Tải bản đầy đủ (.ppt) (24 trang)

Tuần 22. Tràng giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.68 KB, 24 trang )


1. Tác giả (1919-2005)
- Tên khai sinh: Cù Huy Cận.
- Quê: Hương Sơn, Hà Tĩnh.
- Trước Cách mạng tháng Tám: là
nhà thơ mới tiêu biểu với hồn thơ
cô đơn, ảo nảo vào bậc nhất.

- Cách mạng tháng Tám đã thổi vào
hồn thơ Huy Cận sinh lực mới: ông
trở thành nhà thơ cách mạng. Thơ
ông dạt dào niềm vui của cuộc sống
mới.
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.


2. Tác phẩm
- In trong “Lửa thiêng” (1940).
- Được gợi cảm hứng từ buổi

chiều thu năm 1939, khi nhà
thơ đứng ở bờ nam bến
Chèm- sông Hồng nhìn cảnh
dòng sông mênh mang sóng
nước.


1. Nhan đề và lời đề từ
a. Nhan đề “Tràng giang”
- “Tràng”: dài
“giang”: sông


- Láy vần “ang”

Sông dài
gợi một con sông rộng.

gợi âm hưởng vang xa,
lan toả.
b. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài”
=> định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ


2. Khổ 1
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Bức tranh sông nước mênh mang, bất tận.


“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

- Hình ảnh “sóng gợn”+ từ láy “điệp điệp”
=> những vòng sóng liên tiếp gối nhau, xô
đuổi nhau đến tận chân trời.
- Cụm từ “buồn điệp điệp” gợi nỗi buồn triền
miên không dứt trong lòng người.



“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”
- Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái”
gợi sự trôi nổi, phó mặc.
- Nhịp ngắt 2/2/3 với hai hình ảnh “thuyền
về/nước lại” vận động trái chiều.
diễn tả trạng thái chia li, tan tác, để lại
mối sầu trăm ngả lan toả khắp đất trời.


“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Bản thảo

- “Một cánh bèo trôi đã lạc dòng”.
- “Một chút bèo đơn lạnh giữa dòng”.
- “Củi một cành khô lạc giữa dòng”.

Câu thơ viết lại, nói như tác giả “vừa tự
nhiên, vừa hàm ý sâu” hơn nhiều.


- Hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị nhưng
giàu sức biểu hiện.
- Một cành củi khô bập bềnh vô định trên
sóng nước tràng giang gợi nên cảm giác
về sự nhỏ bé, lạc loài.

Biểu tượng cho những kiếp người nhỏ
bé, bơ vơ trước cái vô thuỷ vô chung

của vũ trụ.


⇒ Khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển, vừa hiện đại:
- Vẻ đẹp cổ điển: hình ảnh thơ, ở cấu trúc đăng đối
giữa các câu thơ:
buồn điệp điệp/ nước song song (BTT/ TBB)
thuyền về/ nước lại
(BB/TT)
sầu trăm ngả/lạc mấy dòng
(BBT/TTB)
- Hiện đại ở hình ảnh hiện thực đến chi tiết: “củi một
cành khô…”
⇒ bức tranh sông nước tràng giang mênh mông

bát ngát, các cảnh vật ở trong thế chia lìa, tan tác,
nhỏ nhoi, thấm đượm nỗi buồn mênh mang
trong lòng người.


3. Khổ 2

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.


“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ

chiều.”
- Không gian “cồn nhỏ” hoang sơ, vắng
lặng (lơ thơ, đìu hiu).
- Chữ “đìu hiu” Huy Cận học được trong câu
thơ của Đoàn Thị Điểm:
“Non Kì lạnh lẽo trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
(Chinh phụ ngâm)


“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều.”
đâu có (không có)
-Từ “đâu” có hai cách hiểu
đâu đó (vọng lại)

Không gian vắng lặng, cô tịch, âm thanh
sự sống của con người rất xa vắng, mơ hồ.


“Nắng

xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu”


- Không gian được mở ra theo nhiều

chiều khác nhau:

+ Cao (trời lên)
+ Dài (sông dài)
+ Rộng (trời rộng)
- “Sâu chót vót”: cách biểu đạt mới mẻ:
+ “sâu”: gợi ấn tượng về sự thăm thẳm,
hun hút đến không cùng.
+ “chót vót” khắc hoạ được chiều cao
dường như vô tận.
không gian được đẩy tới vô biên.


Cảnh vật khiến con người trở nên bé
nhỏ, có phần bị rợn ngợp trước vũ trụ
rộng lớn và không thể không cảm thấy
“lạc loài giữa cái mênh mông của đất
trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài
Thanh).


4. Khổ 3

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.


“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,”


- Hình ảnh “bèo dạt…hàng nối hàng” một lần
nữa tô đậm sự lênh đênh, phiêu bạt vô định ở
khổ thơ đầu.
“không một chuyến đò ngang”
- Một loạt phủ định
“không cầu”

Không có sự giao hoà, sự sống thân mật,
ấm cúng giữa con người với con người.


5. Khổ 4
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Khổ thơ hài hoà chất cổ điển và hiện đại.


Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
=>Những đám mây trắng hết lớp này đến lớp
khác như những búp bông trắng nở ra trên
trời thu, được ánh nắng chiều phản chiếu lấp
lánh như những núi bạc.
- Nhà thơ học chữ “đùn” trong bản dịch “Thu
hứng” của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng dợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ.


Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

- Trên nền trời bao la, xuất hiện một cánh
chim bé nhỏ chao nghiêng như không chịu
được sức nặng của bóng chiều.
=> Nghệ thuật đối lập:
Bầu trời bao la, hùng vĩ

Cánh chim nhỏ bé, đơn độc

Nhấn mạnh nỗi cô đơn trong lòng người.


“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
- Gợi nhớ đến thơ Thôi Hiệu đời Đường:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Hoàng Hạc lâu)
(“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”)
- Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê, còn
Huy Cận không cần có khói sóng, tức là không
có cái gợi nhớ, mà lòng vẫn “dợn dợn” nỗi nhớ
nhà.



Nỗi buồn của thế hệ thanh niên, trí
thức trong những năm tháng mất
nước, phải sống trong cảnh ngột ngạt,
bế tắc của chế độ thuộc địa.


1. Nội dung
- Bài thơ thấm đậm nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước
thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh. Ẩn sau đó là niềm
khát khao hoà hợp giữa con người với con người và
một tình cảm yêu nước thầm kín mà thiết tha.Nói như
Xuân Diệu, “Tràng giang” là bài thơ “ca hát non sông
đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn
Tổ qu

2. Nghệ thuật

Có sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại: thể
thơ thất ngôn, hệ thống hình ảnh ước lệ, ý vị thơ
Đường cùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi,
phảng phất cảnh vật sông nước trên đất nước Việt
Nam.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×