Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỤC TIÊU GIÁO DỤC MÔN NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.04 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa , hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới
“Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thơng nhằm tạo chuyển
biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông,kết hợp
dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục
nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm
chất và năng lực, hài hịa đức, trí, thể, mỹ, và phát huy tốt tiềm năng của mỗi
học sinh”.
Đặc biệt, trong chương trình mới, mơn ngữ văn sẽ đổi mới toàn diện từ
mục tiêu, nội dung, cách xây dựng chương trình cho tới phương pháp giảng dạy
và phương pháp kiểm tra, đánh giá nhằm hướng tới hình thành và phát triển
phẩm chất, năng lực cho học sinh. Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống (Viện Khoa
học Giáo dục Việt Nam) đã khẳng định, đổi mới chương trình khơng có nghĩa là
làm lại từ đầu mà phải kế thừa và phát triển những ưu điểm của chương trình
hiện hành. Môn Ngữ Văn là một trong những môn học quan trong xuyên suốt 12
năm học trong chương trình giáo dục phổ thơng hiện nay và chương trình giáo
dục phổ thông mới. Cho nên với những định hướng đổi mới sắp tới của Bộ trong
chương trình mơn Ngữ Văn sẽ được giáo viên,học sinh, những nhà giáo dục đặc
biệt quan tâm. So với chương trình hiện hành, chương trình Ngữ Văn sắp tới có
khác biệt lớn nhất là hướng tới thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục
tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, “ nghĩa là từ chỗ quan
tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được
cái gì qua việc học”


Trong xu thế hội nhập phát triển hiện nay, đòi hỏi mỗi con người phải ln
ln cập nhật những giá trị và hồn thiện những giá trị của bản thân để phát triển
2


và khơng bị “ đào thải”. Qúa trình học tập, bồi dưỡng và rèn luyện phải được
tiến hành ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà trường để khơng ngừng nâng cao và
khẳng định giá trị của bản thân.Với đề tài “Mục tiêu giáo dục của môn Ngữ
Văn”, chúng ta sẽ thấy được với những đổi mới trong mục tiêu của chương trình
mơn Ngữ Văn mới thì hồn tồn phù hợp, đáp ứng được những yêu cầu của cá
nhân người học, của nhà trường, của xã hội trong việc phát triển các năng lực
cần có của mỗi con người.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CHƯƠNG
TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THƠNG TỪ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG
NỘI DUNG DẠY HỌC SANG CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG NĂNG
LỰC
1.1. Chương trình giáo dục định hướng nội dung
Trong định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng thì đã đề cập
với vấn đề là chuyển từ chương trình định hướng nội dung dạy học sang chương
trình định hướng phát triển năng lực. Chương trình dạy học truyền thống có thể
gọi là chương trình giáo dục “ định hướng nội dung” dạy học hay gọi là “ định
hướng đầu vào” (điều khiển đầu vào). Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo
dục định hướng nội dung là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức theo các
môn học được quy định trong chương trình dạy học. Những nội dung của các
mơn học này dựa trên các khoa học chuyên ngành tương ứng. Người ta chú
trọng việc trang trị cho người học hệ thống tri thức khoa học khách quan về
nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên chương trình giáo dục định hướng nội dung chưa chú trọng đầy
đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng dụng tri thức đã học trong

những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học trong chương trình định hướng
nội dung được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết và không nhất thiết
3


phải quan sát, đánh giá được một cách cụ thể nên không đảm bảo rõ ràng về việc
đạt được chất lượng dạy học theo mục tiêu đã đề ra.
Ưu điểm của chương trình dạy học định hướng nội dung là việc truyền thụ
kiến thức cho người học một hệ thống tri thức khoa học và hệ thống. Tuy nhiên
ngày nay chương trình dạy học định hướng nội dung khơng cịn thích hợp nữa,
trong đó có những ngun nhân sau:
-

Ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc
những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình trạng nội dung
chương trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức hiện đại. Do đó việc rèn
luyện phương pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị

-

cho con người có khả năng học tập suốt đời
Chương trình dạy học định hướng nội dung dẫn đến xu hướng việc kiểm tra
đánh giá chủ yếu dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức mà không định

-

hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn
Do phương pháp dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng ứng dụng
nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả
năng sáng tạo và năng động. Do đó, chương trình giáo dục này khơng đáp ứng

được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động đối với người lao
động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo và tính năng động.
Chính những điều này đã hướng việc đổi mới giáo dục phổ thơng theo
hướng phát triển chương trình giáo dục định hướng năng lực.
1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (định hướng phát
triển năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra đã được bàn
đến nhiều từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng
giáo dục quốc tế. Với mục tiêu là phát triển các năng lực của người học

4


Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc
dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách , chú
trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn
bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống và nghề nghiệp. Chương
trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình
nhận thức
Khác với chương trình định hướng nội dung , chương trình dạy học định
hướng năng lực tập trung vào việc mơ tả đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối
cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lí chất lượng dạy học chuyển từ việc
“điều khiển đầu vào” sang “ điều khiển đầu ra”, tức là kết quả học tập của học
sinh.
Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội
dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá
trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những định hướng chung về việc lựa chọn
nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực
hiện mục tiêu dạy học tức là kết quả mong muốn. Trong chương trình định
hướng năng lực, kết quả học tập sẽ được mô tả thông qua hệ thống các năng lực

(Competency). Kết quả học tập sẽ được mô tả chi tiết và có thể quan sát đánh
giá được. Học sinh cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong
chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo quản lí chất
lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra
Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng năng lực là tạo điều kiện
quản lí chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận
dụng của học sinh. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý
đầy đủ đến nội dung bài học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và
tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục khơng chỉ thể hiện kết
quả đầu ra mà cịn phụ thuộc vào quá trình thực hiện
5


Sau đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định
hướng nội dung và chương trình định hướng năng lực
Chương trình định hướng nội Chương trình định hướng năng
dung
lực
Mục tiêu Mục tiêu dạy học được mô tả
giáo dục
không chi tiết và không nhất
thiết phải quan sát, đánh giá
được.
Nội dung Việc lựa chọn nội dung dựa vào
giáo dục
các khoa học chun mơn,
khơng gắn với các tình huống
thực tiễn. Nội dung được quy
định chi tiết trong chương trình
Phương

Giáo viên là người truyền thụ tri
pháp dạy thức, là trung tâm của quá trình
học
dạy học. Học sinh tiếp thu thụ
động những tri thức được quy
định sẵn

Hình thức Chủ yếu dạy học lí thuyết trên cơ
dạy học
sở lớp học

Đánh giá Tiêu chí đánh giá được xây dựng
kết quả học chủ yếu dựa trên sự ghi nhớ và
tập của học tái hiện nội dung đã học
sinh

6

Kết quả học tập cần đạt chi tiết
và có thể quan sát, đánh giá
được; thể hiện được mức độ
tiến bộ của học sinh một cách
liên tục
Lựa chọn những nội dung
nhằm đạt được kết quả đầu ra
đã quy định, gắn với các tình
huống thực tiễn. Chương trình
chỉ quy định những nội dung,
không quy định chi tiết
- Giáo viên chủ yếu là người

tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực
và tích cực lĩnh hội tri thức.
Chú trọng sự phát triển khả
năng giải quyết vấn đề, khả
năng giao tiếp
- Chú trọng sử dụng các quan
điểm, phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực, các phương
pháp dạy học thí nghiệm, thực
hành
Tổ chức hình thức học tập đa
năng; chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu
khoa học, trải nghiệm sáng tạo,
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thơng trong
dạy và học
Tiêu chí đánh giá dựa trên năng
lực đầu ra, có tính đến sự tiến
bộ trong q trình học tập, chú
trọng khả năng vận dụng trong
các tình huống thực tiễn


1.3. Định hướng chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực của chương trình
giáo dục cấp trung học phổ thông
Qua nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm các nước phát triển, đối chiếu với
yêu cầu và điều kiện giáo dục trong nước những năm sắp tới, các nhà khoa học
giáo dục Việt Nam đã đề xuất định hướng chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng
lực của chương trình giáo dục phổ thông những năm sắp tới như sau:

-

Các phẩm chất: Yêu thương gia đình, quê hương đất nước; nhân ái, khoan dung;
trung thực, tự trọng, chí cơng vơ tư; tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần vượt
khó; có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước,nhân loại và môi trường

-

tự nhiên; thực hiện nghĩa vụ đạo đức tôn trọng, chấp hành kỉ luật, pháp luật
Các năng lực chung: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng
tạo, năng lực tự quản lí, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngơn ngữ, năng lực tính
tốn
Như vậy, từ những phẩm chất và năng lực chung,mỗi môn học xác định
những năng lực cá biệt và những yêu cầu đặt ra cho từng môn học, từng hoạt
động giáo dục
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU GIÁO DỤC MÔN NGỮ VĂN
2.1. Khái niệm mục tiêu giáo dục
Mục tiêu là cái đích phải đạt được để thực hiện một nhiệm vụ. Trong giáo
dục , mục tiêu được hiểu là cái đích phải đạt được để thực hiện nhiệm vụ đầu tạo
con người trong một thời gian, trong mỗi một lĩnh vực học tập. Mục tiêu giáo
dục còn được hiểu là kết quả cần đạt được ở người học .
Mục tiêu chỉ rõ cho học sinh cái mà xã hội, cha mẹ, nhà trường đang chờ
đợi cho học sinh, nó giúp học sinh định hướng được kết quả cuối cùng học sinh
cần phải đạt tới để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mục tiêu định hướng cho giáo
7


dục lựa chọn và tập trung vào các kiến thức kĩ năng trọng tâm khi thiết kế các kế
hoạch bài học . Mục tiêu cũng giúp giáo viên lựa chọn PPDH thích hợp với từng

nội dung để hình thành và phát triển được nhiều năng lực trong một nội dung
dạy học cũ thể .
2.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng mục tiêu giáo dục
2.2.1. Cơ sở triết học
Hai khuynh hướng triết học có ảnh hưởng quyết định tới việc xây dựng
mục tiêu giáo dục là thuyết vị cá nhân và thuyết vị xã hội.
Thuyết vị xã hội quan niệm phải lấy đáp ứng nhu cầu xã hội làm mục tiêu giáo

-

dục. “Họ (....) cho rằng về phương diện mục tiêu giáo dục cá nhân khơng có chút
ý nghĩa nào cả, mọi chế độ giáo dục của quốc gia chỉ có một mục tiêu là đào tạo
những cơng dân phục tùng tuyệt đối lợi ích quốc gia”.Đây là một quan niệm phổ
biến vào thời kì cổ đại và trung đại, từ Đông sang Tây. Mục tiêu của giáo dục
-

lúc đó là đào tạo người phục vụ vương quyền, thần quyền.
Ngược với thuyết vị xã hội, những người chủ trương thuyết vị cá nhân lấy con
người làm trung tâm, từ đó xem xét mọi giá trị và định hướng trong xã hội.
Quan điểm này phát triển từ thời kì Phục Hưng, khi văn hóa giáo dục “ thốt
khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa tín điều và chủ nghĩa khổ hạnh của nhà thờ, giải
phóng con người nhận thức, trí tuệ, tài năng theo hướng chủ nghĩa nhân văn”.
Người ta lấy việc phát triển, hoàn thiện nhân cách của cá nhân làm mục tiêu
giáo dục.
Điều 2 Luật Giáo Dục cũng quy định: “ Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người việt nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu việc xây dựng bảo vệ Tổ Quốc ”


8


Với mục tiêu như trên, trong hàng chục năm qua, giáo dục Việt Nam đã đào
tạo và cung cấp cho xã hội đội ngũ nhân lực về cơ bản đáp ứng được yêu cầu sử
dụng của các ngành nghề, cơ quan, đơn vị. nhưng vì chỉ chú trọng phát triển
kinh tế - xã hội trong khi dự báo nhu cầu nhân lực cịn yếu nên nhân lực đào tạo
ra khơng thiếu khỏi tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Nội dung các môn học, kể từ
bậc phổ thông đến đại học chưa thốt khỏi tình trạng khinh viện, phương pháp
giáo dục ít quan tâm đến cá thể hóa, năng lực thực tiễn, năng lực sáng tạo của
người học yếu,…; - đó là những hệ quả của đường lối dạy học mang tính chất
“phân phối” và “cào bằng”.
Để thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
quyết định của Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, trước hết cần
đổi mới giáo dục, lúc này một mục tiêu giáo dục dễ dang đạt sự đồng thuận hơn
cả là kết hợp hài hoà sự phát triển tự do cùng nhân cách với sứ mệnh đào tạo
nhân lực phục vụ xã hội.
2.2.2. Cơ sở tâm lí- giáo dục học
Giáo dục cũng như nhận thức nói chung, là một q trình, khơng phải một
lúc có thể hồn thành được. Qúa trình giáo dục phải phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí lứa tuổi của HS
Theo Rousseau ông một nền giáo dục đúng đắn phải xuất phát từ trẻ em,
theo dõi quá trình phát triển của trẻ em và bước tiến tự nhiên của trái tim con
người. Ông phân chia tuổi trẻ thành bốn giai đoạn và đề xuất phương pháp giáo
dục phù hợp với mỗi giai đoạn đó.
-

Giai đoạn đầu tiên, từ khi lọt lịng mẹ, trẻ em chưa có lí trí mà chỉ có cảm giác,
dùng cảm giác để tìm hiểu thế giới xung quanh. Do đó, phải để các em tự sờ mó,
cầm nắm mọi vật để thấy thế nào là nóng, lạnh, nặng, nhẹ.... Muốn các em có ý

niệm về khơng gian, diện tích cần các em đi chơi, chuyển từ vị trí này sang vị trí

9


khác. Tóm lại, giáo dục trong giai đoạn này phải dự vào tự nhiên; từng giờ từng
phút “ cái gì cũng là học tập”.
Từ 7,8 tuổi, trẻ em bước vào giai đoạn thứ hai. Các em đã có những hiểu biết tối

-

thiểu. Những phương pháp tự học vẫn là căn bản. Do các em đã bắt đầu có nhận
thức lí tính nên có thể khuyến khích sự say mê học tập các em bằng các động cơ
có lợi ích( thấy học tập là có lợi) cà cảm giác tự chủ ( có cảm tưởng mình được
làm chủ q trình chiếm lĩnh tri thức mới).
Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ 12, 13 tuổi. Đây là giai đoạn nhận thức chuyển từ

-

cảm giác sang ý niệm từ cụ thể sang trừu tượng. Phương pháp tự học vẫn là căn
bản; thầy chỉ đóng vai trị chỉ đạo hướng dẫn. Nhưng nếu như ở giai đoạn trước,
trẻ nhận thức qua giác quan một cách thụ động thì bây giờ trẻ nhận thức lí trí
dưới hình thức tri giác và ý niệm một cách chủ động, nhất là dưới sự kích thích
của tính tị mị. Trẻ em phải tự mình phát hiên ra cái mình muốn biết, giống như
-

sáng tạo lại khoa học. Đó là phương pháp tự học chủ động, tự học tích cực.
Giai đoạn thứ tư là giai đoạn trẻ đã thành niên. Theo Rousseau, trong giai đoạn
này, các em không thể tự học được nữa. Người thầy đóng vai trị chính. Thầy
hướng dẫn, giải thích, giảng dạy nhưng khơng tùy tiện mà theo nguyên tắc,

phương châm nhất định.
2.3. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng mục tiêu giáo dục
2.3.1. Yêu cầu phát triển của nhân dân
Sự hạn chế tự do cá nhân cộng với thiếu thốn về cơ sở vật chất kéo dài
hàng ngàn năm từ chế độ phong kiến đến nay đã dẫn đến những hạn chế về năng
lực sáng tạo. Người Việt Nam tiếp thu nhanh nhưng năng lực tưởng tượng khơng
cao, ít có khả năng tạo ra những bước đọt phá. Từ mơ hình xã hội đến phát triển
kinh tế, công nghệ Việt Nam thường nhập khẩu hoặc mơ phỏng sáng kiến của
nước ngồi. Chưa có sáng tạo nào lớn từ lớn đến nhỏ thuộc về người Việt.
Nguyên nhân không phải là do hạn chế về tự do tư tưởng, học thuật mới tạo ra
được những lớp người dám nghỉ dám làm. Đổi mới căn bản và tồn diện chính
là thời cơ thuận lợi để thực hiện mục tiêu phát triển, hoàn thiện nhân cách, giải
10


phóng tư duy con người, tạo ra bước chuyển về chất lượng nhân lực, góp phần
thúc đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
2.3.2.Yêu cầu phát triển của xã hội
Giáo dục là một hệ thống nhỏ trong hệ thống xã hội. Vì vậy, mục tiêu giáo
dục khơng thể thốt khỏi yêu cầu phát triển xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
ra ba đột phá chiến lược để phát triển là:
-

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là

-

tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập

trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt

-

chẽ phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Như vậy, nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển nguồn nhân lực là một
trong những khâu đột phá để thực hiện thành công kế hoạch 5 năm, làm tiền đề
hoàn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đáp ứng yêu
cầu này, giáo dục cần được đổi mới căn bản và tồn diện, trong đó mục tiêu giáo
dục là yếu tố đầu tiên cần được đổi mới.
2.3.3. Điều kiện phát triển của giáo dục
Giáo dục khơng thể thốt ly điều kiện kinh tế - xã hội. Với mong muốn cải
thiện tình hình, nhanh chóng khoảng cách tụt hậu so với các nước đi trước, Việt
Nam chủ trương “đi tắt đón đầu” và đặt nhiều kì vọng vào giáo dục. Cương lĩnh
“Xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “Khoa học
và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu.”. Đó là
một quan điểm đúng đắn. Nhưng Việt Nam dường như đã chọn con đường nâng
11


cao thứ hạng của giáo dục bằng cách phát triển quy mô đào tạo qua chủ trương
mở rộng quy mô giáo dục đại học được đề ra tại Đại hội VII, đã mở đường cho
khuynh hướng phát triển số lượng trong giáo dục đại học.
Năm năm sau, Hội nghị lần thứ 2 của Trung ương khóa VIII đã nhận thấy
“sự nghiệp giáo dục – đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa
phải phát triển nhanh quy mô giáo dục – đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất
lượng giáo dục – đào tạo, trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn

nhiều hạn chế”. Quy mô giáo dục mầm non, GDPT, dạy nghề và giáo dục
thường xuyên không phát triển được như mong muốn, trong khi đó, giáo dục đại
học lại phát triển nóng, khơng phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế.
Giải pháp phát triển số lượng phù hợp với mục tiêu tạo cơ hội cho mọi
công dân được học tập theo nguyện vọng nhưng do không tương xứng với năng
lực thực hiện nên không thể triển khai đồng bộ ở tất cả các cấp học và với những
cấp học có quy mơ phát triển nhanh thì chất lượng nguồn nhân lực đào tạo ra
không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Việc xây dựng hệ thống GDPT 12 năm
với 14 môn học và hoạt động giáo dục ở tiểu học, 17 môn học và hoạt động giáo
dục ở trung học và rất nhiều nội dung giáo dục thường xuyên được bổ sung vào
CT như giáo dục về an tồn giao thơng, phịng chống tham nhũng, phịng chống
HIV, giáo dục giới tính, giáo dục kĩ năng sống,… cũng khiến cho CT càng thêm
nặng nề. Ở đây có sự lẫn lộn giữa mong muốn, kì vọng (cái chủ quan) với mục
tiêu (cái khách quan). Đây cũng là vấn đề cần quan tâm khi xây dựng mục tiêu
giáo dục.
2.4. Những mục tiêu giáo dục cụ thể
2.4.1. Những mục tiêu chung
CT môn Ngữ văn gồm các phần Văn học, Tiếng Việt, Làm văn, Tập làm
văn, được chia làm 3 giai đoạn học tập cùng với 3 cấp học. Ở Tiểu học, môn học
được gọi là Tiếng Việt. Ở THCS và THPT , môn học được gọi là Ngữ Văn. Dưới
12


đây là mục tiêu chung của môn học này ở cả 3 cấp học trong nhà trường phổ
thông:
-

Môn Ngữ Văn cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có
tính hệ thống về ngơn ngữ (trọng tâm là Tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn
học Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo


-

nguồn nhân lực trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mơn Ngữ Văn hình thành và phát triển ở HS các năng lực sử dụng Tiếng Việt,
tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mỹ; phương pháp học tập, tư duy, đặc biệt là

-

phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
Môn Ngữ Văn bồi dưỡng cho HS tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình u
gia đình, thiên nhiên, đất nước; lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lí
tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho HS trách
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hơp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng như các môn học khác, môn Ngữ Văn nhắm tới cả ba mục tiêu hình
thành và phát triển ở HS nhận thức, kĩ năng và thái độ sống đúng đắn. Có thể
thấy mục tiêu mơn học hồn toàn phù hợp với mục tiêu chung của giáo dục Việt
Nam là “ giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện”, đáp ứng “ yêu cầu
nguồn nhân lực trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Mục tiêu
môn học cũng thể hiện sự quan tâm đến u cầu có tính sư phạm “ phù hợp với
sự phát triển của lứa tuổi”.
Tuy nhiên, điểm yếu nhất của mục tiêu môn học Ngữ văn cũng như các
môn học khác ở nhà trường Việt Nam là chưa thể hiện được yêu cầu phát triển
và hoàn thiện nhân cách phù hợp với nguyện vọng sở trường của mỗi cá nhân,
đảm bảo đa dạng hóa nhân cách. Bên cạnh đó, việc đặt mục tiêu trọng tâm vào
cung cấp kiến thức và nhấn mạnh các tính chất cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống
về ngơn ngữ và văn học có thể đã trở thành nguyên nhân CT và SGK thiên về

13



trang bị những tri thức mang tính hàn lâm cho HS. Đây là điều cần khắc phục
trong CT Ngữ văn sau 2015.
2.4.2. Mục tiêu ở cấp Tiểu học

Các mục tiêu giáo dục tổng quát của môn Tiếng Việt được cụ thể hóa các chuẩn
kiến thức , kĩ năng và yêu cầu về thái độ HS cần đạt được khi học hết cấp tiểu
học như sau :
-Về kiến thức, HS “biết các quy tắc chính tả của chuẩn tiếng việt.có vốn từ ngữ
tương đối phong phú. Bước đầu phân biệt được từ đơn, từ phức, danh từ, động
từ, tính từ, đại từ, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Nhận biết được câu đơn, câu
ghép, câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến. hiểu tác dụng của các biện pháp so
sánh, nhân hóa trong diễn đạt. có kiến thức sơ giản về đặt điểm, cấu tạo của
đoạn văn, bài văn kể chuyện, miêu tả ”
-Về kĩ năng, HS “đọc đúng, lưu loát các bài đọc có độ dài từ 250 đến 300 tiếng,
biết đọc biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn, hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc có nội
dụng phù hợp với mọi lứa tuổi. bài viết thư, tin nhắn, đơn từ thơng dụng, viết
được bài văn kể chuyện có nội dung đơn giản, ít mắc lỗi chính tả, bước đầu thể
hiện khả năng quan sát, kết nối sự việc, hiện tượng,…có khả năng nghe, hiểu và
đối đáp trong giao tiếp thông thường. kể lại, thuật lại tương đối đầy đủ câu
chuyện hoặc tin tức đã nghe,đã đọc biết nói thành đoạn, thành bài kể, tả, giới
thiệu đơn giản về người, vật, sự việc, hoạt động; bước đầu thể hiện thái độ, tình
cảm qua lời nói, giọng nói.”.
-Về thái độ, qua môn Tiếng Việt và tất cả các môn học. HS biết “ Yêu quê
hương, đất nước, yêu quý người thân trong gia đình, thầy cơ giáo, bạn bè, trường
lớp. lễ phép với người trên, nhường nhịn em nhỏ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè,
thơng cảm với những người có hồn cảnh khó khăn. Chăm chỉ,cẩn thận, trung
14



thực, vượt khó trong học tập. yêu lao động và q trọng sản phẩm lao động.
Tích cực tham gia cơng việc của gia đình và nhà trường phù hợp với khả năng.
Mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, biết hợp tác với bạn bè trong công việc chung của
cộng đồng. Biết quý trọng cái đẹp. yêu thiên nhiên và có ý thức bảo vệ môi
trường xung quanh.”
Các mục tiêu tổng quát và cụ thể của môn Tiếng Việt cấp Tiểu học đã trình
bày ở trên phù hợp với những quy định trong Luật giáo dục về mục tiêu chung
của giáo dục tiểu học.
2.4.3. Mục tiêu ở cấp THCS

Các mục tiêu giáo dục tổng quát của môn Ngữ văn THCS được cụ thể hóa
thành một số chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ HS cần đạt khi học
hết cấp THCS như sau:
-

Kiến thức: Biết được những TPVH tiêu biểu cho các thể loại của văn học dân
gian, văn học trung đại, văn học hiện đại VN và một số tác phẩm, đoạn trích văn
học nước ngồi. Bước đầu hiểu được vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật của các
tác phẩm được học. Biết một số kiến thức sơ giản về lịch sử văn học VN và một
số lý luận văn học thông dụng.
Nhận biết được một số đặc điểm của các đơn vị tiêu biểu trong từng bộ phận cấu
thành Tiếng Việt. Có hiểu biết bước đầu về giao tiếp và các quy tắc sử dụng
tiếng Việt.
Nhận biết được một số đặc điểm của một số kiểu văn bản thông dụng: VB tự sự,
VB biểu cảm, VB miêu tả, VB lập luận, VB thuyết minh và các kiểu VB khác.
Bước đầu hiểu được yêu cầu về cách tiếp nhận và tạo lập các kiểu VB đó.

-


Kỹ năng: Đọc được một cách rõ ràng, trôi chảy và hiểu đúng nội dung các VB
thông thường; đọc diễn cảm và hiểu nội dung, ý nghĩa các VB nghệ thuật. Viết
15


được một cách rõ ràng, đúng chính tả, đúng ngữ pháp; vận dụng các phương
thức biểu đạt phù hợp để tạo lập đucợ các kiểu VB đã học. Biết kể tóm tắt nội
dung câu chuyện đã nghe, đã đọc một cách đầy đủ, chính xác. Có khả năng diễn
đạt bằng lời những suy nghĩ, tình cảm của bản thân một cách tương đối rõ ràng,
sáng sủa, chính xác. Bước đầu biết trình bày ý kiến một cách khá trơi chảy và
-

biểu cảm trước tập thể.
Về thái độ, qua môn Ngữ văn và các môn học, HS biết: “Yêu quê hương, đất
nước VN. Tự hào và có ý thức giữ gìn, phát huy các truyề thống tốt đẹp của dân
tộc. Tôn trọng đất nước, con người và các nền văn hóa khác.
Yêu thương, tôn trọng mọi người xung quanh. Biết ứng xử, giao tiếp một cách
có văn hóa. Tự trọng, tự tin trong giao tiếp và các hoạt động hằng ngày. Có ý
thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của bản thân, đồng thời tơn trọng các quyền
của người khác.
Có ý thức học tập và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Có ý thức
định hướng nghề nghiệp đúng đắn. Bước đầu hình thành được một số phẩm chất
cần thiết của người lao động như: cần cù, sáng tạo, trung thực, có trách nhiệm,
có ý thức kỉ luật, tác phong cơng nghiệp, biết hợp tác trong cơng việc.
Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội phù hợp với khả
năng. Có ý thức rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ mơi trường. Bước
đầu có ý thức thẩm mỹ, yêu và trân trọng cái đẹp.
2.4.4. Mục tiêu ở cấp THPT
Chương trình Ngữ văn ở THPT của VN thực hiện phân ban từ lớp 10, theo
3 ban: Ban Cơ bản, Ban Khoa học tự nhiên, Ban Khoa học xã hội và nhân văn.

Ngữ văn là môn học bắt buộc ở tất cả các ban. Chương trình chuẩn dành cho 2
ban: Ban Cơ bản, Ban Khoa học tự nhiên. CT nâng cao dành cho Ban Khoa học
xã hội và nhân văn gồm những học sinh có thiên hướng ngữ văn.

16


Các mục tiêu giáo dục tổng quát của môn Ngữ văn THPT được cụ thể hóa
thành một số chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ HS cần đạt khi học
hết cấp THPT như sau:
-

Kiến thức: Biết được một cách tương đối hệ thống những TP tiêu biểu cho các
thể loại của vhgd, văn học trung đai, văn học hiện đại VN và một số tác phẩm,
đoạn trích văn học nước ngồi. Hiểu được vẻ đẹp về nội dung và hình thức nghệ
thuật của ngững TP được học. Biết một số kiến thức sơ giản về lý luận văn học,
văn hóa. Bước đầu hiểu được những đặc điểm cơ bản về lịch sử văn học VN
(các thời kì văn học lớn, các tác giả lớn, một số thể loại văn học chủ yếu của dân
tộc).
Biết được những nét lớn về đặc điểm loại hình và lịch sử tiếng Việt. Bước đầu
hiểu được những yêu cầu của phong cách ngơn ngữ và u cầu giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.
Biết được một số kiến thức nâng cao về các kiểu VB đã học, đặc biệt là các thao
tác lập luận của VB nghị luận. Hiểu cách kết hợp các thao tác lập luận, các
phương thức biểu đạt phù hợp, các bước hoàn thiện một bài văn nghị luận xã hội
và nghị luận văn học.

-

Kỹ năng: Đọc nhanh và nắm bắt được nội dung VB một cách chính xác; biết lựa

chọn và xử lý thơng tin để có những đánh giá và nhận xét của riêng mình. Có kĩ
năng đọc- hiểu VB văn học theo đặc trưng thể loại. Viết được bài văn đúng yêu
cầu, có nội dung đa dạng, phong phú, đặc biệt là VB nghị luận. Nghe, hiểu, đối
đáp một cách chính xác trong các tình huống giao tiếp thơng thường và một số
tình huống đột xuất. Biết diễn đạt bằng lời một cách rõ ràng, sáng sủa, chính xác
những suy nghĩ và tình cảm của bản thân. Biết trình bày ý kiến rõ ràng, mạch lạc

-

và biểu cảm trước nhiều người.
Thái độ, qua môn Ngữ văn và tất cả các môn học, HS biết: “Yêu quê hương, Tổ
quốc VN, yêu CNXH; tự hào, giữ gìn và phát huy các truyền thống dân tộc, cách
mạng, văn hóa, đạo đức,… tốt đẹp của nhân dân ta. Tơn trọng đất nước, con
17


người và các nền văn hóa khác. Tin tưởng và góp phần vào sự phát triển hợp quy
luật của lịch sử.
Có ý thức sống theo hiến pháp, pháp luật. Sẵng sàng thực hiện nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ủng hộ và thực hiện những thái độ, hành vi
tích cực; dấu tranh, phê phán những thái độ, hành vi tiêu cực trong cuộc sống.
Tôn trọng, khoan dung, hòa hợp với mọi người xung quanh. Biết ứng xử, giao
tiếp một cách có văn hóa.
Tự giác, chăm chỉ, trung thực trong học tập và vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống. Có ý thức lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn. Có tính kỉ luật và tác
phong cơng nghiệp trong học tập và lao động. Có ý thức rèn luyện, tự hồn thiện
bản thân để có thể đáp ứng được u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Như vậy: Chương trình Ngữ văn VN xác định mục tiêu khá toàn diện về cung
cấp kiến thức nâng cao năng lực đọc- hiểu văn bản và làm văn; giáo dục nhân

cách
CHƯƠNG 3: ĐỔI MỚI MỤC TIÊU GIÁO DỤC CỦA MÔN NGỮ VĂN
3.1. Định hướng đổi mới mục tiêu của mơn Ngữ Văn trong q trình đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
Để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục VN, cần đổi mới mục
tiêu giáo dục theo hướng kết hợp hài hòa sự phát triển tự do của cá nhân với sứ
mệnh đào tạo nguồn nhân lực phục vụ xã hội, phát triển và hoàn thiện nhân cách
phù hợp với nguyện vọng, sở trường của mỗi cá nhân. Mục tiêu hình thành và
phát triển năng lực, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam đòi hỏi phải thay
đổi cả nhận thức về đối tượng và mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn.
Các tác giả bộ sách giáo khoa Ngữ văn THCS đã quan niệm đúng khi xem
đối tượng của môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là năng lực của người
18


học trong lĩnh vực ngữ văn. Lời nói đầu sách giáo khoa Ngữ văn 7 viết: môn
Ngữ văn là một mơn học tích hợp nhằm “kết hợp thật tốt việc hình thành cho HS
năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học với việc hình thành 4 kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết (hiểu theo nghĩa rộng) vốn là 2 q trình gắn bó hữu cơ và
hỗ trợ nhau hết sức tích cực”. Như vậy, có thể hiểu mơn Ngữ văn trong chương
trình giáo dục phổ thơng tuy có quan hệ với các ngành Ngôn ngữ học và Văn
học nhưng ở trường phổ thơng nó vẫn là một mơn học độc lập, có đối tượng
riêng. Tiếc là quan điểm đúng đắn đó khơng được thể hiện trong CT Trung học.
Trong khi CT tiểu học phát triển theo trục kĩ năng sử dụng tiếng Việt thì các
chương trình THCS và THPT được xây dựng theo trục kiến thức Tiếng Việt,
Làm văn và Học văn, không phù hợp với mục tiêu GDPT.
Trong lần đổi mới chương trình, sách giáo khoa tới đây, môn Ngữ văn
được xác định là một môn học có mục tiêu hình thành và phát triển năng lực sử
dụng tiếng Việt, trong đó có năng lực đọc hiểu các tác phẩm văn học cho học
sinh. Năng lực sử dụng tiếng Việt và tiếp nhận tác phẩm văn học mà môn học

này trang bị cho học sinh là công cụ để học sinh học tập, sinh hoạt, nhận thức
về xã hội và con người, bồi dưỡng cảm xúc và thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh
nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.
Trong chương trình tổng giáo dục phổ thơng mới, nội dung môn Ngữ Văn
được phân chia theo hai giai đoạn.
Giai đoạn giáo dục cơ bản:
Mơn học có tên Tiếng Việt ở cấp tiểu học và Ngữ Văn ở cấp trung học cơ
sở.
Chương trình được thiết kế theo mạch kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Kiến
thức văn học, giao tiếp và tiếng Việt được tích hợp trong q trình dạy học đọc,
viết, nói và nghe. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng
tiếp nhận của học sinh ở mỗi cấp học
19


Kết thúc giai đoạn giáo dục cơ bản, học sinh có thể đọc, viết, nói, nghe hiểu
các văn bản phổ biến và thiết yếu, gồm văn bản văn học, văn bản nghị luận và
văn bản thông tin; sử dụng tiếng Việt thành thạo để tiếp nhận hiệu quả trong
cuộc sống hằng ngày và học tập tốt các môn học khác, đồng thời qua môn học,
học sinh được bồi dưỡng và phát triển về tâm hồn và nhân cách.
Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
Ở giai đoạn này, chương trình môn học củng cố các mạch nội dung của giai
đoạn giáo dục cơ bản, giúp học sinh nâng cao năng lực giao tiếp, tăng cường
năng lực tiếp nhận và năng lực tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có
độ phức tạp hơn về chủ đề và kĩ thuật viết, qua đó phát triển tư duy độc lập, sáng
tạo và khả năng lập luận; đồng thời giúp học sinh học sâu hơn về tác phẩm văn
học, trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lý luận văn học có thiết thực đối
với việc đọc và viết về văn học
3.2. Cụ thể các phẩm chất và năng lực cần có của mơn Ngữ Văn trong q
trình đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục

Định hướng năng lực người học trở thành vấn đề cốt lõi của việc phát triển
chương trình; trong đó có chương trình môn Ngữ văn. Tuy nhiên, so với năng
lực người học các môn học khác, năng lực người học môn Ngữ văn có những
biểu hiện đặc thù do mơn Ngữ văn là mơn học có nhiều nét đặc thù với năng lực
văn học, năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ (các năng lực chuyên biệt), năng lực
chung, năng lực nhân văn (năng lực chuyển hóa).
Định hướng xây dựng chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 đã
xác định một số năng lực cốt lõi của học sinh. Trong định hướng phát triển
chương trình sau năm 2015, mơn Ngữ Văn được coi là mơn học cơng cụ, theo
đó , năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ văn
học là các năng lực mang tính đặc thù của mơn học; ngồi ra,năng lực giao tiếp,
năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề , năng lực tự quản bản thân
20


cũng đóng vai trị quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn
học.
C.KẾT LUẬN
Như vậy về mục tiêu môn Ngữ văn, điểm khác biệt lớn nhất của chương
trình đổi mới lần này so với chương trình hiện hành chính là coi trọng năng lực
giao tiếp (với 4 kỹ năng chính là đọc, viết, nói và nghe). Thơng qua việc hình
thành và phát triển năng lực giao tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và khả
năng sáng tạo văn học của học sinh (HS), đồng thời góp phần phát triển các
năng lực khác như năng lực thẩm mỹ, năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn
đề sáng tạo… mà chương trình tổng thể đã đề ra. Trong đó, năng lực giao tiếp
ngơn ngữ là trục tích hợp để xây dựng xuyên suốt cả 3 cấp học.Để đạt mục tiêu
này, trước hết cần xác định HS cần đạt hay cần có những phẩm chất và năng lực
gì từ mơn học này, năng lực đó ở mỗi cấp/ lớp yêu cầu đến đâu (mức độ/ chuẩn
cần đạt). Từ các yêu cầu cần đạt này mới xác định những nội dung cần dạy, tức
là dạy cái gì (kiến thức).Như thế chỉ có những kiến thức giúp cho việc phát triển

năng lực có hiệu quả thì mới được lựa chọn vào chương trình Ngữ văn mới.
Chương trình sẽ được xây dựng thống nhất từ lớp 1 cho tới lớp 12 chứ không
tách làm 3 cấp như trước đây.Với những đổi mới như vậy thì mơn Ngữ văn sẽ
thật sự đem lại hiệu quả giáo dục cần thiết

21


.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh. Môn Ngữ văn, cấp THPT, 2014, Bộ
GD&ĐT

22



×