người dân bị hại có th mất đi những tài sản rất lớn, nhiều khi dẫn tới kiệt quệ
về kinh tế, lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Điều này không những xâm phạm

quyền sở hữu của người dân mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của
những người bị hại, gây ra tác hại xấu cho cộng đồng, xã hội, làm mất lòng tin của
nhân dân.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng là loại tội phạm có nhiều dấu
hiệu liên quan đến các tranh chấp dân sự, do đ , việc phát hiện tội phạm nhiều khi bị
bỏ lọt hoặc bị chậm trễ dẫn đến thiệt hại cho người dân chậm được khắc phục,
quyền của công dân bị xâm phạm do tội phạm có liên quan đến vấn đề hình sự hoá
các quan hệ dân sự, kinh tế. Việc tồn tại tình trạng như vậy là do các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tội phạm này còn chưa thống nhất, các cơ
quan áp dụng pháp luật nhiều khi còn lúng túng trong quá trình áp dụng, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc nghiên cứu sâu về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của luật hình sự Việt Nam đặt ra vấn đề
cần quan tâm.
Nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong những năm gần
đây thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tìm hi u kỹ càng. Đặc biệt, việc nghiên
cứu vấn đề tội phạm này trên địa bàn thủ đô Hà Nội- trung tâm văn hoá, chính trị
của đất nước lại càng cần thiết hơn, bởi lẽ Hà Nội là một trong những thành phố đi
đầu về sự phát tri n, đây cũng sẽ là nơi thu hút nhiều tội phạm xâm phạm về sở hữu
trong đ có tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tình hình tội phạm nói
chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng không được quan
tâm, làm rõ đ kịp thời khắc phục sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến bộ mặt của thủ đô.
Tuy nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản lại ít được nghiên cứu đầy đủ và toàn diện. Các vấn đề về thực
1


tiễn liên quan đến tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng chưa
được đi sâu nghiên cứu, bám sát. Thực tiễn đặt ra rằng, vẫn còn nhiều vướng mắc
trong vấn đề định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh
phòng ngừa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, các loại tội phạm
nói chung.
Xuất phát từ tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, nhằm đ ng góp và đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo luật hình sự Việt Nam" (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình nghiên cứu đề tài, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội
phạm có tính tinh vi và phức tạp. Tội phạm này đã được đề cập trong một số giáo
trình, sách, báo, bài viết gồm có:
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II của trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2015); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS. TS. Võ Khánh Vinh
(Chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2003); Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự (Phần các tội phạm), tập 2- Các tội xâm phạm sở hữu của ThS. Đinh Văn Quế,
Nxb Tp Hồ Chí Minh (2002); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các
tội phạm) của tập th tác giả TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS.
Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sỹ Đại, ThS. Nguyễn Mai
Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001),... Các công trình trong sách, giáo trình
nói trên, các tác giả đã đề cập đến nội dung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản. Tuy nhiên, các công trình chỉ dừng lại ở những khái niệm, dấu hiệu cơ bản,
những bình luận một cách tổng quan làm khuôn mẫu cho các đề tài nghiên cứu mà
chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ pháp lý hình sự.
- Đề tài "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có
đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam"- Luận văn Thạc sỹ năm
2012 của tác giả Hồ Ngọc Hải; Đề tài "Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản"- nghiên cứu của ThS. Võ Văn Tài, Giảng viên khoa Ki m sát
hình sự; Đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS
1999” của Nguyễn Thu Vân, Luận văn thạc sỹ. Các đề tài nêu trên đã đề cập đến tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự và tội phạm học.
Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu đều chỉ nghiên cứu một phần hoặc một góc độ liên
quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà chưa nghiên cứu một cách
toàn diện về tội phạm này. Hơn nữa, các đề tài cũng chưa nghiên cứu sâu về thực
tiễn đối với tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội- là một đi m nóng về tội phạm
nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
2


- Bài viết "Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” – Một số vướng mắc
trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện" của ThS. Trần Duy Bình, Toà án nhân dân
tỉnh An Giang cũng đã đề cập đến tội phạm này dưới góc độ luật hình sự. Nhưng bài
viết chỉ đưa ra những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn và một số kiến nghị hoàn
thiện mà chưa đi vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm, các dấu hiệu hay
trách nhiệm hình sự của tội phạm.
Từ những công trình, bài viết, tài liệu được trình bày ở trên, tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội còn là vấn đề
bỏ ngỏ. Đến thời đi m này, đề tài "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật
hình sự Việt Nam" (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) là đề tài có tính
mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. M c đíc nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử tại
TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hà Nội của tội phạm lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu đối với quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm. Qua bài viết, hình thành các vấn đề về
thực tiễn xét xử trong các vụ án về tội phạm này làm cơ sở cho việc nhận thức và áp

dụng các quy định của Bộ luật hình sự về xử lý tội phạm. Từ các cơ sở phân tích đ ,
luận văn kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
3.2. Nhiệm v nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu được đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu, đưa ra khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; làm rõ lịch sử hình thành và phát tri n các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, làm rõ các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; so sánh tội phạm với một số tội phạm khác gần gũi.
Thứ ba, phân tích, làm rõ về thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội; tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình giải quyết vụ án, áp dụng pháp luật. Từ đ , kiến nghị các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đ i ượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và các bản án về tội phạm này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo quy định của luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử tại
TAND hai cấp địa bàn thành phố Hà Nội dưới góc độ pháp lý hình sự trong thời
3


gian 05 năm từ năm 2012 đến năm 2016. Góc độ nghiên cứu tập trung chủ yếu vào
các số liệu xét xử thực tiễn tại TAND hai cấp thành phố Hà Nội trong phạm vi 05

năm qua 100 bản án về tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của TAND
hai cấp thành phố Hà Nội.
Đến thời đi m nghiên cứu đề tài, Bộ luật hình sự 2015 đang được sửa đổi,
hoàn thiện, chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được tiến hành theo Bộ luật hình sự 1999.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. P ươ pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận từ phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan đi m của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các quan đi m, chính
sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đ có đấu tranh phòng ngừa tội
phạm nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
5.2. P ươ pháp nghiên cứu
u tr nh nghie n cứu đề t i, tác giả sử dụng c c phu o ng ph p nghie n
cứu của khoa học luạ t h nh sự nhu : pha n tích, tổng hợp, thống ke ;
phu o ng ph p so s nh, đối chiếu; pha n tích quy phạm ph p luạ t, khảo s t thực
tiễn; điều tra n đi n h nh... đ pha n tích v luạ n chứng c c vấn đề khoa học cần
nghie n cứu.
Ngo i ra, trong qu tr nh thực hi n đề t i, t c giả đã tiếp thu c chọn lọc kết
quả của c c co ng tr nh nghie n cứu đã co ng bố, c c đ nh gi , tổng kết của c c
co quan chuye n mo n v c c chuye n gia về những vấn đề c lie n quan đến
c c vấn đề nghie n cứu trong luạ n va n.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ý nghĩa của luận văn có th k đến:
Về mặt lý luận, kết quả nghie n cứu của luạ n va n g p phần ho n thi n
l luạ n về tọ i phạm n i chung, tọ i lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong
khoa học luạ t h nh sự Vi t Nam n i rie ng. Luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm
cơ sở lý luận, làm phong phú thêm về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học đ tham
khảo cho những bài viết, công trình, bài giảng có liên quan.
Về mặt thực tiễn, luạ n va n c

nghĩa đưa ra một số đề xuất, kiến nghị,
cung cấp những luạ n cứ khoa học phục vụ cho co ng t c lạ p ph p v hoạt
đọ ng thực tiễn p dụng Bọ luạ t h nh sự Vi t Nam lie n quan đến tọ i lạm
dụng tín nhi m chiếm đoạt t i sản, qua đ g p phần na ng cao hi u quả co ng
t c đấu tranh ph ng ngừa tọ i n y trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, ở nước
ta nói chung hi n nay v sắp tới.
Với ý nghĩa như trên, luận văn có những đ ng góp mới gồm:
- Phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, phân tích sự phát tri n các quy
định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong lịch sử lập pháp Việt Nam,
so sánh, đối chiếu các quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 và
so sánh các quy định của tội phạm này với một số nước trên thế giới.
4


- Phân tích, đ nh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các hình thức trách nhiệm hình
sự, so sánh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm gần gũi.
- Phân tích thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội, nêu được những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm. Đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả nước
nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ th :
Chương 1. Lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định
của luật hình sự Việt Nam
Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản

Chương 3. Thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội và kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
1.1.1. Khái niệm tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Từ các khái niệm chung, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản được ghi nhận trong BLHS 1999, tác giả xin đưa ra khái niệm về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội
của người phạm tội lợi dụng lòng tin của người khác, sử dụng hành vi vay, mượn,
thuê tài sản hoặc nhận tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên
bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn với mục đích
chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không
có khả năng trả lại tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái pháp luật hình sự, xâm phạm
quyền sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách th chung của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở
hữu, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khách th trực tiếp của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu tài sản.
5


Đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tài sản
của công dân, tổ chức, nhà nước. Các tài sản bị chiếm đoạt là đối tượng tác động của
tội lạm dung tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được các nhà làm luật quy định về yếu tố

định lượng tài sản.
1.1.2.2. Chủ thể của tội phạm
Chủ th của tội phạm này có th là bất kỳ ai có đủ điều kiện chủ th tội phạm.
Cần lưu ý với các trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có th bị truy
cứu TNHS khi thực hiện hành vi thuộc một trong các tình tiết định khung tại Khoản
3 và Khoản 4 Điều 140 BLHS là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên có th bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo quy định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 140
BLHS 1999.
1.1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan của tội
phạm được th hiện là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao
trên cơ sở: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng”. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản mang ba đặc đi m cơ bản của hành vi khách quan là: hành
vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu; nguy hi m cho xã hội; và hành vi đã
được tính toán cân nhắc là hoạt động có ý thức và ý chí của chủ th , được thực hiện
dưới hình thức hành động phạm tội đã vi phạm quy định tại Điều 140 BLHS 1999.
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đ hình
thành tội phạm bao gồm một chuỗi các hành vi. Sau khi nhận được tài sản một cách
hợp pháp, người phạm tội mới tiếp tục có hành vi chiếm đoạt tài sản được giao. Đây
là hành vi mang tính quan trọng nhất dẫn đến cấu thành tội phạm. Không có hành vi
chiếm đoạt này thì không có tội phạm xảy ra.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được bi u hiện qua các thủ đoạn như: gian dối, bỏ trốn, hoặc sử dụng tài sản vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Cần lưu ý, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều
140 BLHS 1999 sửa đổi 2009 có quy định về các thủ đoạn người phạm tội thực hiện
đ hình thành hành vi chiếm đoạt tài sản: Thủ đoạn đầu tiên là thủ đoạn gian dối;
Thủ đoạn thứ hai là thủ đoạn bỏ trốn; Thủ đoạn thứ ba là người phạm tội sau khi có

được tài sản đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến việc không trả lại
tài sản được.
Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiện chiếm đoạt tài sản:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất.
Hậu quả là dấu hiệu được ghi nhận trong cấu thành tội phạm tại Điều 140 BLHS
1999. Nhà làm luật quy định yếu tố định lượng về tài sản chiếm đoạt trong chính cấu
thành tội phạm. Hành vi chiếm đoạt xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian và hậu
quả là kết quả trực tiếp của hành vi chiếm đoạt.
Các yếu tố về địa đi m, thời gian, v.v.. không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
mặt khách quan của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
6


1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hình thức lỗi thuộc mặt chủ
quan của người phạm tội là lỗi cố ý và cụ th hơn nữa là lỗi cố ý trực tiếp. Ở tội
phạm này, người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình là hành
vi nguy hi m cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi mình thực hiện xâm phạm
đến quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ.
Khi xác định lỗi đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cần lưu ý:
ban đầu, khi giao kết hợp đồng hợp pháp và nhận được tài sản, người phạm tội vẫn
có ý chí, ý định thực hiện hợp đồng đ . Chỉ đến giai đoạn sau khi đã giao kết hợp
đồng và nhận được tài sản đ , người phạm tội mới nảy sinh ý định phạm tội và thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn đã được cấu thành tội phạm ghi
nhận. Vấn đề cần lưu ý thứ hai là: Thời đi m nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là
căn cứ rất quan trọng đ phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi phân tích các dấu
hiệu của tội phạm này có th thấy động cơ phạm tội xuất phát từ việc tư lợi, vụ lợi,

do ham muốn những lợi ích nhất định.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích của chủ th phạm
tội là mong muốn có được những tài sản bằng các thủ đoạn do lợi dụng lòng tin của
chủ sở hữu. Do đ , dù người phạm tội biết rõ hành vi của mình gây ảnh hưởng xấu
cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ nhưng vì mục đích
vụ lợi của bản thân, chủ th vẫn cố ý thực hiện tội phạm.
1.2. Lịch sử phát triển, các quy định của luật hình sự của Việt Nam đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Chính sách hình sự nói chung của pháp luật hình sự Việt Nam từ các thời kỳ
trước đã có những quy định ban đầu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Một cách chung nhất, pháp luật hình sự Việt Nam coi hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ là hành vi
nguy hi m cho xã hội từ rất sớm.
1.2.1. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực
Trong giai đoạn Cách mạng tháng Tám mới thành công, nổi bật trong giai
đoạn này là hai Sắc lệnh: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1945 trừng trị các tội phá hủy
công sản;Sắc lệnh số 27/SL ngày 28/02/1946 trừng trị tội tham ô, tội tống tiền, tội bắt
cóc, ám sát, tội đ nh bạc,…; Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/11/1946 trừng trị các tội phù
lạm, bi n thủ công quỹ;… Trong các văn bản pháp luật lúc này lại chưa có quy định
cụ th ghi nhận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tội phạm này chủ yếu
được xét xử theo nguyên tắc của án lệ, được quy định với tên gọi “Bội tín” theo
Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng chính phủ về việc trừng trị một
số tội phạm: “2. Lừa gạt, bội tín: phạt tù từ ba tháng đến năm năm”.
Đến giai đoạn 1970, nhà nước ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm
tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh số 150/PL trừng trị các tội xâm phạm tài sản
7


riêng của công dân ngày 21/10/1970 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tại đây, tội

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lần đầu tiên được ghi nhận thành một tội
phạm độc lập với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, các khung hình phạt cụ th . Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ghi nhận tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản tại Điều 11. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân tại Điều 11.
Giai đoạn 1975, chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam mới thành lập cũng
đã ban hành các văn bản pháp luật đ bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, của
nhà nước. Sắc luật số 03/SL-1976 ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở
miền Nam Việt Nam, tại đây, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được ghi
nhận với tên gọi “Bội tín”: “…b. Phạm các tội khác như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo,
bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
bẩy năm…” (Đi m b Điều 4).
1.2.2. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam giai đoạn từ 1985 đến trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực
Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc
hội thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986.
Tại đây, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được ghi nhận và quy định
thành tội danh riêng tại hai điều luật Điều 135 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản XHCN), Điều 158 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân)
Trong tiến trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, BLHS 1985 đã được sửa đổi,
bổ sung bốn lần vào các năm 1989; 1991; 1992; 1997. Trong đ , tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 135) được sửa đổi, bổ sung hai lần vào các
năm 1991 và 1992; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân được sửa
đổi, bổ sung một lần vào năm 1991. Các lần sửa đổi, bổ sung đối với tội phạm này
chỉ sửa đổi, bổ sung khung tăng nặng của tội phạm vẫn chưa sửa đổi, bổ sung cấu
thành cơ bản đ làm rõ dấu hiệu về hành vi khách quan của tội phạm.
1.2.3. Tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật
hình s Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay
Ngày 22/11/1999 Quốc Hội khóa X đã thông qua BLHS năm 1999 và Nghị

quyết số 32/1999/QH-10 về việc thi hành BLHS đ p ứng đ i hỏi theo yêu cầu của
xã hội với những đi m mới đ ng ghi nhận. Trong đ , tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS 1999, thuộc chương XIV Các tội xâm
phạm sở hữu.
So với BLHS 1985, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được sửa đổi, bổ sung những đi m sau:
Thứ nhất, các tội trong chương tội xâm phạm sở hữu XHCN và chương xâm
phạm sở hữu của công dân được nhập lại thành một chương “ c tội xâm phạm sở
hữu”.
Thứ hai, về cấu thành cơ bản tại Điều 140, so với BLHS 1985, cấu thành cơ
bản tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 140 BLHS 1999 đã ghi nhận
các dấu hiệu pháp lý về tội phạm đầy đủ hơn.
8


Thứ ba, về cơ cấu điều luật tại Điều 140, ngoài hình phạt bổ sung được quy
định tách riêng tại Khoản 5, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được cấu tạo
với bốn khoản tương ứng với bốn khung hình phạt th hiện rõ ràng tính phân hoá
trách nhiệm hình sự.
Đến giai đoạn hiện nay, sau mười sáu năm áp dụng BLHS 1999, đứng trước
thực tiễn xã hội có nhiều biến chuy n, dẫn đến yêu cầu việc ban hành BLHS phù
hợp với tình hình mới là vấn đề tất yếu. Do đ , BLHS 2015 đã ra đời. Tại đây, tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 với những sửa
đổi nhằm th hiện rõ tính răn đe, giáo dục đối với tội phạm trong thực tiễn. BLHS
2015 đã có sự thay đổi đ tăng tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm, th hiện
sự phân hoá trách nhiệm hình sự cao hơn. Cụ th :
Thứ nhất, tại cấu thành cơ bản, nhà làm luật khi mô tả hành vi phạm tội đã quy
định thêm 01 loại hành vi là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản là hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố
tình không trả”, đồng thời bỏ hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” ra khỏi cấu thành

tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, với các khung tăng nặng, BLHS 2015 bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng”; “gây hậu quả rất nghiêm trọng”; “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” thay
bằng tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” (Đi m b Khoản 2 Điều 175); “Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (Đi m b Khoản 3 Điều 175).
1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và kinh nghiệm rút ra với pháp luật hình sự Việt
Nam
BLHS liên bang Nga được thông qua ngày 24/5/1996 và tổng thống Liên bang
Nga ký luật số 64 ngày 13/6/1996 “về việc thi hành bộ luật hình sự của Liên bang
Nga” có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Các tội xâm phạm sở hữu được BLHS của
nước này quy định cụ th tại chương 21, trong đ , Điều 159 quy định tội Lừa đảo
như sau:
“Lừa đảo là chiếm đoạt tài sản hoặc quyền đối với tài sản của người khác
bằng thủ đoạn gian dối hay lạm dụng tín nhiệm, thì bị phạt tiền từ 200 lần đến 700
lần mức lương tối thiểu hoặc mức lương hoặc thu nhập khác của người phạm tội
trong thời gian từ 02 tháng đến 07 tháng hoặc bị phạt lao động bắt buộc từ 180 đến
240 giờ hoặc bị phạt giam từ 04 tháng đến 06 tháng hoặc bị phạt tù đến 03 năm…”
[15].
Như vậy, về cơ bản, BLHS Liên bang Nga cũng có quy định về hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt của công dân. Tuy nhiên, so với BLHS Việt Nam có một
số khác biệt.
BLHS nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ II, ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Trong quá trình thi
hành, BLHS Trung Quốc đã trải qua năm lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1997,
1999, 2001, 2002 và lần sửa đổi, bổ sung gần đây nhất là năm 2005 tại Hội nghị lần
thứ 14 của Uỷ ban thường vụ đại hội đại bi u nhân dân toàn quốc khoá X.
9



Các tội xâm phạm sở hữu được nhà làm luật Trung Quốc quy định tại hương
V BLHS với tên gọi là “ ội xâm phạm tài sản”, liên quan đến tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 266 có quy định:
“Người nào phạm tội lừa đảo, lạm dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản của công
dân với số lượng tương đối lớn thì bị phạt tù từ 03 năm trở xuống, cải tạo lao động,
hoặc quản chế và bị phạt tiền; nếu với số lượng lớn hoặc có tình tiết nghiêm trọng
khác thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm và bị phạt tiền; nếu với số lượng quá lớn
hoặc có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 10 năm trở lên hoặc tù
chung thân, và bị phạt tiền hoặc bị tịch thu tài sản”. [15]
Như vậy, BLHS Trung Quốc cũng quy định các hành vi xâm phạm tới quyền
sở hữu. Tuy nhiên, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lại cũng không được
quy định cụ th trong một điều luật mà cùng chung với tội lừa đảo, hành vi phạm tội
lạm dụng trong bộ luật không được các nhà làm luật mô tả chi tiết như BLHS Việt
Nam.
BLHS Thuỵ Đi n thông qua năm 1962, có hiệu lực từ ngày 01/01/1965. Quá
trình thi hành, BLHS Thụy Đi n đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần các năm 1967,
1970, 1974, 1986, 1988, 1994,… và lần sửa đổi gần đây nhất là năm 1999.
Liên quan đến tội xâm phạm quyền sở hữu của công dân BLHS Thuỵ Đi n
quy định trong hương IX “ ội lừa đảo và các tội gian dối kh c”. Tại Điều 1 có quy
định:
“... Người nào đưa ra thông tin sai sự thật hoặc không đầy đủ, thay đổi nội
dung của chương trình hoặc bản ghi hoặc bằng các thủ đoạn khác tác động một
cách bất hợp pháp đến kết quả xử lí dữ liệu tự động hoặc bất kì quy trình tự động
nào khác nhằm mang lại lợi ích cho người phạm tội và gây thiệt hại cho người khác
thì cũng bị kết án về tội lừa đảo [38, Điều 1];
Như vậy, BLHS Thuỵ Đi n cũng chỉ ghi nhận về các hành vi liên quan đến
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua quy định của BLHS về tội lừa đảo
mà không có quy định cụ th như BLHS Việt Nam.
Qua tìm hi u, nghiên cứu về các quy định có liên quan đến tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản của các quốc gia như Nga, Trung Quốc, Thuỵ Đi n và tội

lạm dụng chiếm đoạt tài sản tại Điều 140 BLHS Việt Nam, tác giả có th khái quát
một số vấn đề như sau:
Một là, các dấu hiệu có liên quan đến hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được pháp luật các quốc gia trên quy định nằm trong các dấu hiệu của tội lừa
đảo.
Hai là, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội có liên quan đến hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự các nước tuy có nhiều
hình thức khác nhau nhưng đều không phân biệt hình phạt chính và hình phạt phụ
khi áp dụng.

10


1.4. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm
khác có dấu hiệu gần gũi
1.4.1. Phân biệt tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Gi
nhau iữa hai ội:
hứ nhất, về khách th , tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản đều xâm phạm đến khách th là quyền sở hữu tài sản được
pháp luật hình sự bảo vệ.
Thứ hai, về mặt chủ quan, cả hai tội phạm đều được thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp.
Thứ ba, về chủ th của tội phạm, cả hai tội phạm này đều có th do bất kỳ chủ
th nào có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Thứ tư, về mặt khách quan của tội phạm, cả hai tội phạm đều được đ nh giá
có mức độ nguy hi m cho xã hội ngang nhau.
Khác nhau giữa hai tội:
Thứ nhất, về mặt khách quan của tội phạm: tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản, người phạm tội sau nhận được tài sản một cách ngay thẳng hợp pháp, quá
trình thực hiện hợp đồng khi đến thời hạn nhất định hoặc thời hạn phải trả lại tài sản,
người phạm tội mới nảy sinh ý định không trả lại tài sản với ý thức chiếm đoạt. Ở tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mặt khách quan của tội phạm lại được xác định gồm hai
hành vi: hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Đ chiếm đoạt được tài sản từ chủ
sở hữu, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối với mục đích chiếm đoạt. Hành vi
gian dối là tiền đề cho việc chiếm đoạt, hành vi chiếm đoạt là kết quả trực tiếp từ
gian dối thành công.
hứ hai, về thời đi m hoàn thành tội phạm: ội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã có hành vi chiếm đoạt. Với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thời đi m hoàn thành tội phạm sớm hơn, tức là
ngay sau khi người phạm tội nhận được tài sản trái phép hoặc khi giữ tài sản trái
phép.
hứ ba, về hình thức chuy n giao tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không
nhất thiết phải thông qua hình thức hợp đồng, ở dạng này thì hành vi phạm tội sẽ gây
ra hậu quả nhanh hơn so với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
1.4.2. Phân biệt tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội tham ô tài sản
Gi ng nhau giữa hai tội:
Thứ nhất, về mặt khách quan của tội phạm, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản và tội tham ô tài sản đều có hành vi khách quan là chiếm đoạt tài sản đang
nằm trong sự quản lý của người phạm tội.
Thứ hai, về mặt chủ quan của tội phạm, đối với cả hai tội phạm này, dấu hiệu
lỗi thuộc mặt chủ quan của tội phạm đều là lỗi cố ý trực tiếp.
Khác nhau giữa hai tội:
Thứ nhất, về chủ th của tội phạm, tội tham ô tài sản có chủ th là những
người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản, là chủ th đặc biệt; Đối với
11


tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ cần là người có năng lực trách nhiệm

hình sự và đạt độ đến tuổi nhất định theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về đối tượng tác động của tội phạm, tài sản là đối tượng của tội tham
ô phải là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, tài sản của doanh nghiệp trong đ nguồn
vốn của Nhà nước chiếm từ 51% trở lên hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước
và tài sản đ đang do người phạm tội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật.
Tài sản là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì có th thuộc
bất kỳ hình thức sở hữu nào.
1.4.3. Phân biệt tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lạm d ng chức
v , quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Gi
nhau iữa hai ội:
hứ nhất, về mặt khách quan của tội phạm, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đều có hành vi khách
quan là chiếm đoạt tài sản. Trong đ , đối tượng tài sản bị chiếm đoạt của cả hai tội
phạm đều là những tài sản đang thuộc sự quản lý của tội phạm.
hứ hai, về mặt chủ quan của tội phạm, cả hai tội phạm đều được thực hiện
với lỗi cố ý trực tiếp.
Khách nhau iữa hai ội:
Đi m khác nhau duy nhất giữa hai tội phạm này là về chủ th của tội phạm.
hủ th của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có th là bất kỳ người nào có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ đến tuổi nhất định theo quy định của pháp
luật. Còn chủ th của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải là
người có chức vụ, quyền hạn nhất định đ từ đ , họ được người khác tin tưởng và
giao tài sản cho họ dẫn đến hành vi chiếm đoạt tài sản của tội phạm.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự 1999
TNHS của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hậu quả pháp lý của việc

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng các thủ đoạn gian dối, bỏ
trốn, sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài
sản qua hợp đồng hợp pháp mà các bên xác lập mà cá nhân người phạm tội phải gánh
chịu trước nhà nước được th hiện bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án.
2.1.1. Hình phạt đ i với tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS
1999 có bốn khung hình phạt chính và một khung hình phạt bổ sung.
• Hình phạt theo Khoản 1 Điều 140 BLHS 1999:
Tại điều khoản này, cấu thành tội phạm xây dựng là cấu thành vật chất, yếu tố
định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt được các nhà làm luật quy định cụ th , là hậu
quả của tội phạm đ xác định thời đi m tội phạm hoàn thành.
12


Trong cấu thành tội phạm cũng quy định về trường hợp hậu quả của tội phạm
khi chưa đạt mức định lượng mà Điều 140 BLHS 1999 đặt ra “hoặc dưới bốn triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm”.
Các tình tiết định tội đã được Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện ki m
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ ư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại hương XIV “ c tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 (Sau đây
gọi tắt là thông tư 02/2001).
Theo khung hình phạt tại Khoản 1 Điều 140 BLHS, người bị truy cứu TNHS
về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có th bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Tại khung hình phạt này, pháp luật
hình sự Việt Nam quy định hai hình phạt chính có th được áp dụng đối với người
có hành vi phạm tội là: phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn.
Trong khung hình phạt, các chế tài được quy định khá cụ th với mức phạt tối
thi u và tối đa của khung hình phạt "cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù

từ ba tháng đến ba năm". Cho đến nay, quy định về hình phạt này vẫn đ p ứng được
tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế.
Vì vậy, Điều 175 BLHS 2015 tuy có những sửa đổi nhưng vẫn giữ nguyên hai loại
hình phạt được áp dụng tùy nghi trong cấu thành Điều 140 BLHS 1999, chỉ thay đổi
tăng mức tối thi u của hình phạt tù từ " 03 tháng" lên thành " 06 tháng".
• Hình phạt theo Khoản 2 Điều 140 BLHS 1999:
Đây là khung hình phạt tội phạm nghiêm trọng. Hình phạt chính được quy
định trong điều khoản này là phạt tù. Điều khoản quy định hình phạt tù từ hai năm
đến bảy năm với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi có một
trong các tình tiết định khung tăng nặng: Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Chiếm đoạt
tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; Tái phạm
nguy hi m; Gây hậu quả nghiêm trọng.
Thời đi m tác giả nghiên cứu bài viết, BLHS 2015 chưa có hiệu lực nhưng
luật mới này đã có sửa đổi một số tình tiết tăng nặng định khung được quy định ở
Khoản 2 Điều 140 BLHS 1999, quy định thêm tình tiết "Có tính chất chuyên
nghiệp" và bỏ đi tình tiết "Gây hậu quả nghiêm trọng". Do đ , quy định của BLHS
mới đã cho thấy sự thống nhất hơn trong các quy định, các điều khoản giảm đi sự
chồng chéo, tránh việc áp dụng pháp luật thiếu minh bạch, nhất quán giữa các điều
khoản.
• Hình phạt theo Khoản 3 Điều 140 BLHS 1999:
Khoản 3 của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được nhà làm luật xây
dựng là tội phạm rất nghiêm trọng. Loại hình phạt được quy định là hình phạt tù với
khung hình phạt lên đến 15 năm tù. Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản khi có một trong các tình tiết: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm
triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
13


BLHS 2015 sửa đổi đã có chỉnh lý, bỏ đi tình tiết định khung tăng nặng "Gây

hậu quả rất nghiêm trọng" và thay bằng tình tiết "Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội". Đi m sửa đổi này đã cho thấy tính hợp lý, kiện toàn hơn
nhưng cũng cần nhanh chóng có hướng dẫn đối với việc áp dụng tình tiết mới được
thay đổi đ khi BLHS 2015 có hiệu lực sẽ không gây khó khăn cho việc thi hành.
Đối với mức hình phạt tại điều luật này, nhà làm luật đã sửa đổi từ quy định "phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm" thành "phạt tù từ năm năm đến mười hai năm". Điều
này cho thấy các nhà làm luật đã có sự đ nh giá, xem xét tính chất nguy hi m cho xã
hội đối với tội phạm này theo đi m, khoản áp dụng đ đảm bảo phù hợp với tình
hình xã hội mới, cho thấy kỹ thuật lập pháp đã được nâng cao, tính phân hoá TNHS
được th hiện cụ th , rõ ràng, minh bạch hơn trong từng điều khoản.

Hình phạt theo Khoản 4 Điều 140 BLHS 1999:
Khoản 4 Điều 140 BLHS 1999 quy định tội phạm với mức cao nhất của khung
hình phạt là đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản khi người đ thực hiện hành vi phạm tội còn kèm theo một trong
các tình tiết định khung tăng nặng: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu
đồng trở lên; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Quy định về tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 4,
BLHS 2015 cũng có những sửa đổi nhất định, cụ th : "4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản
trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm". Mức hình
phạt tại Khoản 4 Điều 175 BLHS 2015 đã sửa đổi mức hình phạt tù từ mười hai năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân của BLHS 1999 thành"phạt tù từ 12 năm đến
20 năm". Mức hình phạt theo BLHS 2015 đã bỏ mức phạt tù chung thân đối với
khung tăng nặng này. Điều này cho thấy tính nhân văn, th hiện quyền con người
nhưng cũng vẫn th hiện tính phân hoá TNHS của các nhà làm luật Việt Nam.
• Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo Khoản 5 Điều 140 BLHS 1999
Hình phạt bổ sung có th được áp dụng đối với tội phạm này là hình phạt tiền
với mức phạt từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm; hình

phạt bổ sung tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. ăn cứ tính chất, mức độ nguy
hi m cho xã hội của hành vi phạm tội, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản có th bị áp dụng cả hai loại hình phạt bổ sung trên hoặc một trong hai
hình phạt.
Với quy định về hình phạt bổ sung, BLHS 2015 cũng có thay đổi. Điều luật
thay đổi cách diễn đạt, quy định rõ chỉ áp dụng một trong hai hình phạt bổ sung hoặc
phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm; hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
2.1.2. Vấn đề miễn trách nhiệm hình s , miễn hình phạt đ i với ười phạm tội
lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo quy định của BLHS, vấn đề miễn TNHS có th được đặt ra với tất cả các
tội phạm trong đ có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. “Người được miễn
TNHS không phải chịu bất kỳ hậu quả gì dưới góc độ pháp lý hình sự hay tính
14


cưỡng chế (trấn áp) về mặt hình sự của chế định miễn TNHS khi áp dụng đối với
người phạm tội là không có” [45, tr.30]. Khi có đủ cơ sở được quy định theo Điều
25 BLHS, vấn đề miễn TNHS có th được đặt ra là một chế định th hiện tính nhân
đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Hiện nay, BLHS 2015 sửa đổi 2017 sắp áp dụng, các quy định về miễn TNHS
được nhà làm luật quy định chi tiết, cụ th hơn so với luật hiện hành tại Điều 29.
Điều 54 BLHS 1999 quy định về miễn hình phạt. Với quy định mang tính
nhân đạo này của pháp luật hình sự, người phạm tội nói chung, người phạm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng có th được miễn hình phạt mà lẽ ra Toà
án phải tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật khi có nhiều tình tiết giảm
nh TNHS quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS, đ ng được khoan hồng đặc biệt,
nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. "Về cơ bản, hậu quả của việc
áp dụng chế định miễn hình phạt là người được miễn hình phạt là người có tội, họ
có TNHS và phải chịu TNHS" [46, tr. 34-43].

Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc khoản 1 Điều
140 BLHS 1999 khi có nhiều tình tiết giảm nh TNHS quy định tại khoản 1 Điều
46, đ ng được khoan hồng đặc biệt sẽ có th được miễn hình phạt.
2.3. Trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trong các trường hợp đặc biệt
2.3.1. Chuẩn bị phạm tội
huẩn bị phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là giai đoạn trong đ
người phạm tội có hành động nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa bắt đầu thực hiện các hành vi đ .
Người chuẩn bị phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc khoản
1, khoản 2 Điều 140 BLHS thì không phải chịu TNHS. Như vậy, hình phạt cao nhất
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội thuộc khoản 3 Điều 140 BLHS là không quá 7
năm 6 tháng tù, hình phạt cao nhất trong trường hợp chuẩn bị phạm tội thuộc khoản
4 Điều 140 BLHS là không quá hai mươi lăm tù.
2.3.2. Phạm tội c ưa đạt
Luật hình sự Việt Nam không đặt vấn đề giới hạn những trường hợp phải chịu
TNHS đối với trường hợp phạm tội chưa đạt mà xác định mọi trường hợp phạm tội
chưa đạt phải chịu TNHS “vì đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành
vi trực tiếp xâm hại khách thể, đã trực tiếp đe dọa gây ra những hậu quả nguy hiểm
cho xã hội” [11, tr.161]. Do đ , mọi trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản chưa đạt phải chịu TNHS.
Trong trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa đạt
thuộc khoản 1 Điều 140 BLHS thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không
quá 2 năm 3 tháng tù, trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
chưa đạt thuộc khoản 2 Điều 140 BLHS thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là
không quá 5 năm 3 tháng tù, trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản chưa đạt thuộc khoản 3 Điều 140 BLHS thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng là không quá 12 năm 9 tháng tù, trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm
15



chiếm đoạt tài sản chưa đạt thuộc khoản 4 Điều 140 BLHS thì có th áp dụng hình
phạt tù chung thân trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Chương 3
THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KIẾN NGHỊ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
3.1. Kết quả thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội những năm gần đây
Thực tiễn xét xử tội phạm giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016 cho thấy số
liệu về tội phạm có nhiều đi m đ ng quan tâm.
3.1.1. Th ng kê th c tiễn xét xử tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn thành ph Hà Nội giai đoạn 2012-2016
Bảng 3.1. Th ng kê s liệu s v án, bị cáo phạm tội lạm d ng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được giải quyết trên địa bàn thành ph Hà Nội từ 2012- 2016
Năm
Số án
Số bị cáo
2012

181

223

2013

137

155


2014

147

157

2015

122

137

2016

75

85

(Nguồn: Phòng thống kê của Văn phòng Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội)
Nhìn vào các số liệu th hiện việc giải quyết các vụ án về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản của hai cấp toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2012
đến năm 2016, Tòa án đã xét xử tổng cộng 662 vụ phạm tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản với 757 bị cáo. Trung bình mỗi năm tại thành phố Hà Nội có 133
vụ với 152 bị cáo. Những năm gần đây, tội phạm có chiều hướng giảm, cao nhất vào
năm 2012 với 181 vụ án và thấp nhất vào năm 2016 với 75 vụ án.
Việc truy cứu TNHS của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
các khung hình phạt cũng được xác định khá rõ.
Bảng 3.2. Th ng kê việc truy cứu TNHS về tội lạm d ng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành ph Hà Nội từ 2012- 2016
TNHS theo TNHS theo

Năm
S v
S bị cáo
khung cơ
khung ă
bản
nặng
2012
181
223
144
79
2013
137
155
109
46
2014
147
157
84
73
16


2015
122
137
91
46

2016
75
85
53
32
Tổng
662
757
481
276
(Nguồn: Phòng thống kê của Văn phòng Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội)
Như vậy, TNHS với các bị cáo bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản chủ yếu được xác định theo khung cơ bản quy định tại Khoản 1
Điều 140 BLHS với 481/757 bị cáo (63.5%). TNHS theo khung tăng nặng chiếm tỷ
lệ ít hơn với 276/757 bị cáo (36.5%) nhưng cũng không phải con số nhỏ.
Bảng 3.3. Th ng kê việc quyết định hình phạt về tội lạm d ng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành ph Hà Nội từ 2012- 2016

Năm

Cải tạo
không
giam
giữ

Án
treo

2012
2013

2014
2015
2016
Tổng

8
0
2
0
2
12

42
27
28
29
17
143

Tù từ



03

trên 03 trên 07 trên 15
ăm
chung
đến 07 đến 15 đến 20
trở

thân
ăm
ăm
ăm
xuông
94
41
31
7
0
82
19
16
9
2
54
21
37
7
8
62
14
24
5
3
34
9
12
10
1

326
104
120
38
14

(Nguồn: Phòng thống kê của Văn phòng Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội)
Đ đưa ra được những đ nh giá cụ th hơn, tác giả thực hiện việc nghiên cứu
thực tiễn 100 bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Toà án nhân
dân 2 cấp thành phố Hà Nội của các quận, huyện như: Thanh Xuân, Hoàn Kiếm,
Nam Từ Liêm, Đan Phượng, Hoài Đức,... Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy về cơ
bản các bản án đều xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn
một số những trường hợp cá biệt, việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội còn chưa hợp lí, làm giảm tính nghiêm minh, tác dụng răn đe của pháp
luật.
3.1.2. Nhận xét về vấn đề định tội danh đ i với tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Qua nghiên cứu 100 bản án, tác giả nhận thấy, hầu hết các bản án, việc định
tội danh được Tòa án xác định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Định tội danh có sự nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Qua thực tiễn nghiên cứu các vụ án, tác giả nhận thấy rằng một số trường hợp
hành vi phạm tội có yếu tố gian dối, Toà án còn nhầm lẫn trong việc xác định tội
danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đặc
biệt là các trường hợp có kí kết hợp đồng dân sự. Đối với những trường hợp này,
17


việc xác định rõ ý thức chiếm đoạt nảy sinh ở thời đi m nào và bản chất của hợp
đồng dân sự là đúng đắn, ngay thẳng hay lừa dối là đi m quan trọng đ phân biệt hai

tội phạm này.
Nếu trước khi kí kết hợp đồng mà người phạm tội đã có ý định chiếm đoạt tài
sản, việc kí kết hợp đồng như một thủ đoạn gian dối đ có được tài sản thì phải coi
là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản [17, tr. 138]. Việc xác định thời đi m nảy sinh
ý thức chiếm đoạt cần xét đến việc có chuẩn bị cho việc kí kết hợp đồng hay không,
khả năng thực tế của người đ trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ mà người đ
phải thực hiện... Mặt khác, đ xác định là tội lừa đảo hay tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản còn phải xem xét đến ý nghĩa, vai trò của thủ đoạn gian dối có
quyết định đến việc chiếm đoạt được tài sản hay không. Thủ đoạn gian dối quyết
định đến việc chiếm đoạt được tại sản thì phải định tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản
chứ không phải tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
3.1.3. Nhận xét về vấn đề quyết định hình phạt đ i với tội lạm d ng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Việc quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản về
cơ bản là đúng, phù hợp với các quy định của BLHS về quyết định hình phạt và các
văn bản hướng dẫn xét xử, với tính chất và mức độ nguy hi m cho xã hội của hành
vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nh TNHS của người phạm tội.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS (Điều 47 BLHS): Thực tiễn
khảo sát các bản án cho thấy, có những trường hợp Tòa án áp dụng Điều 47 đ quyết
định hình phạt nh hơn khung hình phạt. Ví dụ: bản án số 47/2016/HSST của TAND
quận T xét xử bị cáo Cao Thị H phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
Đi m a Khoản 3 Điều 140 BLHS, tòa án áp dụng đi m b, p khoản 1 Điều 46, khoản
2 Điều 46, Điều 47, Điều 60 của BLHS đ quyết định hình phạt nh hơn quy định
của bộ luật đối với bị cáo H và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tuy nhiên, pháp luật Hình sự lại chưa có hướng dẫn trường hợp bị cáo có
nhiều tình tiết giảm nh được quy định ở cả khoản 1 khoản 2 Điều 46, có một hoặc
một số tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 48 thì Tòa án có được áp dụng Điều 47
đ quyết định hình phạt đối với bị cáo hay không.
Có trường hợp, tác giả nhận thấy Tòa án quyết định hình phạt quá nhẹ đối với
bị cáo. Ví dụ Tại bản án số 427/2014/HSST, TAND quận Đ xét xử Tiêu Văn T,

HĐXX đã áp dụng đi m a khoản 3 Điều 140; đi m b, p khoản 1, 2 Điều 46 xử phạt
bị cáo Tiêu Văn T 10 năm tù [52].
Qua đ nh giá các tình tiết vụ án trên, tác giả thấy việc quyết định hình phạt với
T là 10 năm tù là quá nh do số tiền T chiếm đoạt gần 500 triệu đồng khoản 3 Điều
140 BLHS quy định mức chiếm đoạt từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng với
mức hình phạt đến 15 năm tù (số tiền chiếm đoạt đã gần đạt đến mức cuối). Đồng
thời, T chưa khắc phục được hậu quả, mà chỉ khắc phục được với số tiền là 30 triệu
đồng. Vì vậy, cần quyết định một mức hình phạt cao hơn với T mới đủ sự răn đe,
phòng ngừa tội phạm.
Có những bản án, tác giả nhận thấy Tòa án quyết định hình phạt quá nặng đối
với bị cáo. Ví dụ: Bản án số 31/2013/HSST ngày 30/5/2013 của TAND huyện Đ,
18


thành phố HN xử phạt bị cáo Đ về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, áp
dụng Đi m a Khoản 1 Điều 140; các Đi m b, g, p Khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33
BLHS, tuyên phạt bị cáo 07 tháng tù [52].
Với vụ án này, tác giả nhận thấy, TAND huyện Đ đã áp dụng thiếu tình tiết
giảm nh quy định tại Đi m h Khoản 1 Điều 46 là phạm tội lần đầu, thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng đối với bị cáo Đ. Hơn nữa, qua nghiên cứu nhiều bản án, với
nhiều tình tiết giảm nh TNHS (4 tình tiết Khoản 1; 1 tình tiết Khoản 2 Điều 46) có
nhiều bản án quyết định hình phạt với mức đầu khung (04 đến 06 tháng tù) hoặc áp
dụng Điều 60 áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo.
3.2. Những ưu điểm và hạn chế trong thực tiễn áp dụng đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản những năm gần đây
3.2.1. Các ưu điểm đã đạt được
Khi xét xử các vụ án hình sự, Tòa án đã quyết định hình phạt đảm bảo nghiêm
minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của người
phạm tội, đồng thời khoan hồng với những bị cáo phạm tội lần đầu, thật thà khai
báo, ăn năn hối cải nhằm giáo dục đối với tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Các cơ quan tiến hành tố tụng có sự phối hợp thực hiện tốt quy chế làm việc,
định kỳ họp trao đổi những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về đ nh giá chứng cứ và
áp dụng pháp luật như các cuộc họp ba ngành trao đổi án giữa công an- viện ki m
sát- toà án.
Với các thủ tục tại phiên toà, các Toà án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội đã
tri n khai thực hiện việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên toà, thực hiện
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, trên cơ sở các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự và theo tinh thần cải cách tư pháp.
Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng đã được chú trọng và
quan tâm.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS 2015 cũng có những
đi m mới. Tuy chưa có hiệu lực tại thời đi m này, nhưng việc ban hành BLHS 2015
cũng là ưu đi m đ ng nói đ áp dụng đối với thực tiễn về các tội phạm nói chung, tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng sau này. Đối với tội phạm này,
BLHS 2015 đã th hiện kỹ thuật lập pháp tiến bộ hơn, có sự đồng bộ, thống nhất
trong việc áp dụng pháp luật, tránh yếu tố chồng chéo. Điều luật về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được các nhà lập pháp xây dựng có tính cụ th , thay đổi
một số đi m mới vào ngay điều luật tạo điều kiện cho việc áp dụng thực tiễn.
3.2.2. Những hạn chế, ướng mắc trong th c tiễn
Bên cạnh những ưu đi m đã có đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, quá trình áp dụng, thực thi pháp luật trên thực tế còn tồn tại một số đi m hạn
chế, vướng mắc cần khắc phục.
Thứ nhất, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 140
BLHS 1999 vẫn còn một số đi m chồng chéo. Đơn cử như các tình tiết "Gây hậu
quả nghiêm trọng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng" có sự chồng lấn khi nghiên cứu văn bản hướng dẫn tại Thông tư 02/2001 về
19



phần giá trị tài sản so với tình tiết quy định trong điều luật. Ngoài ra, cần có hướng
dẫn cụ th hơn về các thủ đoạn "Gian dối"; "bỏ trốn"; "xảo quyệt" đ việc vận dụng,
áp dụng pháp luật được thực hiện một cách triệt đ , tránh bỏ lọt tội phạm hay làm
oan sai người vô tội. Tuy BLHS 2015 đã có những sửa đổi làm rõ một số phần trong
các vấn đề trên. Tuy nhiên, một số tình tiết mới lại vẫn đặt ra yêu cầu cần nhanh
chóng có hướng dẫn cụ th đ khi thi hành trên thực tế đạt hiệu quả nhanh chóng
như tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; “thủ đoạn
gian dối chiếm đoạt tài sản”; “Thủ đoạn xảo quyệt”.
Thứ hai, chưa có sự hướng dẫn thống nhất đ phân biệt giữa một số trường
hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và các trường hợp là tranh chấp
dân sự.
Thứ ba, chưa có các hướng dẫn cụ th về các căn cứ đ phân biệt tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội phạm gần gũi như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ tư, việc áp dụng tình tiết giảm nh TNHS, tăng nặng TNHS, Điều 47,
Điều 60 BLHS còn chưa được hướng dẫn thống nhất, nhất là với trường hợp người
phạm tội có nhiều tình tiết giảm nh được quy định tại Điều 46 và có một số tình tiết
tăng nặng theo khoản 1 Điều 48 thì Tòa án có được phép bù trừ tình tiết giảm nh và
tình tiết tăng nặng đ xem xét áp dụng Điều 47; Điều 60 với bị cáo hay không.
Thứ năm, vấn đề áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều
140 BLHS 1999 chưa hiệu quả.
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội lạm d ng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Thứ nhất, cần có thêm hướng dẫn cụ th với các trường hợp dùng thủ đoạn
gian dối; dùng thủ đoạn xảo quyệt của BLHS 1999. Một số vấn đề đã được BLHS
2015 khắc phục, thêm vào các tình tiết mới thì cần nhanh chóng ban hành văn bản
hướng dẫn với các tình tiết mới như “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”; “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội” quy định tại Điều 175 BLHS 2015 như đã phân tích ở trên đ nhanh

chóng kiện toàn hệ thống pháp luật, khi BLHS 2015 có hiệu lực 01/01/2018 sắp tới
sẽ được thực thi hiệu quả trên thực tiễn.
Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn thống nhất trong các trường
hợp xác định đâu là trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
đâu là tranh chấp dân sự theo hướng yêu cầu xác định rõ ý thức chủ quan của người
thực hiện hành vi sau khi nhận được tài sản, nếu có khả năng trả lại tài sản trên thực
tế mà cố tình không thực hiện chứ không phải vì hoàn cảnh không th trả được thì
mới xác định là tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền cần có thêm các hướng dẫn đ phân biệt
giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội phạm gần gũi, nhất là tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản theo hướng xác định rõ về thời đi m hình thành tội phạm lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
20


Thứ tư, cần hướng dẫn thống nhất hơn về vấn đề áp dụng các tình tiết tại Điều
46; Điều 47; Điều 48; Điều 60 BLHS, vấn đề có được thực hiện bù trừ các tình tiết
tăng nặng, giảm nh TNHS hay không, tình tiết giảm nh tại Khoản 2 Điều 46 có
được bù trừ với tình tiết tăng nặng đ áp dụng Điều 47 hay Điều 60 BLHS hay
không. Đến nay, BLHS 2015 sửa đổi đã có một số thay đổi đ ng ghi nhận về các
tình tiết tăng nặng, giảm nh TNHS tại Điều 51; 52 BLHS 2015 theo hướng quy
định rõ hơn, cụ th hơn các tình tiết đ áp dụng. Tuy nhiên, quy định đ quyết định
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (Điều 54 BLHS
2015), áp dụng án treo (Điều 65 BLHS 2015) chưa được hướng dẫn cụ th về vấn đề
bù trừ các tình tiết tăng nặng, giảm nh TNHS nên cần nhanh chóng có hướng dẫn
việc áp dụng. Theo tác giả, có th đưa ra hướng dẫn theo hướng nếu người phạm tội
có cả tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nh thì lấy số lượng tình tiết giảm nh trừ
đi số lượng tình tiết tăng nặng mà còn từ 2 tình tiết giảm nh trở lên quy định tại
Khoản 1 Điều 46 (Khoản 1 Điều 51 BLHS 2015) thì mới được áp dụng Điều 47 hay
Điều 60 BLHS 1999 (Sau này là Điều 54 hay Điều 65 BLHS 2015).

Thứ năm, về hình phạt bổ sung quy định tại Khoản 5 của điều luật. Đ khắc
phục tình trạng này, cần có văn bản hướng dẫn rõ ràng việc khi nào cần áp dụng
hình phạt bổ sung đối với tội phạm, theo hướng:
Áp dụng hình phạt bổ sung đối với trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản khi tội phạm thực hiện hành vi phạm tội từ hai lần trở lên.
Trường hợp người phạm tội có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, phải có tài liệu chứng
minh rõ họ không thể thi hành hình phạt bổ sung thì được miễn không áp dụng hình
phạt bổ sung.
3.3.2. Một s giải pháp khác
3.3.2.1. Nâng cao chất lượng các cơ quan tiến hành tố tụng
Các cơ quan tiến hành tố tụng Công an, Viện ki m sát, Tòa án là những chủ
th áp dụng pháp luật một cách thường xuyên nhất đ kịp thời xử lý các vấn đề về
tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng. Do
đ , vấn đề nâng cao chất lượng của các cơ quan này là cần thiết nhằm áp dụng có
hiệu quả các quy định của pháp luật về tội phạm. Cụ th :
Đ i với Cơ quan điều tra
Thứ nhất, cần kịp thời, nhanh chóng tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, các loại tội phạm nói chung từ quần
chúng nhân dân, cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, cần tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổ chức các buổi rút kinh
nghiệm, các hội nghị chuyên đề việc áp dụng những quy định về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản của pháp luật hình sự vào thực tiễn điều tra, phát hiện, xử
lý các vụ án về loại tội phạm này.
Thứ ba, bổ sung đầy đủ, kịp thời cán bộ điều tra, đảm bảo đội ngũ cán bộ đủ
năng lực, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao ý thức tinh thần
trách nhiệm của điều tra viên cũng như đội ngũ cán bộ.
Thứ ư, cần tăng cường phối hợp liên ngành giữa cơ quan Công an với Viện
ki m sát, Tòa án đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, tránh oan sai, áp dụng pháp luật xử
21



lý nghiêm minh trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Đ i với Viện kiểm sát nhân dân
Thứ nhất, Viện ki m sát nhân dân tăng cường hơn nữa trách nhiệm của ki m
sát viên, chuyên viên, không ngừng phát huy hiệu quả hoạt động trong công tác thực
hành quyền công tố và ki m sát hoạt động tư pháp trong đ có những vụ án về tội
phạm Điều 140 BLHS.
Thứ hai, đổi mới phương thức hoạt động nghiệp vụ, tổ chức các cuộc họp
chuyên đề về tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
nói riêng.
Thứ ba, thường xuyên có hoạt động phối hợp liên ngành với ơ quan Điều
tra, Tòa án.
Thứ ư, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của ki m sát viên
và đội ngũ cán bộ.
Thứ ăm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Viện trưởng Viện ki m sát kết hợp
với tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Ki m sát viên đ nâng cao trách
nhiệm từng cá nhân trong việc xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định
truy tố bị can phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tránh làm oan sai
người vô tội hay bỏ lọt tội phạm, áp dụng đầy đủ các biện pháp theo quy định của
pháp luật đ loại trừ vi phạm.
Đ i với Tòa án nhân dân
Thứ nhất, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cần phát huy hiệu quả của nguyên
tắc độc lập khi xét xử, đảm bảo hoạt động xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được thực hiện nghiêm minh.
Thứ hai, Tòa án nhân dân cần tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hoạt động bồi
dưỡng, đ o tạo trình độ, phẩm chất, chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức pháp luật
của đội ngũ cán bộ.
Thứ ba, cần nâng cao hoạt động phối hợp giữa Tòa án với ơ quan điều tra,
Viện ki m sát trong hoạt động tiến hành tố tụng đối với tội phạm lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ ư, Tòa án nhân dân cần bổ sung, kiện toàn đội ngũ cán bộ nhằm tránh
quá tải trong quá trình làm việc.
3.3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Đối với các tội phạm nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói
riêng cần thường xuyên được tuyên truyền rộng rãi đến quần chúng nhân dân đ
nắm bắt được các hành vi, thủ đoạn phạm tội giúp người dân tự bảo vệ được quyền
sở hữu của bản thân. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần được
thực hiện thường xuyên, liên tục với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng đ
pháp luật đi sâu, rộng vào quần chúng nhân dân.
Đ thực hiện tốt hoạt động này, ngoài việc tổ chức các buổi tuyên truyền, giáo
dục tại địa phương, cơ quan có thẩm quyền có th thực hiện biện pháp tuyên truyền
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng Internet nhất là phát huy
22


hiệu quả của trang thông tin điện tử Tòa án công khai các bản án hình sự về tội
phạm nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
3.3.2.3. Nâng cao hoạt động tranh tụng của đội ngũ Luật sư, trợ giúp pháp lý
Hiện nay, vai trò của đội ngũ Luật sư, trợ giúp viên pháp lý trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vẫn chưa thực
sự được đề cao, các Luật sư chưa thực sự phát huy được hết vai trò trong quá trình tố
tụng đối với việc bào chữa cho bị cáo phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản do đ , đội ngũ Luật sư, trợ giúp pháp lý chưa đủ số lượng và chất lượng đ tham
gia, góp ý, phản biện quá trình áp dụng pháp luật.
Chính vì vậy, nâng cao hoạt động tranh tụng của đội ngũ Luật sư, trợ giúp
viên pháp lý tại các phiên tòa xét xử đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là vấn đề cũng cần lưu tâm.
Đ đảm bảo nâng cao chất lượng tranh tụng của đội ngũ luật sư, trợ giúp viên

ph p l , cần đảm bảo về vấn đề năng lực, tr nh độ của đội ngũ luật sư, trợ giúp viên
ph p l được đ o tạo b i bản, chuyên sâu, c nhận thức ph p luật đúng đắn. Những
người n y cần được tích lũy kinh nghiệm về xét xử đối với c c vụ n về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản n i riêng, c c tội phạm n i chung được to n diện
nhằm đưa ra được c c kiến phản biện, nhận định được chính x c, kh ch quan,
đúng ph p luật. L m được điều n y sẽ giúp ph t huy thêm được hiệu quả đối với
công t c ph ng ngừa tội phạm n i chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản
nói riêng.
KẾT LUẬN
1. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được BLHS 1999 quy định tại
Điều 140 xâm phạm quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi khách
quan của tội phạm có tính nguy hi m cho xã hội, chiếm đoạt tài sản hợp pháp của
chủ sở hữu. Tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Thời đi m xác
định tội phạm là sau khi người phạm tội có được tài sản từ giao dịch hợp pháp với
chủ sở hữu mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn gian dối, bỏ
trốn hay đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng
trả lại.
2. Quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được ghi nhận từ
rất sớm trong pháp hình sự Việt Nam với các tên gọi dần được hoàn thiện hơn qua
mỗi thời kỳ. Trong tiến trình lập pháp, trải qua các thời kỳ của BLHS, quy định về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản th hiện trình độ lập pháp ngày càng cao
tương ứng với sự phát tri n của xã hội. Đến nay, BLHS 1999 sửa đổi quy định tội
phạm này đã cơ bản đ p ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Ngoài
ra, BLHS 2015 mới đây cũng tiếp tục ghi nhận các quy định về tội phạm tại Điều
175. Các quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản th hiện trong BLHS
2015 đã cụ th , chi tiết hơn và khắc phục nhiều hạn chế trước đây của BLHS 1999.
Bên cạnh đ , pháp luật hình sự của các nước trên thế giới như Liên bang Nga, Trung
Quốc, Vương quốc Thuỵ Đi n cũng có quy định về tội phạm này. Tuy các quy định
có khác nhau về nội dung, hình thức tuỳ thuộc điều kiện kinh tế, xã hội mỗi quốc gia
23



×