Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giám đốc thẩm án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.62 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

GIÁM ĐỐC THẨM ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

GIÁM ĐỐC THẨM ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 62.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. NGUYỄN THANH DƢƠNG

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
HÌNH SỰ ....................................................................................................................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm hình sự ................................7
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục giám đốc thẩm .......................................14
1.3. Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và của một số
nước trên thế giới ......................................................................................................18
Chƣơng 2:THỰC TIỄN ÁP DỤNG GIÁM ĐỐC THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .........................................32
2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm của tòa án nhân dân
cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ..........................................................................32
2.2. Một số vướng mắc trong nhận thức và áp dụng giám đốc thẩm từ thực tiễn xét
xử của tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ....................................33
2.3. Một số ưu điểm và tồn tại trong quá trình áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của
tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ................................................58
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................65
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật...........................................................................65
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của tòa án nhân
dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS

:

Bộ luật hình sự

- BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

- CQĐT

:

Cơ quan điều tra

- HĐXX

:

Hội đồng xét xử

- KSV

:


Kiểm sát viên

- TAND

:

Tòa án nhân dân

- VKS

:

Viện kiểm sát

- VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự là thủ tục tố tụng đặc biệt để xem xét
lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, nhằm khắc
phục vi phạm của bản án, quyết định đó.
Thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Chương XXX BLTTHS năm năm
2003, là cơ sở pháp lý quan trọng, đã và đang phát huy vai trò tích cực trong thực

tiễn, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích của xã hội, các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ: “Từng bước hoàn thiện thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và
quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan,
thiếu căn cứ”. Trên tinh thần đó, BLTTHS năm 2015 đã hoàn thiện thủ tục giám
đốc thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị, nhằm khắc phục
tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ, qua đó nâng cao hiệu quả áp dụng thủ
tục giám đốc thẩm, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.
Mặc dù các quy định của BLTTHS về thủ tục giám đốc thẩm đã từng bước
được hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu các quy định của BLTTHS
năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm, đối chiếu với thực tiễn áp dụng, nhận thấy quy
định này vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế, gây khó khăn, vướng mắc cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng. Bên cạnh đó, trong khoa
học pháp lý nước ta, thủ tục giám đốc thẩm được một số tác giả nghiên cứu từ các
góc độ và với các mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung lý luận về thủ tục giám đốc
thẩm so với các vấn đề khác của tố tụng hình sự chưa phát triển. Đặc biệt là chưa có
công trình nào nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm từ thực tiễn xét xử của TAND
cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Mảng tri thức về đề tài này hiện còn nhiều nội
dung cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
1


Thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố
Hồ Chí Minh cơ bản đáp ứng yêu cầu đặt ra. Số lượng và chất lượng kháng nghị của
Tòa án và VKS ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên vẫn có trường hợp do nhận
thức không đúng dẫn đến kháng nghị chưa chính xác và tạm đình chỉ thi hành bản
án, sau đó HĐXX giám đốc thẩm không chấp nhận.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu về thủ tục
giám đốc thẩm hình sự là một yêu cầu khách quan và cần thiết, nhằm lý giải một
cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra.
Từ những lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Giám đốc thẩm án hình sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã công bố, cho thấy có một số
công trình đề cập về giám đốc thẩm hình sự như sau:
- Về Giáo trình có các công trình: Trường Đại học Luật Hà nội (2008), Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà nội (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội; và Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của các cơ
sở đào tạo luật khác ở nước ta.
- Về Bình luận khoa học có các công trình: GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ
biên) (2004), Bình luận khoa học BLTTHS, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2011), Bình luận khoa học BLTTHS năm
2003, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
Các công trình trên khi đề cập đến thủ tục giám đốc thẩm chỉ nêu khái quát
và ngắn gọn về tính chất của giám đốc thẩm, căn cứ và trình tự kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm; thẩm quyền giám đốc thẩm, thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm và
một số vấn đề liên quan khác.
- Nghiên cứu dưới góc độ Luận án Tiến sĩ Luật học, có công trình: Phan Thị
Thanh Mai (2007), Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luật án Tiến sĩ
Luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
2


- Nghiên cứu dưới góc độ Luận văn Thạc sĩ Luật học có các công trình:
Nguyễn Thị Hạnh Vân (2015), Giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luật văn Thạc sĩ Luật học, bảo
vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Quản Thị Ngọc Thảo (2007), Giám đốc
thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luật văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngoài còn một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như:
Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí TAND, số
7/2009; Vũ Gia Lâm, Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp
chí TAND, số 14/2006; Nguyễn Văn Trượng, “Thực trạng thi hành quy định của
BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí
TAND, số 7/2011; Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân sự”
trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9/2005; Đinh Văn Quế, “Căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22/2004.
Qua nội dung các công trình nghiên cứu dưới góc độ Luận án Tiến sĩ Luật
học, Luận văn Thạc sĩ Luật học và các bài viết nêu trên cho thấy đề tài về thủ tục
giám đốc thẩm đã được một số nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu và những người
làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Các tác giả đã nghiên cứu những vấn
đề cơ bản về giám đốc thẩm và có những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt lý luận
và thực tiễn. Nhưng xét về nội dung, một số công trình có phạm vi nghiên cứu quá
rộng, ngược lại một số công trình chỉ nghiên cứu một số khía cạnh nhất định liên
quan thủ tục giám đốc thẩm, như phát hiện một số bất cập trong luật thực định cũng
như một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Một số vấn đề về mặt lý
luận liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm chưa được làm rõ, còn nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn, nhiều khía cạnh pháp lý cần được tiếp tục nghiên cứu một cách
toàn diện và sâu sắc hơn. Mặt khác, thực tiễn hoạt động xét xử giám đốc thẩm chưa
đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, chưa phù hợp trong tình hình
hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.

3



Như vậy đề tài: “Giám đốc thẩm án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh” không
trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng áp dụng thủ tục Giám đốc thẩm
của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự của
TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu phải thực hiện được
các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận về thủ
tục giám đốc thẩm nhằm đưa ra những khái niệm, khái quát các quy định của pháp
luật nước ta cũng như của một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về thủ tục giám đốc thẩm trong
BLTTHS hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những bất cập của các quy định về
thủ tục giám đốc thẩm trong luật thực định Việt Nam cần khắc phục;
- Khảo sát thực trạng áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh
việc áp dụng và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục
Giám đốc thẩm trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự của TAND cấp cao tại
thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục Giám đốc thẩm trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại

thành phố Hồ Chí Minh.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn áp dụng
thủ tục giám đốc thẩm, trên cơ sở tiếp cận các văn bản pháp luật có liên quan, chủ
yếu là văn bản pháp luật tố tụng hình sự ban hành từ năm 1988 đến nay. Tập trung
chủ yếu vào thủ tục giám đốc thẩm trong mối liên hệ với các chế định khác của tố
tụng hình sự.
- Về không gian: Thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí
Minh, trên cơ sở các vụ án được TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử
theo giám đốc thẩm.
- Về thời gian: từ khi thành lập TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
(ngày 01/6/2015) đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là Phép biện
chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp.
5.2. Phương nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp được sử dụng trong
quá trình phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và so sánh với các quy
định của pháp luật trước đó.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trên cơ sở nghiên cứu một
số vụ án điển hình đã xét xử.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng trên cơ sở tham khảo ý kiến đánh
giá của các chuyên gia có trình độ cao trong ngành Tòa án và VKS để xem xét,

nhận định và tìm ra giải pháp về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng trên cơ sở điều tra quan
điểm của những người trực tiếp làm công tác giám đốc thẩm hình sự của TAND cấp
cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt khoa học: Đề tài đã góp phần làm rõ bản chất pháp lý, cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc hình thành thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam và đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận về thủ tục giám
đốc thẩm.
- Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Đề tài góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh. Với ý
nghĩa đó, kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội
dung được chia làm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục giám đốc thẩm hình sự
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ
tục giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

6


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm thủ tục giám đốc thẩm hình sự
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ
quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy
định của luật tố tụng hình sự.
Ở các nước trên thế giới, do truyền thống pháp luật khác nhau mà quan niệm
về thủ tục giám đốc thẩm cũng có sự khác nhau. Ở các nước theo truyền thống luật
dân sự (civil law), thường thực hiện chế độ “hai cấp xét xử”. Theo đó, sau khi vụ án
được xét xử theo thủ tục sơ thẩm (xét xử lần đầu), bản án, quyết định của Toà án
cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay, đương sự, bị cáo có quyền kháng cáo,
VKS/Viện công tố có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn luật
định để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm chỉ có hiệu lực khi đã hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án (có tính chung thẩm). Tuy nhiên,
kể cả sau khi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp trên
vẫn có quyền xét lại bản án, quyết định đó theo thủ tục luật định nhằm khắc phục vi
phạm của bản án, quyết định đó. Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án thường được gọi là thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục phá án.
Trái lại, ở các nước theo truyền thống thông luật (common law), thường
không thực hiện chế độ “hai cấp xét xử”. Sau khi vụ án được xét xử, nếu không
đồng ý với phán quyết của Toà án, bị cáo có quyền kháng cáo. Việc kháng cáo có
thể tiến hành ở Toà án các cấp. Như vậy thủ tục tố tụng chỉ bao gồm: thủ tục tố tụng
tại Toà sơ thẩm và thủ tục tố tụng tại Toà kháng cáo. Tuy nhiên, ở mỗi cấp Toà án,

7



pháp luật lại quy định căn cứ, thủ tục kháng cáo khác nhau. Như vậy, ở các nước
này, pháp luật không quy định thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án như ở các
nước theo truyền thống luật dân sự.
Việt Nam thực hiện chế độ “hai cấp xét xử” như các nước theo truyền thống
luật dân sự. Việc xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
được tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm khi có kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm của chủ thể có thẩm quyền.
Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án đã
được pháp luật Việt Nam quy định khá sớm. Tuy nhiên, thuật ngữ “giám đốc thẩm”
chính thức được pháp luật quy định lần đầu tiên trong Luật tổ chức TAND năm
1981. Tiếp đó, được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, trong đó
có BLTTHS năm 1988, 2003 và 2015.
Điều 241 BLTTHS năm 1988 quy định tính chất của giám đốc thẩm là “việc
xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát
hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án”. Theo quy định này, trường hợp
phát hiện thấy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có vi phạm
pháp luật, những người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm (Viện trưởng,
Phó Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án, Phó Chánh án TAND tối cao, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh và Chánh án TAND cấp tỉnh) sẽ kháng nghị bản án, quyết
định đó. Trên cơ sở kháng nghị, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm sẽ xem xét
lại vụ án và ra một trong những quyết định: bác kháng nghị, sửa bản án, quyết định
bị kháng nghị hoặc huỷ bản án quyết định bị kháng nghị (và giao cho Toà án cấp
dưới) xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Như vậy, cũng giống như giai
đoạn trước đây, trong giai đoạn này, giám đốc thẩm được hiểu là việc Toà án cấp
giám đốc thẩm xét xử lại vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Biểu hiện rõ
nhất của hoạt động “xét xử lại vụ án” là ở quy định Toà án giám đốc thẩm có quyền
sửa lại nội dung của bản án hoặc quyết định bị kháng nghị.
Điều 272 BLTTHS năm 2003 quy định “giám đốc thẩm là việc xét lại bản án

hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi

8


phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”. Điểm khác biệt của BLTTHS
năm 2003 là phải có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì mới xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm. Đồng thời, xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử, BLTTHS năm
2003 đã quy định bỏ thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong việc sửa bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ có quyền bác kháng
nghị, giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc huỷ bản án, quyết
định đó để điều tra lại hoặc xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Điều 370 BLTTHS năm 2015 giữ nguyên quy định về tính chất của giám đốc
thẩm nhưng có một số sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
trong việc sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực, tương tự như BLTTHS năm
1988. Quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm là phù hợp,
tương đồng với pháp luật các nước.
Trong những năm gần đây, khoa học luật tố tụng hình sự nước ta đã có một
số nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đưa ra
khái niệm về giám đốc thẩm, ngoài quy định trong BLTTHS về “tính chất của giám
đốc thẩm”, được xem là định nghĩa về giám đốc thẩm như đã nêu trên. Những định
nghĩa nêu trên của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015
đã nêu được tính chất, căn cứ và nội dung của việc kháng nghị để bản án có hiệu lực
pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, định nghĩa này
còn thiếu những đặc điểm quan trọng của giám đốc thẩm với tư cách là một thủ tục
đặc biệt của tố tụng hình sự nhằm khắc phục những vi phạm, sai lầm trong quá trình
giải quyết vụ án.
Tính chất của thủ tục giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc xử lý vụ án. Tính chất này của giám đốc thẩm là một trong những

căn cứ để phân biệt với thủ tục phúc thẩm cũng như thủ tục tái thẩm trong tố tụng
hình sự. Một vấn đề quan trọng đặt ra là để xác định được vi phạm nghiêm trọng
trong quá trình giải quyết vụ án thì cơ chế phát hiện, trình tự, thủ tục mà Toà án và
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân theo là gì để hướng tới mục đích khắc phục

9


sai lầm, trả lại sự khách quan, công bằng cho cho những đối tượng liên quan đến vụ
án. Những nội dung này được qui định trong pháp luật tố tụng hình sự các nước và
tuỳ theo đặc điểm kinh tế, xã hội, pháp luật cũng như tình hình đấu tranh chống tội
phạm của mỗi quốc gia mà có những qui định cho phù hợp.
Như vậy, thủ tục giám đốc thẩm được quy định với mục đích nhằm kịp thời
sửa chữa khắc phục những sai lầm trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật khi có kháng nghị của người có thẩm quyền. Việc sửa chữa sai lầm được thực
hiện thông qua quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm. Bằng các quyết định của
mình Hội đồng giám đốc thẩm khắc phục gián tiếp các sai lầm thông qua việc hủy
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, xét xử lại hoặc đình chỉ
vụ án; và sắp tới khi BLTTHS năm 2015 chính thức có hiệu lực thì Hội đồng giám
đốc thẩm còn có thêm thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm về giám đốc thẩm như
sau: Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình nhằm xác định và
khắc phục những vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án dựa trên những căn cứ kháng nghị của người có
thẩm quyền kháng nghị theo qui định của pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm hình sự
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy giám đốc thẩm có những đặc
điểm sau:
- Thứ nhất, giám đốc thẩm không phải là một giai đoạn mà chỉ là thủ tục đặc
biệt của tố tụng hình sự nhằm xem xét, khẳng định có hay không các vi phạm của

bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng nghị
thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc thẩm tra, xem xét những bản
án, quyết định bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm được tiến hành theo các
qui định của luật tố tụng hình sự nhằm xác định lại sự thật khách quan vụ án. Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý là Hội đồng giám đốc thẩm không xử lại bản án mà chỉ xem

10


xét và khẳng định có hay không các vi phạm của bản án hoặc quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật.
Với đặc điểm này, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm được đưa ra các
quyết định sau:
1/ Không chấp nhận kháng nghị và giữa nguyên bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật, đây là sự khẳng định không có sự vi phạm nghiêm trong trong
bản án có hiệu lực pháp luật, việc kháng nghị là không có căn cứ.
2/ Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án,
trường hợp này được coi là có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn đến việc giải
quyết vụ án không khách quan, sự việc phạm tội không xẩy ra hoặc có sự việc phạm
tội nhưng hành vi của người bị kết án không cấu thành tội phạm. Vì vậy, bản án có
hiệu lực pháp luật bị Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy đồng thời với quyết
định đình chỉ vụ án.
3/ Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc
xét xử lại. Đây là trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm xác nhận và khẳng định có
sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và cần
phải tiến hành lại ở các giai đoạn điều tra hoặc xét xử để đảm bảo tính khách quan
của vụ án.
BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm thẩm quyền: 1/ Hủy bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án

cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật. 2/ Sửa
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, Giám đốc thẩm là sự khắc phục những sai lầm của các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử đối với những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật.
Theo pháp luật hiện hành, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là hoạt động
chứng minh nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, còn người
bị kết án có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Qui định như

11


vậy, bởi vì quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm
tội. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quy
định hành vi nào là tội phạm đồng thời buộc người có hành vi phải gánh chịu hậu
quả pháp lý bất lợi bằng bản án của Toà án hoặc các quyết định của cơ quan có
thẩm quyền.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, để truy cứu trách nhiệm của
một người buộc Nhà nước phải có những chứng cứ chứng minh hành vi của họ là
phạm tội và đi ngược lại với lợi ích của xã hội. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng
không chứng minh được hành vi phạm tội của họ thì không thể buộc tội và truy cứu
trách nhiệm hình sự họ.
Để việc thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của một người nào
đó, Nhà nước lập ra các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ chứng minh tội phạm.
Ở Việt Nam các cơ quan đó là CQĐT, VKS, Toà án. Các cơ quan này có nhiệm vụ
phải áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, đúng người, đúng tội, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiện hình sự.

Khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghĩa vụ chứng minh, pháp luật
quy định cho các cơ quan này được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ cần
thiết, phù hợp với nhiệm vụ chứng minh tội phạm đồng thời phải đảm bảo tôn trọng
các quyền tự do của công dân.
Nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu có giai đoạn nào cơ quan
tiến hành tố tụng mắc sai lầm mà khi bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật mới phát hiện ra sai lầm đó thì nghĩa vụ khắc phục phải là các cơ quan
tiến hành tố tụng thông qua thủ tục giám đốc thẩm.
Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm là chung thẩm không bị kháng nghị
và có hiệu lực thi hành ngay sau khi quyết định đó được tuyên. Đây là hậu quả pháp
lý của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự buộc các bên liên quan phải thi
hành. Đồng thời, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm trong trường hợp này là

12


sự khắc phục những sai lầm của các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với
những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trả lại sự khách quan,
công bằng cho vụ án.
Thứ ba, Thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành khi phát hiện và khẳng
định được những vi phạm pháp luật của bản án có hiệu lực pháp luật và được những
người có thẩm quyền kháng nghị dựa trên những căn cứ kháng nghị được qui định
trong luật.
Việc phát hiện vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án pháp luật các nước đều qui định cho mọi công dân, các cơ
quan nhà nước và tổ chức xã hội, nhưng trước hết thuộc về người bị kết án, VKS và
Toà án. Qui định này xuất phát từ quyền được giám sát đối với hoạt động của cơ
quan nhà nước nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng của công dân
và xã hội.
Ở nước ta, theo qui định tại điều 274 BLTTHS năm 2003 thì: “Người bị kết

án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật
trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo
cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này”.
Điều 372 BLTTHS năm 2015 giữ nguyên quy định này.
Chủ thể của quyền phát hiện vi phạm pháp luật đối những bản án và quyết
định có hiệu lực của toà án rất rộng, có thể nói đó là quyền của tất cả xã hội nhưng
việc xác định và chấp nhận sự phát hiện đó lại thuộc về một số cơ quan tiến hành tố
tụng. Do đặc điểm về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước ta nên VKS
ngoài chức năng thực hành quyền công tố còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự. Vì vậy, việc xem xét và chấp nhận phát hiện vi
phạm của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được luật tố tụng hình sự được
qui định đối với cả những người có thẩm quyền của cơ quan Toà án và VKS.
Việc chấp nhận phát hiện vi phạm của bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật được thể hiện bằng quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền theo qui
định của pháp luật và phải dựa trên những căn cứ nhất định. Thông thường, luật tố

13


tụng hình sự các nước qui định căn cứ kháng nghị thuộc về bốn nhóm vấn đề, đó là:
1/ Thủ tục điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ; 2/ Kết luận
trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ
án; 3/ Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc
xét xử; 4/ Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS. Nội dung của
những căn cứ này thực chất là những biểu hiện của việc phạm pháp luật trong các
bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự được hình thành dựa trên những
cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây.
1.2.1. Cơ sở lý luận

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm
vụ áp dụng mọi biện pháp của luật tố tụng hình sự qui định nhằm xác định sự thật
của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc
phải chứng minh mình vô tội. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự không
chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đều quy định trách nhiệm này.
Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án đều được giải quyết khách quan, công
bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mà có một số trường hợp sau khi bản
án đã có hiệu lực pháp luật mới phát hiện những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải có cơ chế khắc phục những sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật được phát hiện sau khi bản án đã có hiệu
lực pháp luật.
Những sai lầm được phát hiện từ những bản án hoặc quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan và nó
tồn tại như một quy luật. Bởi lẽ, nhận thức chân lý là một quá trình phản ánh nhận
thức của con người từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến

14


bản chất. Đó là quá trình trải qua hai giai đoạn tất yếu từ nhận thức cảm tính (trực
quan sinh động) đến nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), từ việc thu thập, kiểm tra
chứng cứ đến việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được nhằm làm rõ
tình tiết của vụ án. Mặt khác, nhận thức còn là một quá trình mâu thuẫn giữa biết ít
và biết nhiều, biết chưa đầy đủ và biết đầy đủ và phải đặt các sự vật hiện tượng
trong mối quan hệ tổng thể, luôn vận động biến đổi nên nó phụ thuộc rất nhiều vào
chủ thể của quá trình nhận thức. Do vậy, có nhận thức sai lầm là không tránh khỏi.
Sai lầm của bản án hoặc quyết định của Toà án được thể hiện dưới dạng bỏ

lọt tội phạm (bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội); làm oan người vô tội (xét
xử người không có tội, hành vi của họ không cấu thành tội phạm); xét xử không
đúng tội danh, mức án không phù hợp (xử nặng hoặc xử nhẹ, không đúng tính chất,
mức độ hành vi phạm tội); có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử. Điều đó gây thiệt hại đến lợi ích của bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác, ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây
mất niềm tin trong nhân dân, vi phạm các nguyên tắc của BLTTHS như: xác định
sự thật của vụ án; đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.
Việc khắc phục những sai lầm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án ở các giai đoạn trước đó là việc làm cần thiết mang tính tất
yếu, là yêu cầu khách quan đặt ra đối với Toà án và các cơ quan tiến hành tố tụng
khác. Thủ tục giám đốc thẩm là cơ chế đặc biệt để khắc phục sai lầm trong các bản
án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn giải quyết án cho thấy có rất nhiều sai lầm troHng quá trình điều
tra, truy tố, xét xử, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án không đúng pháp luật.
Nhiều vụ án oan trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam trước đây và một số vụ
chấn động gần đây trong cả nước và khu vực phía nam như vụ Huỳnh Văn Nén,
Hàn Đức Long ... cho thấy cơ chế khắc phục oan, sai trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự thong qua thủ tục xét lại bản án, quyết định đã co hiệu lực pháp luật của
Tòa án là hết sức cần thiết.

15


Khi bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mới phát
hiện có sai lầm thì tuỳ theo từng hình thức và mức độ của sai lầm đó mà chia thành
các dạng khác nhau: Thứ nhất, phát hiện ra các tình tiết mới của vụ án mà trong các
giai đoạn tố tụng trước đó không xác định được; Thứ hai, phát hiện ra những vi
phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng.
Đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc
quyết định mà trong quá trình giải quyết vụ án chưa xác định được. Những tình tiết
mới này do những người tiến hành tố tụng không phát hiện và xác định được khi
giải quyết vụ án và nó ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án thì được được xét
lại theo trình tự tái thẩm. Khi tiến hành thủ tục này thì bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật đó có thể được hủy để điều tra lại, truy tố lại hoặc xét xử lại.
Đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có những vi phạm pháp luật thì được tiến hành theo trình tự giám đốc thẩm.
Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt của tố
tụng hình sự. Thủ tục này chỉ có thể tiến hành khi có kháng nghị của những cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Tuy nhiên, không phải
tất cả các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án được phát hiện đều là
căn cứ để xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ là những vi phạm
nghiêm trọng ảnh hưởng tới tính khách quan của bản án. Qui định này nhằm đảm
bảo sự ổn định của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên những vi
phạm không nghiêm trọng, không ảnh hưởng nhiều tới tính khách quan của vụ án
và đặc biệt là không ảnh hưởng tới trách nhiệm hình sự của người bị kết án thì thì
không được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Việc “xét lại” bản án đã có hiệu lực pháp luật của cấp giám đốc thẩm được
hiểu đó là hoạt động thẩm tra, xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản
án hoặc quyết định đó có phù hợp với các quy định của luật hình sự không và quá
trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có tuân thủ những qui định của

16


luật tố tụng hình sự không. Khi xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ phải xem
xét một số vấn đề như: việc định tội có đúng tội danh được quy định trong BLHS

không? Căn cứ áp dụng hình phạt có đúng không? áp dụng các tình tiết giảm nhẹ,
tình tiết tăng nặng có đúng với quy định Luật hình sự không, phần kết luận của bản
án hoặc quyết định đó có phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, phù hợp
các chứng cứ, tình tiết được thẩm tra, xác minh tại phiên tòa không.
Như vậy, giữa thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm tuy có điểm chung là xét lại
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện ra sai lầm ảnh hưởng
tới tính khách quan của vụ án và trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án nhưng
khác nhau ở chỗ nếu phát hiện ra tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án thì xét lại
theo thủ tục tái thẩm còn nếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải
quyết vụ án thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Chính sự khác biệt này
của hai thủ tục này đã quyết định nội dung việc xem xét và phán quyết của bản án
tái thẩm và giám đốc thẩm. Nếu như quyết định tái thẩm liên quan đến nội dung của
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của Toà án thì bản án quyết định giám đốc
thẩm chỉ xác định có hay không có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án.
Giám đốc thẩm cũng khác với giám đốc xét xử. Giám đốc xét xử là việc Tòa
án cấp trên kiểm tra hoạt động xét xử của TAND cấp dưới về công tác xét xử thông
qua đó kịp thời uốn nắn, sửa chữa hoặc hủy bỏ những sai lầm, thiếu sót nhằm đảm
bảo bản án được ban hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Giám đốc xét xử
bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như: Kiểm tra, phát hiện những thiếu sót thông
qua đoàn thanh tra; giải quyết các khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và của các công
dân khác; thẩm định lại các bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới; kháng
nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm; thực hiện xét xử giám đốc thẩm; hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng
thống nhất pháp luật; tổng kết kinh nghiệm hàng năm của TAND tối cao.
Như vậy, thủ tục giám đốc thẩm được quy định với mục đích nhằm kịp thời
sửa chữa khắc phục những sai lầm trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
17



luật khi có kháng nghị của người có thẩm quyền. Việc sửa chữa được thực hiện
thông qua quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm. Bằng các quyết định của mình
Hội đồng giám đốc thẩm khắc phục gián tiếp bằng việc hủy án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Thông qua hoạt
động đó Tòa án cấp giám đốc thẩm thực hiện mục đích bảo vệ lợi ích xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
Ngoài những mục đích trên, giám đốc thẩm có ý nghĩa rất lớn trong hoạt
động tổng kết xét xử của ngành Tòa án hàng năm. Kết quả thống kê toàn ngành
giúp cho Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đề ra các Nghị quyết hoặc phối hợp
với các cơ quan hữu quan ra Thông tư liên tịch hướng dẫn Tòa án các cấp trong
hoạt động xét xử. Đồng thời, qua việc giám đốc thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng
còn phát hiện ra những quy định bất hợp lý của BLHS, BLTTHS và các văn bản
quy phạm pháp luật khác để kịp thời có những kiến nghị nhằm sửa đổi bổ sung cho
phù hợp với thực tiễn.
1.3. Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
của một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.3.1.1. Quá trình hình thành, phát triển thủ tục giám đốc thẩm trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu chế định giám đốc thẩm thì việc nghiên cứu một
cách khoa học và đầy đủ có hệ thống quá trình hình thành và phát triển các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục giám đốc thẩm là thực sự cần thiết. Nó
cung cấp cho chúng ta một kiến thức pháp lý, khoa học để từ đó giúp cho việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự nói chung và chế định giám đốc thẩm nói riêng cho
phù hợp với tình hình thực tế xã hội. Có thể đánh giá quá trình hình thành, phát
triển thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam theo các giai
đoạn như sau:
- Giai đoạn trước cách mạng Tháng 8 năm 1945
Trong thời kỳ pháp thuộc, nền tư pháp nước ta là nền tư pháp thuộc địa và

nửa phong kiến được đặt dưới chính sách chia để trị. Thời kỳ này Việt Nam chia
18


thành ba kỳ, mỗi kỳ được đặt dưới một chế độ chính sách khác nhau. Nam Kỳ là
thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ và Bắc Kỳ được đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Tại
Trung Kỳ, chính quyền nhà Nguyễn tuy vẫn có một số quyền lực nhất định nhưng
đều bị thực dân Pháp kiểm soát gắt gao. Còn Bắc Kỳ tuy không phải là thuộc địa
nhưng hầu hết mọi quyền lực đều tập trung vào tay nhà cầm quyền Pháp.
Do khác nhau về chế độ chính trị nên hệ thống Toà án ở Việt Nam trở nên
phức tạp. Có thể phân thành hai loại: Toà án Pháp và Toà án Việt Nam. Tại khắp ba
kỳ, các Toà án Pháp đủ các cấp được thành lập, có thẩm quyền xét xử hầu hết các
vụ án hình sự, dân sự, thương sự. Những Toà án này thuộc hệ thống tư pháp thuộc
địa Pháp, đặt dưới quyền kiểm soát của Toà phá án Paris. Nguyên tắc xét xử hai cấp
được áp dụng khá triệt để. Đương sự có quyền kháng cáo một lần đề nghị Toà
thượng thẩm xét lại bản án hình sự. Các Toà án thượng thẩm xét xử phúc thẩm các
bản án của Toà án cấp dưới bị kháng cáo. Các Bản án phúc thẩm chỉ có thể được xét
lại bởi Toà phá án Paris theo trình tự phá án (giám đốc thẩm). Bên cạnh đó tại mỗi
kỳ còn có Toà án Việt Nam do người Việt Nam đảm nhiệm nhưng đặt dưới sự kiểm
soát của công viên sứ người Pháp. Hệ thống Toà án này bao gồm Toà sơ cấp và Toà
thượng thẩm. Các Toà án này xét xử những vụ án liên quan đến quyền lợi người
Việt Nam. Hệ thống Toà án Việt Nam không có Toà phá án nên quyền hạn giám
đốc thẩm giao luôn cho Toà thượng thẩm.
Thời kỳ này thủ tục giám đốc thẩm chưa được quy định chặt chẽ nhưng nó
cũng đặt nền tảng cho việc phát triển các quy phạm sau này.
- Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1988.
Khi cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được
thành lập. Nhà nước ta đã ban hành một số sắc lệnh nhằm điều chỉnh tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp như: Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về thiết
lập Tòa án Quân sự [5]; Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và

các ngạch Thẩm phán [6]; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền
các Toà án và sự phân công trong Toà án [7]; Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng [8].

19


Khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, thẩm quyền của Toà án ngày càng được
mở rộng. Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án đã xuất hiện những sai lầm,
thiếu sót của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Toà án được pháp luật Việt Nam quy định trong giai đoạn
này. Đầu tiên phải kể đến Thông tư số 321/VHH-CT ngày 12/2/1958 của Bộ Tư
pháp về việc yêu cầu các Toà án phải nghiên cứu giải quyết các đơn thư khiếu nại
về các vụ án đã xét xử chung thẩm quy định “Đối với những việc đã xử rồi… nếu
thấy sai hoặc đúng không rõ ràng thì tuỳ từng trường hợp có kế hoạch giải quyết
thích đáng (báo cáo cấp trên đề nghị kháng cáo hay xin xử lại hoặc đặt vấn đề điều
tra, xác minh lại…)” [14, tr.14]. Sau đó Bộ tư pháp và TAND tối cao ra Thông tư số
02/TT ngày 13/1/1959 và thông tư số 04/TT ngày 3/2/1959 quy định thủ tục xét lại
bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật nay phát hiện có sai lầm. Các thông tư
này quy định chỉ đặt ra việc xét lại bản án hoặc quyết định hình sự đã có hiệu lực
pháp luật đối với các can phạm đang bị giam giữ thi hành án và thuộc một trong ba
trường hợp: xử oan, tội nặng xử nhẹ, tội nhẹ xử nặng. Xử oan là trường hợp Toà án
tiến hành xét xử và ra bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Sau đó xuất
hiện bằng chứng chứng minh can phạm không phạm tội, có phạm tội nhưng được
đại xá hoặc những căn cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng tìm được không đủ cơ sở
kết luận can phạm đã phạm tội. Nếu phát hiện ra vụ án bị xử oan TAND tối cao sẽ
ra quyết định tiêu án và giao cho Toà án cấp phúc thẩm xử lại và tha cho người bị
oan. Tội nặng xử nhẹ là trường hợp Toà án áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với hình
phạt đáng lẽ phải áp dụng hoặc đã áp dụng điều luật nhẹ hơn so với điều luật đáng
lẽ phải áp dụng. Tội nhẹ xử nặng là trường hợp Toà án áp dụng hình phạt đối với bị

cáo cao hơn so với hình phạt đáng lẽ phải áp dụng [19, tr.30-33]. Nghị định của Thủ
tướng Chính phủ số 318/TTG ngày 20/10/1959 quy định TAND tối cao là cơ quan
xét xử cao nhất có nhiệm vụ, quyền hạn xử lại hoặc chỉ thị cho Toà án cấp dưới xử
lại các vụ án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm. Thông tư số 29/TT ngày
11/11/1959 quy định đối với bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án phúc thẩm cần
báo ngay cho TAND tối cao để TAND tối cao tiêu án và tuỳ từng trường hợp có thể
tự mình xử lại hoặc giao cho TAND cấp tỉnh xử lại [9].

20


Tiếp đó, thủ tục này đã được quy định cụ thể hơn trong Luật tổ chức TAND
năm 1960. Điều 10, Luật tổ chức TAND năm 1960 quy định “những bản án và
quyết định đã có hiệu lực nếu phát hiện có sai lầm thì được xét lại”. Pháp lệnh ngày
23/3/1969 về nhiệm vụ của Toà hình sự TAND tối cao cũng quy định nhiệm vụ “xử
lại những vụ án do Toà hình sự hoặc Toà phúc thẩm TAND tối cao đã xử mà bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Toà án tối cao giao cho xử lại. Xử lại
những vụ án do TAND cấp dưới đã xử và bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, nhưng Uỷ ban thẩm phán, Chánh án TAND tối cao hoặc Viện trưởng
VKSND tối cao kháng nghị”. Như vậy, theo quy định trong giai đoạn này, giám đốc
thẩm là việc Toà án có thẩm quyền xét xử lại vụ án bị kháng nghị [26, tr.13].
Thủ tục giám đốc thẩm chính thức được quy định trong Luật tổ chức TAND
năm 1981, tại Điều 12 Luật tổ chức TAND năm 1981 quy định: “Những bản án và
quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu
thấy có vi phạm pháp luật”.
Có thể thấy, các quy định trong giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945
đến trước năm 1988 đã góp phần rất lớn trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm
cũng như kịp thời sửa chữa, khắc phục những sai lầm trong bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp. Tuy nhiên, do tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội chưa ổn định nên các quy định về giám đốc thẩm còn có những hạn chế

nhất định nên việc hoàn thiện các quy định pháp luật cho phù hợp với thực tiễn cuộc
sống là rất cần thiết.
- Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo hướng xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước đã đưa đến những thành tựu trong việc ổn định về chính
trị, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực thì cũng xuất hiện những
hiện tượng tiêu cực mới, pháp luật có lúc bị buông lỏng, tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp, còn nhiều vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự dẫn đến
oan sai, vi phạm quyền và lợi ích của công dân trong điều tra, truy tố, xét xử. Trong

21


×