Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

QUY TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.93 KB, 29 trang )

ĐỀ TÀI: QUY TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO
HƯỚNG ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN
-----*****-----

MỞ ĐẦU
Hiện nay, các khái niệm như dạy học tích hợp, đổi mới sách giáo khoa, đổi
mới chương trình dạy học, nâng cao năng lực và phẩm chất cho học sinh,… có mặt
trên các báo giấy, báo mạng, các kênh thông tin đại chúng là nhiều không kể xiết.
Thực chất, những công việc đó là sự chuẩn bị từng bước một cho lộ trình đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam – một nền giáo dục mà không chỉ các
nhà chuyên môn làm giáo dục mà cả giáo viên, học sinh và phụ huynh đều thấy rất
nhiều những nghịch lí, rất nhiều những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tụt hậu.
Trong đó, sự đổi mới của các bộ môn thuộc chuyên ngành khoa học xã hội – nhân
văn là được mọi người quan tâm nhiều hơn cả, đặc biệt là môn Ngữ văn.
Môn Ngữ văn là tên gọi môn học hiện hành của Việt Nam (từ cấp THCS đến
cấp THPT) và Trung Quốc (cả ba cấp). Chúng tôi sử dụng thuật ngữ là Ngữ văn vì
đây là tên gọi mà sách giáo khoa hiện hành đang dùng nhưng trên thực tế thì tên gọi
của bộ môn này cũng lắm phức tạp với nhiều cách gọi khác nhau. Trước đây, chúng
ta không gọi là Ngữ văn mà gọi là Văn học, Tiếng Việt,… Nhưng nhóm chúng tôi
nghĩ rằng dù gọi thế nào thì cũng quan trọng bằng nội hàm bên trong của thuật ngữ
vì nó vẫn thường được gọi là môn Văn với ba phần rõ ràng: Văn học, Tiếng Việt và
Làm văn. Trong đó,Văn học là phần lớn nhất, gồm những văn bản được chọn trong
kho tàng văn học dân tộc. Tiếng Việt là phần cung cấp những kiến thức, công cụ nền
tảng để hình thành và phát triển năng lực đọc văn và làm văn. Còn Làm văn ở đây
mang nghĩa rộng hơn là nhằm rèn luyện kĩ năng nói, viết cho học sinh. Thế nhưng
hiện tại, chương trình của môn học này nói riêng và cả nền giáo dục Việt Nam nói
chung đang bộc lộ những vấn đề, những bất cập không còn phù hợp để đáp ứng nhu
cầu phát triển chung của xã hội. Vậy nên đổi mới là cần thiết. Nhưng lại có một điều
nữa đặt ra là chúng ta phải đổi mới như thế nào trong bối cảnh của nền giáo dục
hiện nay? Liệu những con người mà chúng ta đang có có đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh và
tầm nhìn để hoạch định một lộ trình, một chiến lược lâu dài cho nền giáo dục đang


“kêu cứu”?

1


Đối với môn Ngữ văn, để xác lập định hướng phát triển chương trình cho
môn học này cần những người trong cuộc một mặt xem xét lịch sử phát triển của
môn học, chỉ ra các yếu tố ổn định nên tiếp tục kế thừa, mặt khác cũng cần xuất phát
từ những yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, đặc biệt là yêu cầu hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế. Đổi mới không có nghĩa là làm mới hoàn toàn nền giáo dục,
đập đi xây lại. Đổi mới là giữ lại những gì đã ổn định, chỉ thay thế những những gì
đã cũ, đã lỗi thời vì một mục đích chung là giúp nền giáo dục Việt Nam đào tạo
được những hiền tài nhằm bồi đắp thêm nguyên khí của quốc gia.
Trong đề tài này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài của nhóm
chúng tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về môn Văn trong nhà trường và quy trình tổ chức dạy
học Ngữ Văn
Tổng quan về môn Văn trong nhà trường
Quy trình tổ chức dạy học theo định hướng đổi mới căn bản và
toàn diện
1.2.1.
Quy trình tổ chức dạy học
1.2.2.Định hướng đổi mới căn bản và toàn diện trong giáo dục
1.3. Nhận xét tổng quan về môn Văn trong nhà trường và quy trình tổ
chức dạy học Ngữ Văn
1.1.
1.2.

Chương 2: Về quy trình tổ chức dạy học Ngữ Văn hiện hành
2.1.

2.2.
2.3.
2.4.

Mục tiêu của môn học
Kết cấu nội dung chương trình môn Ngữ Văn
Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học Ngữ Văn
Cách thức tổ chức kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ Văn

Chương 3: Quy trình tổ chức dạy học Ngữ Văn theo hướng đổi mới căn bản
và toàn diện nền giáo dục
3.1.
3.2.
3.3.
3.4.
3.5.

Mục tiêu của môn học
Kết cấu nội dung chương trình môn Ngữ Văn hiện nay
Tổ chức thực hiện dạy học Ngữ Văn
Cách thức tổ chức kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ Văn
So sánh các chương trình dạy học và cách tổ chức dạy học Ngữ
Văn hiện hành và đổi mới
2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MÔN VĂN TRONG NHÀ
TRƯỜNG VÀ QUY TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN
3



Tổng quan về môn Văn trong nhà trường
Môn Văn trong nhà trường đã trải qua nhiều lần đổi tên, từ Văn tuyển, Trích
giảng văn học, Văn và bây giờ là Ngữ Văn. Mỗi tên gọi giúp chúng ta ý thức rõ hơn
nội hàm của nó, cái tên “Ngữ Văn” đã giúp cho người dạy và người học có điều
kiện để đi sâu hơn vào bản chất đặc thù của bộ môn. Văn học được coi là trò diễn
của ngôn từ, thứ ngôn từ đặc biệt này được cô đúc và gọt giũa từ hiện thực, vì thế
mà nó luôn hàm chứa tính hình tượng, theo Maiacopxki từng nói:
“Hãy luyện đến hàng ngàn quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi.”
Nhưng trong việc giảng dạy Ngữ Văn hiện nay, không ít người dạy Văn không tập
trung gợi cho HS hiểu như thế nào là tính hình tượng, mà chỉ tập trung vào giảng
“ý” của tác phẩm – HS không cần học thuộc thơ, chỉ cần học “ý”. Hiệu quả một giờ
học cuối cùng là có ý, đủ ý là được; kiểm tra, thi và chấm điểm theo “ý”. Phải chăng
thực tế cho thấy môn Văn dần mất đi tính nghệ thuật vốn có, chức năng thẩm mĩ của
văn học cũng phai dần đi. Hơn nữa, chức năng giáo dục, nhận thức cũng vì thế mà
thu hẹp dần.
Đặc trưng của môn học Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn.
Các đặc trưng này thể hiện qua những mục tiêu cơ bản của nó và cách tiếp cận
những mục tiêu đó. Môn Ngữ Văn giúp HS phát triển các năng lực và phẩm chất
tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ
thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp
tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là
những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy
đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong
tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp
HS phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục
tình cảm và nhân cách cho người học. Môn Ngữ văn ở trường phổ thông không
được dạy học như một bộ môn khoa học nhằm trang bị cho HS hệ thống các khái

niệm khoa học. Tất cả các năng lực và phẩm chất trên đây đều được phát triển thông
qua các hoạt động dạy học, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói
và nghe. Các kiến thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn học, lí luận văn học và tập
làm văn chủ yếu được dùng như là phương tiện tiến hành các hoạt động dạy học đó.
1.2. Quy trình tổ chức dạy học Ngữ Văn theo hướng đổi mới căn bản và
toàn diện
1.2.1.Quy trình tổ chức dạy học
1.1.

4


Quy trình tổ chức dạy học đó là quá trình phản ánh các bước thực hiện phục
vụ cho việc dạy học, trong đó phải kể đến xác định mục tiêu chiến lược, biên soạn
chuẩn bị SGK – các tài liệu có liên quan, xây dựng, định hướng nội dung khung
chương trình từ chương trình tổng thể đến chương trình cụ thể từng môn học,
phương pháp tổ chức thực hiện và tổ chức đánh giá kiểm tra. Quy trình tổ chức dạy
học luôn có sự đổi mới để phù hợp với thực tiễn giáo dục, chính sự đổi mới đó
quyết định đến hiệu quả giáo dục mà vai trò cốt lõi là hình thành nên những người
học có tri thức, có năng lực.
1.2.2.Định hướng đổi mới căn bản và toàn diện trong dạy học Ngữ Văn
Trong thời đại “bùng nổ thông tin” như hiện nay, đã đưa đến khó khăn sau
cho giáo dục nói chung và tổ chức dạy học nói riêng: số năm học không tăng mà
kiến thức nhân loại thì tăng lên vùn vụt. Do vậy, phải tìm ra được cái “bất biến” để
ứng với cái “vạn biến” của kiến thức. Có lẽ thế mà tổ chức dạy học theo hướng đổi
mới căn bản và toàn diện là vấn đề thiết yếu được đặt ra với nền giáo dục Việt Nam
hiện nay. Và phương pháp mang quy luật thời đại: “Học là học cách học, dạy là dạy
cách học” có phù hợp với thực tiễn giáo dục Việt Nam và tổ chức dạy học Ngữ Văn
hay không?
Hướng đổi mới căn bản và toàn diện thông qua nghị quyết số 88/2014/QH13,

đã đưa ra mục tiêu: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông
nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ
thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển
nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả
về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng
của mỗi học sinh.” Có thể thấy rằng, mục tiêu này theo hướng phát triển căn bản
kiến thức, toàn diện năng lực – phẩm chất ở mỗi học sinh.
Tiếp tục, hướng đổi mới căn bản và toàn diện, dựa theo tuyên bố của Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc: “Học để biết – Học để làm –
Học để chung sống – Học để tự khẳng định mình”, giáo dục Việt Nam đổi mới
nhằm góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả giáo dục
và phát triển con người Việt Nam toàn diện về Đức, Trí, Thể, Mỹ, hướng tới “công
dân toàn cầu”.
Dựa trên chương trình tổng thể, có thể thấy chương trình và phương pháp tổ
chức dạy học Ngữ Văn có lẽ cũng được thay đổi để phù hợp với mục tiêu phát triển
theo hướng đổi mới căn bản và toàn diện. Chẳng hạn: chuyển từ tiếp cận kiến thức
sang tiếp cận năng lực – xác định lại mục tiêu môn học – xây dựng chương trình
5


tổng thể với hệ thống chuẩn mới – đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh
giá – triệt để thực hiện dạy học tích cực và phân hóa. Xác định mục tiêu là phát triển
được năng lực và phẩm chất cho học sinh theo từng cấp bậc học, trên đó triển khai
dạy mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt và văn học dựa trên
ngữ liệu là các kiểu loại văn bản và phương thức thể hiện đa dạng . Phương pháp
giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm , cách đánh giá về chất lượng tổ chức dạy học
cũng khác hẳn, thay vì thiên về đánh giá học thuộc kiến thức thì sẽ chú trọng về
đánh giá các năng lực và phẩm chất của học sinh. Để thấy rằng học sinh không chỉ
là người tiếp thu kiến thức nhân loại mà còn là người với đầy đủ các năng lực, phẩm
chất cần thiết để sánh vai cùng bạn bè thế giới.

Đổi mới sách giáo khoa, khung chương trình và tiếp cận các phương pháp
dạy học hiện đại, có lẽ giáo dục Việt Nam hướng đến “Tự do sư phạm” và môn Ngữ
Văn hướng đến “Tự do lựa chọn tác phẩm là nhu cầu cơ bản cho việc dạy học văn
chương nhà trường”. Chương trình đổi mới, định hướng nội dung môn Ngữ Văn
phân thành hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định
hướng nghề nghiệp. Tất cả hướng đến nhằm khơi gợi niềm hứng thú, lòng say mê
với nghề của giáo viên, đồng thời học sinh cũng trở thành những chủ thể đầy chủ
động, tự tin và sáng tạo.
1.3. Nhận xét tổng quan về môn Văn trong nhà trường và quy trình tổ
chức dạy học Ngữ Văn
Bên cạnh mục đích mở rộng vốn từ, thì kích thích để cái đẹp trong văn học
nghệ thuật được phát triển và sinh sôi nảy nở trong tâm hồn học sinh, để đi đến “sự
nổ vỡ lặng im” trong tâm hồn các em theo xu hướng của một nền giáo dục đó là
mục đích chính của dạy – học văn. Nhưng hướng dạy học Ngữ Văn hiện nay chưa
khơi được cảm xúc ở người học, có thể vì thế mà thực sự không có nhiều học sinh
yêu thích Ngữ Văn. Với tư cách một môn giàu nghệ thuật thì tổ chức dạy học Ngữ
Văn phải có cảm xúc, vì theo Lenin: “Không có cảm xúc thì không và không bao
giờ con người có khát vọng đi tìm chân lý”.
Đổi mới trong quy trình tổ chức dạy học nói chung và tổ chức dạy học Ngữ
Văn là vấn đề then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay. Vì thế
giới đã chuyển sang thời kì kinh tế tri thức, cho nên đầu tư vào chất xám sẽ là cách
đầu tư hiệu quả nhất cho sự hưng thịnh của mỗi quốc gia. Điều đó với Việt Nam
càng quan trọng hơn, bởi sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, đạt được những thành tựu to lớn, nước ta đã thoát ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
6


Vấn đề cốt lõi đặt ra ở đây là: Làm thế nào để chúng ta phát triển, tiếp tục phát triển
nhưng vẫn giữ được những giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc? Thế hệ trẻ có

thể thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm qua chương trình và phương pháp đổi mới
dạy học.
Chẳng hạn, chương trình giáo dục phổ thông định hướng hình thành và phát triển
cho học sinh những phẩm chất chủ yếu như yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực,
trách nhiệm, thì vai trò của môn Ngữ Văn khá quan trọng trong thực hiện vấn đề
này. Như trên đã nói, quy trình tổ chức dạy học môn Ngữ Văn dường như thay đổi
để phù hợp với thực tiễn giáo dục nước nhà, hiện tại việc đổi mới chương trình và
sách giáo khoa đang gấp rút thực hiện để đưa vào thực tiễn.

CHƯƠNG 2: VỀ QUY TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN
HIỆN HÀNH
Mục tiêu của môn học
Bộ môn Ngữ văn có vai trò vô cùng quan trọng trong chương trình đào tạo và
giáo dục từ xưa đến nay bởi nó là một môn học mang tính nhân văn. Trong nhà
trường phổ thông, môn Ngữ văn không được dạy như một bộ môn khoa học nhằm
cung cấp hệ thống tri thức khoa học mà chỉ cốt phát triển toàn diện năng lực của
người học, qua đó giáo dục tình cảm và nhân cách cho học sinh. Ở bất kì quốc gia
nào thì nó vẫn luôn có chỗ đứng, tuy nhiên mục tiêu của bộ môn này là không giống
2.1.

7


nhau ở mỗi quốc gia và mỗi thời đại. Đối với nước ta, xác định đúng mục tiêu của
môn Ngữ văn là giúp cho các nhà giáo dục tháo gỡ được những khó khăn trong quá
trình hành nghề của mình, đồng thời giúp môn Ngữ văn bắt kịp với thời đại, hòa
mình vào công cuộc hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Chương trình Ngữ văn hiện hành nêu lên ba mục tiêu. Một là trang bị những
kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học mà
trọng tâm vẫn là tiếng Việt và văn học Việt Nam sao cho phù hợp với trình độ phát

triển của lứa tuổi, với yêu câu đào tạo nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước. Hai là hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng
tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp học tập tư duy, đặc
biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những gì đã học vào thực tiễn. Ba là
bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình,
thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân,
tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa
của dân tộc và nhân loại. Từ ba mục tiêu này, ta có thể thấy được ba yêu cầu tiên
quyết khi hình thành cấu trúc chương trình môn Ngữ văn, đó là kiến thức, năng lực
và thái độ. “Đây chính là cấu trúc “kinh điển” của mục tiêu giáo dục trong nhà
trường phổ thông từ trước đến nay” (Đỗ Ngọc Thống). Nhưng đó chỉ là mục tiêu
chung của môn học. Cụ thể hơn ta sẽ thấy ở từng cấp học, từng phân môn, từng tiết
học và từng bài học sẽ có những mục tiêu dạy học được cụ thể hóa. Mục tiêu môn
Ngữ văn ở cấp Trung học cơ sở (THCS) sẽ khác với cấp Trung học phổ thông
(THPT). Mục tiêu của phân môn Văn học trung đại sẽ khác với phân môn Văn học
hiện đại. Dạy tiếng Việt sẽ khác với dạy làm văn và cũng một tác giả, chẳng hạn
như Xuân Diệu, nhưng mục tiêu bài học của “Vội vàng” sẽ khác với “Đây mùa thu
tới” và còn khác hơn nữa với “Thơ duyên”.
Tuy nhiên, quan điểm dạy học Ngữ văn thường không có sự thống nhất cao
giữa các thời kỳ, giữa các tác giả soạn sách giáo khoa, các cấp học, vùng miền, giữa
các cấp lãnh đạo chuyên môn và các giáo viên trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra còn
phải tính đến sự khác nhau rất lớn giữa “nói” và “làm”, lý thuyết và thực tiễn. Nhìn
vào chương trình sách giáo khoa, giáo án và qua phát biểu chỉ đạo của các nhà làm
giáo dục, người ta thấy việc dạy và học Ngữ văn ngày nay có vẻ rất “đổi mới”, rất
“hiện đại” nhưng kỳ thực, lối dạy thì đã quá cũ và không còn đáp ứng được những
yêu cầu chung của thời đại.
2.2. Kết cấu nội dung chương trình môn Ngữ Văn
8



Theo những nhà làm giáo dục ở ta thì kết cấu chương trình Ngữ văn hiện
hành đang được thực hiện theo “nguyên tắc tích hợp”. Ở cấpTiểu học thì tập trung
chủ yếu vào phần tiếng Việt, ở hai cấp là THCS và THPT thì chương trình có cấu
trúc gồm ba phần: Tiếng Việt, Làm văn và Văn học. Mỗi phần có các nội dung riêng
với hệ thống phân môn khá độc lập.
Ở cấp Tiểu học, nội dung chương trình được xây dựng dựa theo nguyên tắc
tích hợp. Theo quy tắc tích hợp dọc (đồng tâm), chương trình được bố trí thành hai
vòng. Vòng 1 (gồm các lớp 1,2,3) tập trung hình thành ở học sinh các kĩ năng đọc –
viết, phát triển các kĩ năng nghe – nới với những yêu càu cơ bản như đọc thông,
hiểu đúng nội dung một văn bản ngắn; viết rõ ràng và đúng chính tả; thông qua các
bài tập thực hành, bước đầu có một số kiến thức sơ giản về từ, câu, đoạn văn và văn
bản. Vòng 2 (gồm các lớp 4,5) cung cấp cho học sinh một số kiến thức về tiếng Việt
để pát triển các kĩ năng như đọc – viết – nghe – nói ở mức cao hơn so với những
yêu cầu cơ bản như: hiểu đúng nội dung văn bản và bước đầu biết đọc diễn cảm một
văn bản ngắn, biết cách tạo lập một số kiểu văn bản và biết phát biểu về một số đề
tài quen thuộc. Còn theo quy tắc tích hợp ngang (đồng quy), chương trình cụ thể ở
mỗi lớp đều thể hiện sự phối hợp giữa các mảng kiến thức tiếng Việt, Văn học, Văn
hóa và Đời sống; giữa kiến thức và kĩ năng; giữa các kĩ năng đọc – viết - nghe – nói.
Các kiến thức và kĩ năng được cung cấp, rèn luyện dưới hình thức các loại bài học
như Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Tập làm văn, Kể chuyện, Luyện từ và câu,… và
được liên kết với nhau qua hệ thống chủ điểm học tập.
Ở cấp THCS, môn Ngữ văn có mục tiêu là hoàn thiện kiến thức cơ sở về từ
vựng, ngữ pháp tiếng Việt; cung cấp kiến thức về văn bản văn học, lí luận văn học;
hình thành ở học sinh năng lực tiếp nhận và tạo lập các kiểu văn bản tự sự, miêu tả,
biểu cảm, lập luận, thuyết minh và hành chính – công vụ. Chương trình THCS cũng
được tiếp tục xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Theo yêu cầu tích hợp dọc,
chương trình được chia thành hai vòng. Vòng 1 (bao gồm lớp 6,7) và vòng 2 (bao
gồm lớp 8,9). Một số kiểu văn bản đã học ở vòng 1 sẽ được tiếp tục học ở vòng 2
với yêu cầu cao hơn. Yêu cầu đọc – hiểu văn bản và tạo lập văn bản ở vòng 2 cũng

cao hơn so với vòng 1. Theo yêu cầu tích hợp ngang, chương trình sẽ lấy các kiểu
văn bản đọc làm trục chính để liên kết nội dung học tập ở cả ba phần là Tiếng Việt,
Văn học và Làm văn. Chẳng hạn như ta lấy “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao được
học trong chương trình Ngữ văn 8 làm ví dụ. Khi sử dụng văn bản “Lão Hạc”, giáo
viên sẽ có thể liên kết được nội dung của cả ba phần. Học sinh nắm được nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm là trọng tâm của phần Văn học, từ văn bản đó tìm các
9


tình thái từ chẳng hạn thì đó lại là kiến thức của phần Tiếng Việt và khi làm một bài
viết với đề bài “Em hãy tưởng tượng cuộc sống của anh con trai lão Hạc sau khi từ
đồn điền cao su trở về” thì đó lại là kiến thức của phần Làm văn.
Ở cấp THPT, chương trình chủ yếu tập trung vào việc nâng cao năng lực đọc
hiểu văn bản và làm văn, cung cấp một số tri thức phổ thông về lí luận và lịch sử
văn học; trang bị một số kiến thức về nguồn gốc và loại hình tiếng Việt, về giao tiếp
và phong cách học. Chương trình môn Ngữ văn ở cấp này được xây dựng dựa theo
nguyên tắc tích hợp trên hai trục đọc văn và làm văn. Trong trục đọc văn có sự tích
hợp giữa tri thức lí luận văn học với tri thức lịch sử văn học và văn hóa dân tộc.
Trong trục làm văn có sự tích hợp kĩ năng tạo lập văn bản với kĩ năng tư duy (quan
sát, phân tích, liên tưởng, so sánh, tổng hợp,…) và các tri thức đời sống. Trong phần
Văn học, các văn bản dùng để đọc văn sẽ được sắp xếp theo tiến trình lịch sử văn
học. Trong từng giai đoạn, các văn bản này lại được sắp xếp theo cụm thể loại như
truyện, thơ, kí, phú, ngâm khúc, văn tế, kịch, nghị luận,… . Phần Tiếng Việt được
bố trí thành cụm ba nội dung: các phong cách ngôn ngữ, hoạt động giao tiếp và
những vấn đề chung về tiếng Việt. Ở phần Làm văn, kiến thức về kiểu văn bản và
phương thức biểu đạt ở cấp THCS sẽ không lặp lại nữa mà các kiến thức sẽ tạp
trung vào việc tìm ý, lập dàn ý, phép suy luận, cách tạp lập đoạn văn và văn bản. Về
kĩ năng tạo lập văn bản thì chương trình ở cấp THPT chú trọng kiểu viết bài nghị
luận (gồm cả nghị luận xã hội và nghị luận văn học).
Nhìn chung, cấu trúc của chương trình và nhất là sách giáo khoa Ngữ văn

hiện hành vẫn chủ yếu lấy trục nội dung (Tiểu học thì theo hệ thống chủ đề, còn
Trung học thì lấy lịch sử văn học). Có nhiều văn bản đọc hiểu chưa được chọn lọc,
thiếu tính hấp dẫn.
2.3. Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học Ngữ Văn
Bên cạnh nhiệm vụ phát triển năng lực tạo lập văn bản cho học sinh thì môn
Ngữ văn hiện hành còn chú ý đến nhiệm vụ phát triển năng lực đọc văn và chú
trọng đặc biệt đến năng lực tiếp nhận văn bản. Những nhiệm vụ này đòi hỏi môn
Ngữ văn cần áp dụng những phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đặc thù. Từ
sau năm 2000, chương trình Ngữ văn ở ta đã có một bước tiến quan trọng là chuyển
từ phương pháp giảng văn sang phương pháp đọc hiểu văn bản. Theo định hướng
này thì dạy văn thực chất là dạy cho học sinh cách khám phá, giải mã văn bản tác
phẩm, từ đó hình thành năng lực tự học, tự tiếp nhận văn học nói riêng và văn bản
nói chung.

10


Tuy nhiên, có một thực tế là việc tiếp nhận văn học của học sinh phổ thông
hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Các em vẫn còn là những người trẻ còn ngồi
trên ghế nhà trường, vốn sống và vốn hiểu biết chưa sâu nên khi tiếp nhận một văn
bản văn học, nơi chứa đựng sự từng trải, vốn sống, sự hiểu biết có khi là cả cuộc đời
của một nhà văn, nhà thơ và có khi là của cả cộng đồng. Ngôn ngữ ở đây không chỉ
nói tiếng Việt hiện đại tại thời điểm các em đang sống mà các bạn học sinh còn tiếp
xúc với những văn bản có từ cổ, có điển cố văn học, những từ mang nghĩa bóng,
những hình ảnh ẩn dụ,…mà bắt buộc người học phải có khả năng suy luận, liên
tưởng thì mới hiểu được chủ đề, tư tưởng mà nhà văn nhà thơ muốn truyền tải.
Không chỉ gặp khó khăn về ngôn ngữ mà khi tiến hành hoạt động tiếp nhận văn học,
các em còn gặp phải sự khác biệt về quan niệm văn học, quan niệm thẩm mĩ của con
người thời xưa thể hiện trong tác phẩm nếu học sinh tiếp xúc với các tác phẩm văn
học trung đại hay sự khác biệt về lối sống, phong tục tập quán, cách đánh giá các

giá trị trong xã hội, đánh giá con người, cách phản ứng với các hiện tượng xã hội,…
Những trở ngại trên chỉ được hóa giải khi và chỉ khi các em tìm thấy trong tác phẩm
mối liên hệ gần gũi với những vấn đề của chính bản thân và với thế giới mà các em
đang sống. Vậy nên trong quá trình đọc, người học phải kết nối một cách tích cực
giữa thế giới trong tác phẩm với những kinh nghiệm của cá nhân.
Thế thì trong quá trình này, người giáo viên sẽ có vai trò như thế nào ? Dù
hiện tại cũng đã có người áp dụng những phương pháp dạy học tích cực vào giảng
dạy môn Ngữ văn như phương pháp khăn trải bàn, phương pháp hoạt động nhóm,
phương pháp động não,…(số đó rất ít) nhưng hầu hết những giáo viên giảng dạy đã
lành nghề thì họ vẫn dùng phương pháp dạy học truyền thống để dạy, nghĩa là người
thầy vẫn là người rao giảng, truyền đạt kiến thức. Những khó khăn mà các em học
sinh gặp đây chúng tôi tin rằng trong tương lai vẫn vướng phải, chỉ là tăng hay giảm
bớt mà thôi. Một mình học sinh không thể tiếp nhận văn bản tác phẩm thành công
được mà chúng cần có sự giúp đỡ từ phía thầy cô của mình. Trong chương trình
hiện hành, người giáo viên sẽ giải quyết khó khăn của học trò bằng cách cung cấp
những thông tin cơ bản về tác giả hoặc những sự kiện lịch sử xã hội liên quan đến
tác phẩm, hoàn cảnh lịch sử khi tác phẩm ra đời, những đặc điểm tư tưởng, quan
điểm của tác giả khi viết tác phẩm. Họ còn giải nghĩa từ cổ, từ khó hoặc hướng dẫn
HS suy luận ý nghĩa của từ dựa vào ngữ cảnh cụ thể, rút ra chủ đề của tác phẩm dựa
vào các chi tiết được miêu tả, thái độ tác giả khi tường thuật lại sự kiện, giọng điệu
tác phẩm bằng cách xây dựng câu hỏi, giải nghĩa từ, phân tích cấu trúc ngữ pháp
11


của câu, các thủ thuật đảo ngữ, điệp ngữ...và còn có thể giúp học sinh liên tưởng,
tưởng tượng để hiểu rõ hơn cảnh vật, tính cách nhân vật được miêu tả bằng cách:
đọc diễn cảm tác phẩm, mô tả lại ngôn ngữ, hành động của từng nhân vật bằng
giọng đọc ( phân tích bằng giọng đọc), yêu cầu HS đặt mình vào vị trí của nhân vật
và hình dung thái độ, cách phản ứng trước các sự kiện, gắn kinh nghiệm cá nhân HS
với nội dung tác phẩm. Có thể thấy, với chương trình Ngữ văn hiện nay thì vai trò

trung tâm của những người “gõ đầu trẻ” vẫn là rất lớn và quyết định nhiều đến quá
trình tiếp nhận văn bản văn học của học sinh.
Trong chương trình môn Ngữ văn hiện nay, giáo viên đã sử dụng rất nhiều
những phương pháp dạy hoc khác nhau nhằm để giờ học đạt được hiệu quả cao
nhất. Việc sử dụng phương pháp nào trong quá trình dạy học chịu sự chi phối của
những yếu tố sau: Nội dung bài học, vị trí của bài học trong chương trình, lượng
thời gian cho phép, trình độ học sinh, mục đích cần đạt được của bài học. Ðây là
những yếu tố mà người giáo viên cần cân nhắc kĩ khi soạn bài. Các phương pháp đó
là:
-

-

Phương pháp đọc tác phẩm.
Đây là phương pháp cổ điển nhất nhưng cũng là phương pháp hiện nay được
nhiều giáo viên áp dụng và đạt hiệu quả cao. Bởi lẽ đọc là phương pháp có tính đặc
thù của giờ giảng văn. Việc tiếp nhận tác phẩm phải bắt buộc được bắt đầu từ việc
đọc: đọc thành tiếng và không thành tiếng. Đó là lí do vì sao mà trong một môn học
đặc biệt như môn Ngữ văn thì phương pháp dạy học trực quan được sử dụng rất hạn
chế. Cùng là bộ môn thuộc khoa học xã hội nhưng Ngữ văn khác Lịch sử, Địa Lí.
Đó là thế giới bên trong tác phẩm và thế giới ấy sẽ được tái hiện lại tùy vào cảm thụ
thẩm mĩ, sự liên tưởng, tưởng tượng của người đọc chứ không phải là được cụ thể
hóa ở bất kì một hình ảnh, tranh vẽ hay một thước phim nào. Ngôn ngữ văn học là
loại ngôn ngữ hết sức đặc biệt, nó đòi hỏi sự chính xác rất cao, có tính hàm súc, rất
đa nghĩa chứ không đơn trị, có tính biểu cảm và tính tạo hình. Bằng ngôn ngữ, nhà
văn nhà thơ có thể tác động trực tiếp đến tri giác của người đọc, làm cho học cảm
giác được nhân vật và thế giới bên trong tác phẩm – thế giới thứ hai một cách vật
chất nhất.
Phương pháp diễn giảng.
Diễn giảng là phương pháp trình bày, thông báo vấn đề cho học sinh, học sinh

sẽ tiếp thu những kiến thức đó và sau đó tái hiện lại chúng. Phương pháp từ xưa đến
giờ nên giáo dục của ta vẫn làm, không chỉ riêng môn Ngữ văn mà còn dùng cho
12


những môn khác. Ưu điểm của nó là giúp học sinh nhanh chóng nắm bắt hay có
được tri thức vì người giáo viên sẽ làm nhiệm vụ là nghiệm thu kiến thức và giảng
giải lại cho các em.Tuy nhiên, những ưu điểm của phương pháp này chỉ có lợi cho
giáo viên, người trực tiếp tham gia giảng dạy, còn đối với học sinh thì lại là bất lợi
và đó cũng là nhược điểm của phương pháp này. Học sinh sẽ thụ động, không phát
huy được tính tích cực trong học tập. Trong tiến trình đó, học sinh dễ trở thành
những người đến lớp để “dự giờ” vì có nhiều em chỉ ngồi để nghe và não thì không
vận động để tư duy. Các em có thể hiểu bài nhưng chắc chắn là không thể nhớ lâu,
nhớ kĩ kiến thức.
Phương pháp đàm thoại (vấn đáp).
Đàm thoại là phương pháp mà giáo viên sẽ xây dựng hệ thống những câu hỏi
cho học sinh trả lời, trao đổi và ở mức cao hơn là sẽ tranh luận với nhau dưới sự chỉ
đạo, hướng dẫn của giáo viên, qua đó tiếp nhận tri thức. Phương pháp này rất thích
hợp sử dụng, nhất là trọng những điều kiện như thiếu phương tiện, đồ dùng dạy học.
Câu hỏi thảo luận vào lúc này là cách tiện lợi nhất để kích thích học tập một cách
tích cực.
Đặc điểm của hình tượng văn học là có tính biểu tượng, ngôn ngữ mang tính
hàm ẩn cho nên việc cảm thụ tác phẩm là không hề dễ dàng. Vì thế, câu hỏi của giáo
viên phải hướng được sự chú ý của học sinh vào những chi tiết, hình ảnh, từ ngữ
tiêu biểu, từ đó giúp các em nắm được nội dung tác phẩm. Có ba loại hình câu hỏi
hay được các giáo viên sử dụng: (1) Câu hỏi tái hiện, (2) Câu hỏi yêu cầu giải
thích/phân tích/suy luận và (3) Câu hỏi khái quát.
2.4. Cách thức tổ chức kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ Văn
Với chương trình Ngữ văn hiện hành, công tác kiểm tra, đánh giá đã có nhiều
chuyển biến tích cực, chẳng hạn như định hướng ra đề mở, tăng cường nghị luận xã

hội, kết hợp hình thức trắc nghiệm với tự luận. Kiểm tra và đánh giá là hai khâu
quan trọng trong một quy trình thống nhất nhằm xác định kết quả thực hiện mục
tiêu dạy học. Có hai cách tiến hành đánh giá kết quả học tập Ngữ văn của học sinh:
(1) là đánh giá thường xuyên, được thực hiện trong từng bài học, từng chương hoặc
từng phần và (2) là đánh giá định kì, được thực hiện vào giữa học kì, cuối học kì,
cuối năm học hoặc cuối cấp học. Đánh giá kết quả học tập thực chất xem xét mức
độ đạt được của hoạt động học của học sinh so với mục tiêu đề ra đối với từng môn
học, từng lớp học, cấp học. Mục tiêu của mỗi môn học được cụ thể hoá thành các
chuẩn kiến thức, kĩ năng. Từ các chuẩn này, khi tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả

13


học tập môn học cần phải thiết kế thành những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ
cả về định tính và định lượng kết quả học tập của học sinh.
Chương trình dạy học hiện nay được xem là chương trình giáo dục “định
hướng nội dung”, tức là việc dạy học thiên về cung cấp và trang bị kiến thức cho
người học là chính. Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục định hướng nội
dung là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã
được quy định trong chương trình giáo dục của môn học. Những nội dung của các
môn học này dựa trên thành tựu của các khoa học chuyên ngành tương ứng. Kết quả
học tập của học sinh qua mỗi cấp, mỗi lớp, mỗi môn học là mức độ tiếp thu được
bao nhiêu kiến thức theo yêu cầu cần đạt. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói thì việc
kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn hiện hành đang có rất nhiều vấn đề. Vấn đề
lớn nhất có lẽ là chưa có hình thức nào có thể đánh giá đúng được sự vận dụng kiến
thức một cách sáng tạo. Đề thi môn Ngữ văn hiện nay chủ yếu vẫn là đề kiểm tra
kiến thức, kiểm tra trí nhớ, sự tái hiện, làm theo và chép lại. Học sinh học tác phẩm
nào thì vào thi đúng tác phẩm đó, chỉ kiểm tra đúng những gì giáo viên đã dạy, trừ
một số đề nghị luận xã hội, còn lại thì dường như không có chỗ cho sự sáng tạo dù
đó mới là điều nên có trong môn Ngữ văn, cả đáp án đề thi môn này đã là một sự

hạn chế sáng tạo rồi. Những sự đổi mới chỉ có thể trông chờ vào tương lai. Cần phải
khuyến khích hơn nữa khả năng sáng tạo của học sinh bởi với lứa tuổi này thì nó là
vô hạn, đôi lúc còn khiến ta bất ngờ, phát triển cho các em khả năng vận dụng kiến
thức đã học, cả nội dung lẫn phương pháp để giải quyết một nhiệm vụ tương tự,
trong một tình huống mới.
CHƯƠNG 3: VỀ QUY TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN ĐỔI MỚI
CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN
3.1. Mục tiêu của môn học:
Cải cách căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà bao gồm khẳng định lại
triết lí giáo dục, để từ đó, xây dựng một khung chương trình cho từng môn học hầu
đáp ứng nhu cầu người học trong khung cảnh mới của đời sống đất nước từng bước
hội nhập quốc tế. Theo như trên đã trình bày, chương trình Ngữ văn hiện hành coi
trọng và đặt chuẩn kiến thức lên hàng đầu. Trong Chương trình giáo dục phổ thông
cấp Trung học phổ thông, môn Ngữ văn (2006) nêu rõ một trong ba mục tiêu của
môn Ngữ văn là “nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực ngữ văn
với yêu cầu cao hơn cấp Trung học cơ sở, bao gồm: năng lực sử dụng tiếng Việt thể
14


hiện ở bốn kĩ năng cơ bản (đọc, viết, nghe, nói), năng lực tiếp nhận văn học, cảm
thụ thẩm mĩ; năng lực tự học và năng lực thực hành, ứng dụng” (BGD&ĐT, 2006).
So với mục tiêu trên của chương trình hiện hành, vấn đề năng lực người học ngữ
văn và phát triển chương trình theo quan điểm định hướng năng lực người học ngữ
văn trong những năm tới nên có cách hiểu rộng hơn.
Theo nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam : “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được Hội Nghị Trung Ương tháng 8 (khóa XI) thông
qua thì mục tiêu giáo dục theo hướng đổi mới sẽ hoàn toàn khác với mục tiêu dạy
học hiện hành, khi mà mục tiêu giáo dục – đầu ra – năng lực người học được xác

định trước như những đích cụ thể phải được hình thành ở học sinh qua từng tiết học
chứ không chỉ là kiến thức. Và đây chính là mục tiêu mới của nền giáo dục toàn cầu
hiện nay đang muốn triển khai: Tiếp cận dựa trên năng lực người học (competency
based approach) hay còn gọi là giáo dục dựa trên đầu ra (outcomes based/ outcomes
focused education). Giáo dục dựa trên đầu ra có thể được coi như là một lí thuyết
hay triết lí giáo dục (Killen, 2000). Nó bao gồm một đồng bộ các niềm tin và giả
định về hoạt động dạy và học, về cấu trúc hệ thống bên trong các hoạt động giáo
dục đang diễn ra.
Bên cạnh xây dựng theo định hướng nội dung, thì mục tiêu đổi mới đặc biệt
chú trọng xây dựng chương trình theo định hướng năng lực là định ra khung năng
lực và hoạt động để làm nảy sinh ở người học nhu cầu khám phá thế giới, khám phá
năng lực của bản thân để phát triển. Đây là kiểu chương trình xác định đầu ra, việc
xác định năng lực đầu ra, tức là lập ra danh sách những năng lực cần hình thành.
Xây dựng chương trình theo định hướng năng lực là sự tích hợp của nhiều thành tố
tri thức, kĩ năng, sự sẵn sàng hoạt động, khả năng hợp tác, khả năng huy động
những nguồn thông tin mới của học sinh để giải quyết những vấn đề đặt ra trong
cuộc sống. Và năng lực này sẽ được hình thành trong quá trình tổ chức học tập, tiếp
cận những vấn đề liên quan. Có hai nội dung năng lực cần bồi dưỡng cho học sinh
khi học môn Ngữ văn đó là năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ. Năng lực thẩm
mĩ ở đây là biết khám phá và biết thưởng thức hay đánh giá cái đẹp. Còn năng lực
ngôn ngữ cũng là năng lực giao tiếp, nghĩa là khả năng làm chủ ngôn ngữ mẹ đẻ tiếng Việt trong khi nói, khi viết và đặc biệt là vận dụng nó để đọc hiểu, phân tích
tác phẩm văn học. Năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ không tách rời nhau mà
15


có mối quan hệ gắn bó. Mối quan hệ đó giống như cặp đôi ngựa cùng song hành để
kéo cỗ xe song mã – Ngữ văn chạy về tới đích: phát triển tốt nhất hai năng lực đó
cho người học.
Tóm lại, mục tiêu dạy ngữ văn theo hướng đổi mới căn bản và toàn diện là
học “biết để làm”. Dạy học ngữ văn là dạy học về đời sống, về mọi người và về

chính bản thân mình. Ngữ văn giúp người học trải nghiệm cuộc sống, giúp họ
trưởng thành hơn mà không phải trải qua trường đời. Qua thế giới tác phẩm, giáo
viên gợi được cho học sinh những dư vị của cuộc đời, giúp HS biết được thiện ác,
đẹp xấu. Môn Ngữ Văn còn hướng đến phân hóa sâu sắc cá tính người học, HS biết
đưa ra cách hiểu về điều mình nhận thức được, để rồi có thể dùng lý lẽ để bảo vệ ý
kiến. HS trở thành những chủ thể đầy chủ động. Theo đó, môn ngữ văn theo định
hướng mới không chỉ là vừa dạy chữ (ngôn ngữ) mà còn dạy làm người (văn
chương), không chỉ cung cấp những kiến thức nhân loại nó còn là một “công cụ”
đắc lực để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học ứng dụng
vào trong cuộc sống và công việc. Và mục tiêu dạy học ngữ văn của các nhà giáo
dục tương lai vạch ra chỉ đạt được hiệu quả, thành công khi mà người học hứng thú
và thấy được lợi ích thiết thực của môn học này.
3.2. Kết cấu chương trình Ngữ văn trong tương lai:
Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay mới chỉ đưa ra chương trình tổng thể giáo
dục phổ thông vào tháng 7 vừa rồi, còn chương trình cụ thể của từng môn học
trong lộ trình đổi mới sắp tới thì vẫn chưa có. Môn Ngữ văn hiện tại cũng chưa có
nội dung chương trình theo định định hướng đổi mới. Tuy nhiên theo mục tiêu đổi
mới được Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội quy định thì nội dung chương
trình sắp tới: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo
chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết
hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo
dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về
phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng
của mỗi học sinh”. Đổi mới mục tiêu là tiền đề để xây dựng chương trình mới, và
cũng vì thế mà định hướng nội dung dạy học trong tương lai đều hướng đến thực
hiện mục tiêu giáo dục là hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực cho học
sinh. Thông qua các nội dung giáo dục ngôn ngữ và văn học, giáo dục toán học,
giáo dục khoa học xã hội, giáo dục khoa học tự nhiên, giáo dục công nghệ, giáo
16



dục tin học, giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục nghệ
thuật, giáo dục thể chất, giáo dục hướng nghiệp. Mỗi nội dung giáo dục đều được
thực hiện ở tất cả các môn học và hoạt động giáo dục, trong đó có một số môn học
và hoạt động giáo dục đảm nhiệm vai trò cốt lõi. Và các nội dung được thiết kế
đưa vào sách giáo khoa sẽ theo hướng giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành và
ứng dụng vào giải quyết được các vấn đề trong thực tiễn để tạo điều kiện cho các
em học sinh phát triển năng lực chung và năng lực riêng của bản thân.
Riêng đối với nội dung chương trình giáo dục Ngữ văn thì sẽ hướng đến bồi
dưỡng tình cảm, tư tưởng cho thế hệ trẻ. Thông qua những hình tượng nghệ thuật
trong văn học sẽ bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, đặc biệt là
tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực và ý thức trách nhiệm; hình thành,
phát triển cho học sinh các năng lực chung và năng lực chuyên môn như năng lực
ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ, năng lực tìm hiểu xã hội. Chính vì vậy mà nội dung
cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về
tiếng Việt và văn học dựa trên nguồn ngữ liệu là các kiểu loại văn bản và phương
thức thể hiện đa dạng, nhằm hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực của
học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở từng cấp học. Trong chương trình giáo dục
phổ thông, nội dung môn Ngữ văn được phân chia theo hai giai đoạn:
- Giai đoạn giáo dục cơ bản
Môn học có tên là Tiếng Việt ở cấp tiểu học và Ngữ văn ở cấp trung học cơ sở.
Chương trình được thiết kế theo các mạch kỹ năng đọc; viết; nói và nghe. Kiến
thức văn học, giao tiếp và tiếng Việt được tích hợp trong quá trình dạy học đọc,
viết, nói và nghe. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng tiếp
nhận của học sinh ở mỗi cấp học. Kết thúc giai đoạn giáo dục cơ bản, học sinh có
thể đọc, viết, nói và nghe hiểu các loại văn bản phổ biến và thiết yếu, gồm văn bản
văn học, văn bản nghị luận và văn bản thông tin; sử dụng tiếng Việt thành thạo để
giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống hằng ngày và học tập tốt các môn học khác; đồng
thời qua môn học, học sinh được bồi dưỡng và phát triển về tâm hồn và nhân cách.
- Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp

Ở giai đoạn này, chương trình môn học củng cố các mạch nội dung của giai
đoạn giáo dục cơ bản, giúp học sinh nâng cao năng lực giao tiếp, tăng cường năng
lực tiếp nhận và năng lực tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức
tạp hơn về chủ đề và kỹ thuật viết, qua đó phát triển tư duy độc lập, sáng tạo và khả
17


năng lập luận; đồng thời giúp học sinh hiểu sâu hơn về tác phẩm văn học, trang bị
một số kiến thức lịch sử văn học, lý luận văn học có tác dụng thiết thực đối với
việc đọc và viết về văn học
Bên cạnh đó Bộ Giáo dục còn đang muốn triển khai trong tương lai một
chương trình dạy học Ngữ văn theo định hướng năng lực người học. Và chúng tôi
cũng xin đề cập khái quát sơ qua về cách thiết kế khung chương trình môn ngữ văn
theo định hướng năng lực người học như sau:
Về quan điểm biên soạn, chuẩn kiến thức và kĩ năng sẽ dừng lại ở mức chủ
đề, chủ điểm hoặc đường nét lớn về tác giả, tác phẩm. Ngoài ra, dựa trên khung
chương trình với các chuẩn rõ ràng, các tác giả viết sách giáo khoa tùy chọn ngữ
liệu để thể hiện, đáp ứng yêu cầu của chương trình.
Về chương trình môn Ngữ văn THPT, các yêu cầu về phẩm chất và năng lực người
học cần hướng đến và đạt được đòi hỏi rất gắt gao. Chương trình muốn hướng cho
các em học sinh có trong mình những phẩm chất như yêu gia đình, yêu quê hương,
yêu đất nước; nhân ái, khoan dung; tự trọng, trung thực, công tư phân minh; tự lập,
bản lĩnh; có ý thức trách nhiệm công dân. Bên cạnh đó, các năng lực mà các em cần
hình thành chính là năng lực cảm thụ tác phẩm văn học, năng lực sử dụng tiếng mẹ
đẻ, năng lực nhân văn.
3.3. Cách tổ chức thực hiện dạy học môn Ngữ văn:
Một vấn đề trọng tâm nữa luôn được mọi người quan tâm, đó là trong quá
trình dạy và học Ngữ văn, ai sẽ là nhân tố trung tâm: thầy hay trò? Với các nước có
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới thì phương châm “lấy người học làm trung tâm”
đã có từ lâu nhưng ở Việt Nam, khoảng 10 năm trở lại đây mới có vài người chủ

trương theo hướng này nhưng bị sự kháng cự mạnh mẽ của giới giáo chức bảo thủ.
Bởi vậy, giới cải cách phải vội vã chỉnh sửa lại từ ngữ, thay vì nói “lấy học sinh làm
trung tâm” thì phải nói là: “lấy hoạt động học làm trung tâm”. Tuy nhiên cả những
nhà làm giáo dục, giáo viên và học sinh lẫn phụ huynh đều biết rõ rằng nếu muốn
khai phóng năng lực và tư duy cho người học thì chỉ có một con đường duy nhất là
lấy họ làm trung tâm của hoạt động giáo dục. Để làm được điều đó, việc lựa chọn
các phương pháp dạy học, cách thức tổ chức thực hiện giữ vai trò thiết yếu và quan
trọng nhất.
Về các cách thức tổ chức dạy học môn Ngữ văn, trong các giờ học chính
khóa, giáo viên khi đứng lớp vẫn sẽ chú trọng việc truyền tải kiến thức nhưng với
18


một tâm thế người đầu tàu, dẫn dắt gợi mở cho các em học sinh khám phá. chứ
không còn kiểu dạy thao thao bất tuyệt theo kiểu thầy đọc – trò chép nữa. Do vậy
mà giáo viên sẽ tạo điều kiện cho các em học sinh có quyền tương tác , khả năng
làm chủ, nắm bắt lấy tri thức trong giờ học. Bằng những cách như làm việc nhóm và
thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, thuyết trình bài học và chủ tọa
phiên thảo luận, diễn xuất theo yêu cầu bài học, nắm bắt được nghệ thuật hùng
biện,...Để từ đó học sinh được chủ động làm chủ bài học, tích cực nắm bắt bài học
và có thêm niềm hứng thú hơn với môn ngữ văn. Ngoài ra giúp học sinh, học cách
ăn nói sao cho đạt hiệu quả giao tiếp, hình thành thói quen đọc văn độc lập, biết đào
sâu suy nghĩ về các lớp ý nghĩa và có thể tham gia sáng tạo văn bản. Không chỉ đọc,
hiểu mà còn biết nhận xét đánh giá vấn đề và biết cách thực thi văn bản. Còn với
các giờ ngoại khóa, thì giáo viên có thể triển khai cho các em cùng nhau thi sáng tác
làm thơ, làm văn; tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ sách, yêu văn thơ; viết tiểu luận
về đề tài gì đó bất kì,...để khơi gợi các em sự sáng tạo, liên tưởng – tưởng tượng,
cũng như là sự nhanh nhạy khi nắm bắt vấn đề. Để qua đó giúp các em hình thành
cũng như rèn luyện nâng cao hơn kĩ năng của bản thân mình và cũng như muốn tạo
ra cho các em thêm niềm đam mê yêu thích môn học ngữ văn.

Để tổ chức được giờ dạy học như vậy, thì việc lựa chọn các phương pháp dạy
học thích hợp là vô cùng quan trọng. Và trong các giờ hoạt động dạy học nói chung
và môn Ngữ văn trong thời gian sắp tới, các nhà giáo dục sẽ áp dụng các phương
pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức,
hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo ra môi trường học tập thân thiện và những
tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động
học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và
khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được
để phát triển. Các hoạt động học tập lý thuyết đi đôi với thực thành sẽ được triển
khai tối đa, hết mức nhất và cả các hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập
cũng sẽ được thực hiện với sự hỗ trợ của thiết bị dạy học tối thiểu, đồ dùng học tập
và công cụ khác. Đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ
trợ đổi mới phương pháp dạy học, tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận các nguồn tài
liệu mở, khai thác thế giới thông tin phong phú để xây dựng các chủ đề học tập theo
sở thích và phát triển năng lực tự học theo tốc độ, cách học cá nhân.
Một phương pháp dạy học nữa mà hiện nay với thế giới, nó là một trào lưu sư
phạm hiện đại – phương pháp tích hợp. Trào lưu sư phạm tích hợp xuất phát từ quan
niệm về quá trình học tập, trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình
19


thành ở học sinh những năng lực rõ ràng có dự tính những hoạt động tích hợp nhằm
giúp học sinh học cách sử dụng phối hợp các kiến thức và kĩ năng đã được lĩnh hội.
Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT chẳng
những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các
phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu
biết lịch sử xã hội văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần
phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín tách biệt thế giới nhà trường và
thế giới cuộc sống cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ bổ sung cho
nhau tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa những tình huống cụ thể mà HS

sẽ gặp sau này. Nói khác đi đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn” biệt
lập các bộ phận Văn học,Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất
nội dung và kĩ năng. Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là cách
thức để khắc phục hạn chế lối dạy học đó nhằm nâng cao năng lực sử dụng những
kiến thức và kĩ năng mà HS lĩnh hội được bảo đảm cho mỗi HS khả năng huy động
có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống có
ý nghĩa cũng có khi là một tình huống khó khăn bất ngờ một tình huống chưa từng
gặp.
3.4. Cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn:
Theo hướng đổi mới căn bản và toàn diện thì sắp tới, cách kiếm tra và đánh
giá người học trong quá trình giáo dục nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói
riêng sẽ triển khai theo hướng đánh giá năng lực học sinh. Với nhà giáo dục, việc
đánh giá giáo dục sẽ cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ
đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn
hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lý và phát triển chương
trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học theo định
hướng năng lực tập trung vào việc mô tả năng lực đầu ra, có thể coi là sản phẩm
cuối cùng của quá trìnhdạy học. Việc quản lí chất lượng dạy học chuyển từ việc điều
khiển đầu vào sang điều khiển đầu ra – tức là điều khiển kết quả học tập của học
sinh, không chỉ là học sinh học được gì mà quan trọng là học xong thì học sinh có
khả năng làm được gì. Chương trình dạy học theo định hướng năng lực không quy
định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn
(chuẩn đầu ra) của quá trình đào tạo, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung
20


về việc lựa chọn nội dung, phương pháp,cách thức tổ chức và đánh giá kết quả dạy
học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra
theo dự kiến. Trong chương trình giáo dục định hướng năng lực, mục tiêu học tập –

tức kết quả học tập theo mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các
năng lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát,đánh
giá được. Học sinh cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương
trình.Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo việc quản lí chất lượng
giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra.
Và để đánh giá đúng năng lực học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học cần phải
thực hiện đa dạng các phương pháp đánh giá như quan sát, vấn đáp, kiểm tra trên
giấy, trình diễn, dự án học tập, hồ sơ học sinh,...; phối hợp chặt chẽ nhiều hình thức
như đánh giá, chẩn đoán. Sử dụng đa dạng các công cụ đánh giá như câu hỏi phát
vấn, đề kiểm tra, bài luận, bài tập lớn, báo cáo thực hành, dự án học tập, tự đánh
giá,... Và việc tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học
sinh không chỉ trong khoảng hẹp là lớp học (các bài kiểm tra của giáo viên), nhà
trường (kì kiểm tra cuối kì) mà còn phải mở rộng ra ở kì thi chung của quốc gia –
thi Đại học. Đổi mới kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng đánh giá cả
kết quả môn học và kết quả thi, kết quả đánh giá quá trình với đánh giá tổng kết là
công việc cần được tiến hành càng sớm càng tốt.
Tóm lại, để đánh giá được các năng lực Ngữ văn của học sinh, giáo viên cần
có những bộ công cụ phù hợp với mục đích và tính chất của từng bài kiểm tra, kì
thi. Việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên và định kì phải mang tính chất rèn luyện
và thực hành.
3.5. So sánh các chương trình dạy học và cách tổ chức dạy học Ngữ Văn
hiện hành và đổi mới
QUY TRÌNH TỔ CHỨC
DẠY HỌC NGỮ VĂN
HIỆN HÀNH
1. Mục tiêu
dạy học

Chương trình Ngữ văn hiện
hành nêu lên ba mục tiêu và

sẽ được tóm lược đại khái
21

QUY TRÌNH TỔ CHỨC
DẠY HỌC NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI
MỚI
Chương trình Ngữ văn theo
định hướng đổi mới sắp tới
đề cao mục tiêu hình thành và


thành hai ý sau:
(1) cung cấp kiến thức là mục
tiêu số một cho thấy chương
trình tập trung nhấn mạnh
kiến thức chứ không phải kĩ
năng hay năng lực.
(2) các khái niệm như cơ bản
– hiện đại, tính hệ thống về
ngôn ngữ và văn học đã tạo
điều kiện để các tác giả viết
SGK nghiêng về trang bị kiến
thức mang tính hàn lâm và
xây dựng môn Ngữ văn trong
nhà trường tương ứng với
toàn bộ khoa học Ngữ văn.

2. Kết cấu nội
dung chương

trình

Chương trình môn Ngữ văn
hiện hành tiếp cận theo
hướng nội dung. Chương
trình đó chú trọng chạy theo
số lượng tác giả, tác phẩm,
các đơn vị ngôn ngữ tiếng
việt, các kiểu văn bản cần tạo
lập,…

phát triển năng lực Ngữ văn
mà trước hết là năng lực giao
tiếp với việc sử dụng thành
bốn kĩ năng cơ bản: đọc –
viết – nghe – nói. Sau đó mới
là đến các kĩ năng và năng
lực khác.
Việc lựa chọn các kiến thức
tất nhiên là phải đáp ứng yêu
câu cơ bản và hiện đại nhưng
phải hướng tới phục vụ cho
yêu cầu phát triển năng lực,
tránh những thứ không thiết
thực và không quá chú trọng
tính hệ thống (hệ thống lịch
sử văn học, hệ thống ngôn
ngữ,…).
Chương trình mới đặt mục
tiêu là vừa chú ý mục tiêu

giáo dục theo yêu cầu của xã
hội những cũng sẽ vừa quan
tâm đến nhu cầu, sở thích của
người học và người dạy để
xác định nội dung chương
trình học tập.

Chương trình phát triển năng
lực không chạy theo số lượng
mà chỉ lựa chọn những kiến
thức cần thiết và tiêu biểu
(tác giả, tác phẩm, đơn vị
tiếng Việt, các kiểu văn
bản,..) giúp cho việc hình
thành năng lực chung cũng
như một số năng lực chuyên
Chương trình theo định biệt, đặc biệt là năng lực giao
hướng nội dung này yêu cầu tiếp và năng lực tiếp nhận,
nhớ nhiều,biết nhiều. Khi học cảm thụ thẩm mĩ.
một tác phẩm cụ thể, HS chỉ
biết nội dung và ý nghĩa cụ Chương trình phát triển năng
22


thể của tác phẩm ấy mà thôi
và phần nhiều những tri thức
đó là do giáo viên, sách vở
cung cấp.
Đối với nội dung SGK,
chương trình hiện hành sẽ chỉ

định một tác phẩm cụ thể của
một tác giả cụ thể, ngoài ra
nếu đó là tác giả quan trọng
thì sẽ đề cập thêm một số bài
đọc thêm. Chẳng hạn như với
tác gia Xuân Diệu (có sáng
tác trước và sau CMT8 nhưng
người ta vẫn nhớ đến một
Xuân Diệu nồng nhiệt và lo
âu trước CM nhiều hơn),
SGK hiện hành cho học duy
nhất bài “Vội vàng” để làm
nổi bật nỗi sợ hãi trước sự
chảy trôi của thời gian của
Xuân Diệu. Ngoài ra còn cho
đọc thêm “Đây mùa thu tới”
và “Thơ duyên”.

3. Phương

lực yêu cầu không chỉ biết
nội dung và ý nghĩa cụ thể
của tác phẩm được học mà
còn phải biết cách khám phá
ra vẻ đẹp nội dung và ý nghĩa
đó nữa. Không dừng lại ở đó,
từ việc biết cách khám phá,
HS sẽ biết vận dụng cách tự
khám phá ra những vẻ đẹp
nội dung và ý nghĩa của

những tác phẩm tương tự mà
không cần dựa quá nhiều vào
giáo viên.

Ở chương trình đổi mới sắp
tới, dự kiến rằng nội dung
trong SGK sẽ không bị bắt
buộc như trước. Có thể sẽ chỉ
là bắt buộc học một vài tác
phẩm quan trọng như “Nam
quốc sơn hà”, “Bình Ngô đại
cáo”, “Tuyên ngôn độc lập”,
… Còn những tác giả khác thì
cho phép giáo viên tự do lựa
chọn tác phẩm để làm phong
phú thêm giờ dạy của mình.
Chẳng hạn cũng với tác gia
Xuân Diệu, nhưng nếu với
nội dung chương trình mới
thì giáo viên có quyền chọn
bất cứ bài nào của ông để thể
hiện nỗi sợ hãi trức sự chảy
trôi của thòi gian như “Giục
giã”:
“Mau với chứ, vội vàng lên
với chứ ! / Em, em ơi ! tình
non sắp già rồi…”.
Sự chủ động thuộc về người
dạy !
Chương trình Ngữ văn hiện Chương trình mới thì đề cao

23


pháp dạy học

4. Cách kiểm
tra đánh giá
kết quả học
tập của học
sinh

tại có tư tưởng đã được thống
nhất từ sau năm 2000 là
chuyển từ phương pháp giảng
văn sang phương pháp đọc
hiểu văn bản. Đó là một bước
tiến trong phương pháp dạy
học ở nhà trường phổ thông.
Tuy nhiên phương pháp đọc
hiểu nhìn chung mới chỉ dừng
lại ở mặt nhận thức. trong
thực tế dạy học, phương pháp
trên chưa được thực hiện toàn
diện, đồng bộ và hiệu
quả.

việc hình thành và phát triển
năng lực. Với môn Ngữ văn
trước hết tập trung vào năng
lực giao tiếp, sau đó mới đến

những năng lực khác.
Có rất nhiều phương pháp
dạy học có thể áp dụng nhưng
dù vận dụng phương pháp
nào thì cũng đều phải hướng
đến mục tiêu phát triển năng
lực: nghĩa là phải ưu tiên cho
việc trải nghiệm của HS, đặt
người học vào các tình huống
của thực tiễn đời sống để họ
suy nghĩ và tự mình đề ra các
giải pháp hành động.

Việc đánh giá của chương
trình Ngữ văn hiện hành còn
nhiều hạn chế mà hạn chế lớn
nhất là chưa đánh giá đúng sự
vận dụng kiến thức một cách
sáng tạo, chủ yếu vẫn kiểm
tra trí nhơ, tái hiện, làm theo
và sao chép.

Việc đánh giá của chương
trình mới sẽ theo hướng
khuyến khích sự sáng tạo,
khả năng vận dụng kiến thức
đã hoc cả nội dung lẫn
phương pháp để giải quyết
tình huống mới hoặc tương
tự. Việc kiểm tra được thực

hiện trong suốt quá trình học
nhưng đến những bài kiểm tra
cuối sẽ kiểm tra sự vận dụng
kiến thức ở nhiều bài, liên
môn và ở nhiều lĩnh vực.

24


KẾT LUẬN
Trên đây là phần trình bày của chúng tôi về quy trình tổ chức dạy học Ngữ
văn theo định hướng đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục. Có thể trong tương
lai, những nội dung trong từng quy trình sẽ thay đổi ít nhiều vì nói thế nào đi chăng
nữa thì lộ trình đổi mới này đối với riêng bộ môn Ngữ văn, Bộ Giáo dục và Đào tạo
vẫn chưa ban hành những nội dung cụ thể. Cả giáo viên, học sinh lẫn phụ huynh cơ
hồ vẫn còn rất hoang mang. Nhưng dường như ai cũng mong sự cải tổ lần này sẽ
mang đến phong khí mới cho nền giáo dục nước nhà nói chung và môn Ngữ văn nói
riêng bởi lẽ chúng ta đã bị tụt lại khá xa so với thế giới, những gì còn lại không đủ
để đáp ứng những nhu cầu đổi thay, phát triển của xã hội, của người dạy và của
người học.

25


×