VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ QUỲNH THANH
TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trần Văn Luyện
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Trần Văn Luyện. Các số liệu và trích dẫn trong
luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu của Luận
văn không trùng lặp với bất kỳ công trình nào khác. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu
của mình.
Tác giả luận văn
Ngô Quỳnh Thanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........7
1.1. Những vấn đề lí luận về tội tàng trữ trái phép chất ma túy................................ 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy....... 11
Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2012 - 2017 ....................................................................... 19
2.1. Thực tiễn định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2017 .............. 19
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
giai đoạn 2012 - 2017 .............................................................................................. 37
2.3. Những vi phạm, hạn chế và nguyên nhân của những vi phạm, hạn chế trong
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy
của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 - 2017 .... 53
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ
THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................................... 57
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ........................................................................... 57
3.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ
thẩm phán và hội thẩm nhân dân ............................................................................ 63
3.3. Các giải pháp khác ........................................................................................... 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 70
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
CTTP
Cấu thành tội phạm
Thông tư liên tịch số
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-
17/2007/TTLT
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
Thông tư liên tịch số
Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-
08/2015/TTLT
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tỉ lệ % số vụ án, số bị cáo xét xử về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy so với tổng số vụ án, số bị cáo xét xử các tội về ma túy quy định tại Điều
194 BLHS 1999.
Bảng 2.2. Hình phạt chính và hình phạt bổ sung được áp dụng đối với các
bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy giai đoạn 2012 - 2017.
Bảng 2.3. Nhân thân của các bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, giai đoạn
2012 - 2017.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma túy là vấn đề mang tính toàn cầu. Cuộc chiến phòng, chống ma túy là
cuộc chiến không chỉ của riêng quốc gia nào. Các quốc gia, các tổ chức quốc tế
đã và đang không ngừng tăng cường hợp tác trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm và tệ nạn ma túy thể hiện bằng việc kí kết các công ước quốc tế
về kiểm soát ma túy như Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961,
Công ước về các chất hướng thần năm 1971, Công ước về chống buôn bán bất
hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988, đồng thời đầu
tư nhiều nguồn lực với mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tiến tới xóa bỏ ma túy khỏi
đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, tình hình sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán và sử dụng
trái phép chất ma túy ngày càng diễn ra phức tạp. Hoạt động của bọn tội phạm
ngày càng tinh vi, liều lĩnh, chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, truy bắt; đặc
biệt là có sự gắn kết chặt chẽ giữa tội phạm trong nước và tội phạm nước ngoài
gây khó khăn cho công tác đấu tranh với tội phạm này.
Thống kê đến tháng 12/2017 cả nước có 210.751 người nghiện ma túy,
đây là số người nghiện có hồ sơ quản lí, tập trung nhiều ở những thành phố lớn
dẫn đầu là thành phố Hồ Chí Minh là 21.712 người nghiện có hồ sơ quản lí,
đứng thứ 2 là thủ đô Hà Nội có 12.803 người nghiện có hồ sơ quản lí. Hà Đông
là một quận nội thành của Thủ đô Hà Nội có số người nghiện ma túy không cao
nhưng diễn biến phức tạp, khó quản lí vì có nhiều người nghiện là lao động tự
do, tạm trú trên địa bàn quận, tính đến ngày 15/01/2018 quận Hà Đông có 354
người nghiện có hồ sơ quản lí, con số này sẽ là cao hơn nữa nếu thống kê đủ số
người nghiện chưa có hồ sơ quản lí, đó cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến nhu cầu sử dụng ma túy cao, đồng nghĩa với tội phạm về tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy phát triển. Quận Hà Đông nằm giữa giao
1
điểm của quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và quốc lộ 70A; cũng là điểm khởi
đầu của quốc lộ 21B nối trung tâm Hà Nội với các huyện phía Nam của Thủ đô
và tỉnh Hà Nam, tỉnh Ninh Bình, giao thông thuận lợi tạo điều kiện để giao lưu,
mua bán với các huyện của Thủ đô và các tỉnh lân cận; lại đang trong quá trình
đô thị hóa rất nhanh với nhiều công trình dân sinh, giao thông lớn được xây
dựng, thu hút nhiều lao động ở các tỉnh, thành về sinh sống. Đây là những yếu tố
thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, song cũng làm phát sinh các loại
tội phạm và tệ nạn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh trật tự trên
địa bàn quận. Đáng chú ý là tình hình tội phạm về ma túy, mặc dù số vụ không
tăng nhiều, thậm chí có năm giảm nhưng tăng số người phạm tội và số lượng ma
túy thu giữ được.
Trước tình hình đó, các cấp, các ngành của quận Hà Đông đã có nhiều
giải pháp nhằm kìm chế, xóa bỏ ma túy trên địa bàn như tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục tác hại của ma túy trong cộng đồng; tăng cường công tác
cai nghiện, quản lí sau cai nghiện,… đặc biệt nâng cao vai trò, hiệu quả của hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma túy. Những năm qua, Tòa án nhân
dân quận Hà Đông đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong hoạt động xét xử tội tàng
trữ trái phép chất ma túy bằng việc ra những bản án nghiêm minh, đúng người,
đúng pháp luật đã góp phần giáo dục, trừng trị người phạm tội nói riêng; răn đe,
phòng ngừa trong xã hội nói chung. Tuy nhiên vẫn còn những vi phạm, hạn chế
xuất phát từ trình độ, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ thẩm phán,
hội thẩm nhân dân và xuất phát từ những bất cập trong quy định của pháp luật
hình sự. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều quy
định mới càng cần hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Chính vì
vậy Tôi chọn đề tài “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả đã tham khảo những tài liệu sau:
Về giáo trình, sách gồm có:
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1, tập 2 , Đại học Luật Hà Nội,
nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2009,
- Giáo trình Lí luận chung về Định tội danh, GS.TS Võ Khánh Vinh, nhà
xuất bản Khoa học Xã hội năm 2013,
- Sách Định tội danh: lí luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành, Lê
Cảm và Trịnh Quốc Toản, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2004,
- Sách Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 (phần các tội phạm), PGS.TS.Trần Văn Luyện đồng chủ biên, nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2018.
Về luận văn, luận án gồm có:
- Phan Thị Hồng Thắng, “Định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Đắk Lắk), năm 2015, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội,
- Nguyễn Huy Hoàng, “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lai
Châu” năm 2015, Luận văn thạc sĩ Luật học, khoa Luật, Học viện Khoa học Xã
hội Việt Nam,
- Nguyễn Kim Thanh, “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long
Biên, thành phố Hà Nội” năm 2016, Luận văn thạc sĩ Luật học, khoa Luật, Học
viện Khoa học Xã hội Việt Nam,
- Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, “Phòng ngừa các tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí
3
Minh hiện nay”, năm 2015, Luận án tiến sĩ, khoa Tội phạm học và phòng ngừa
tội phạm, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu trên dưới góc độ của Luật hình sự hoặc dưới
góc độ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm đưa ra những kiến nghị và giải
pháp hữu ích để áp dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tư cách là tội ghép theo quy định tại
Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà chưa có
công trình nào nghiên cứu tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tư cách là một
tội danh độc lập, trong bối cảnh tội danh này có nhiều điểm mới theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do
vậy, đề tài “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” có
thể coi là một đề tài mới, lần đầu được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật
học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Từ việc nghiên cứu thực tiễn xét xử, cụ thể là định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy của Tòa án nhân dân quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự
cũng như áp dụng pháp luật về tội danh này, từ đó đề xuất các giải pháp bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu và làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lí, quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy;
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội tàng trữ trái phép
chất ma túy của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội từ năm 2012
đến năm 2017 từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình
sự đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các quy định của pháp luật hình sự liên quan tới tội tàng trữ trái phép chất
ma túy.
Thực tiễn xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma túy của Tòa án nhân dân
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội tàng trữ trái phép chất
ma túy dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, trong phạm vi hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm
2017 (tập trung nghiên cứu hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chính sách của
Đảng và nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
tội phạm về ma túy nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu thực tiễn các bản án,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Do đó có ý nghĩa về mặt lí
luận là có thể làm tài liệu nghiên cứu, học tập của học viên; ý kiến tham khảo
cho hoạt động hoàn thiện pháp luật hình sự. Mặt khác có ý nghĩa về thực tiễn là
góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói
chung và hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội nói riêng.
5
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm:
Phần mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lí luận và pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam,
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma túy của Tòa án
nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, giai đoạn 2012-2017.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với
tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Kết luận,
Danh mục tài liệu tham khảo,
Các bảng thống kê.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lí luận về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1.1.1.1. Khái niệm chất ma túy
Trước khi tìm hiểu khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, cần tìm
hiểu khái niệm chất ma túy là gì?
Theo quy định tại Điều 2 Luật phòng, chống ma túy năm 2000 thì chất ma
túy được hiểu như sau:
Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành.
Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng
[19, tr.1].
Các chất ma túy và tiền chất ma túy được Chính phủ ban hành tại Nghị
định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 gồm có 235 chất ma túy được chia làm 3
danh mục và 41 tiền chất.
Ngày 09/12/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2015/NĐ-CP sửa
đổi, bổ sung Danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị
định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các danh mục
chất ma túy và tiền chất. Đã bổ sung thêm 15 chất vào danh mục II và 02 chất
vào danh mục IV.
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
ngày 24/12/2007 hướng dẫn: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất
7
hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ
ban hành” [1, tr.1].
1.1.1.2. Khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có khái niệm về “Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy”, mà chỉ có khái niệm “Tội phạm là gì?”, “Tàng trữ trái
phép chất ma túy là gì?”.
Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 (viết tắt BLHS 1999),
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa” [18, tr.4]
Theo quy định tại khoản 1, Điều 194 BLHS 1999 thì “Người nào tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm” [18, tr.76].
Như vậy, đây là một tội ghép và chỉ nêu tên tội phạm mà không nêu khái
niệm thế nào là “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP (viết tắt là Thông tư liên tịch
số 17/2007/TTLT) ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS 1999, cũng chỉ đưa ra khái
niệm thế nào là “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:
“Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất
ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong
vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người
8
hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất
trái phép chất ma túy…” [1, tr.10].
Khoản 1, Điều 249, Bộ luật Hình sự năm 2015 (viết tắt BLHS 2015) quy
định “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích
mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” [22, tr.159].
BLHS 2015 có quy định cụ thể hơn BLHS 1999 nhưng vẫn chưa nêu
được khái niệm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”?
Mặc dù các quy định của pháp luật chưa đưa ra khái niệm “Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy” nhưng chúng ta có thể căn cứ vào đó và dựa trên khái
niệm “Tội phạm về ma túy” trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 2 của
trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2009:
“Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lí các chất
ma túy của nhà nước” [8, tr.191];
Từ đó đưa ra khái niệm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là: Hành vi
cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà,
ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong
quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích
mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy, được quy định trong
bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
định thực hiện một cách cố ý xâm phạm chính sách thống nhất quản lí các chất
ma túy của nhà nước.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lí của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Khi quy định tội phạm trong luật, cơ quan soạn thảo đã sử dụng các dấu
hiệu để mô tả tội phạm. Trong khoa học luật hình sự, sự mô tả này được gọi là
cấu thành tội phạm (viết tắt CTTP). Cấu thành tội phạm gồm 4 yếu tố đó là
khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Việc phân chia này chỉ có ý
9
nghĩa về mặt nhận thức còn trong thực tế 4 yếu tố này là một thể thống nhất
không thể tách rời đối với từng CTTP cụ thể.
- Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam,
những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự được quy
định tại Điều 8 của BLHS. Hành vi bị coi là tội phạm theo luật hình sự Việt
Nam là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những quan
hệ xã hội đã được xác định đó.
Khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy là chính sách thống nhất
quản lí của nhà nước về các chất ma túy bị tội phạm xâm hại.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm,
bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [7, tr.94].
Đối tượng tác động của tội tàng trữ trái phép chất ma túy là các chất ma
túy và các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy [8, tr.203].
Các chất ma túy và tiền chất được quy định tại Nghị định 82/2013/NĐ-CP
ngày 19/7/2013 của Chính phủ và Nghị định số 126/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số
82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành Danh mục các chất ma
túy và tiền chất.
- Mặt khách quan của tội phạm: Là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan [7, tr.99].
Biểu hiện bên ngoài đó bao gồm hành vi khách quan của tội phạm, hậu
quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của
tội phạm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, ngoài ra còn có những biểu hiện bên
ngoài khác như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, địa
điểm, thời gian, hoàn cảnh phạm tội…
10
Trong CTTP, không phải tất cả những biểu hiện của mặt khách quan được
quy định là dấu hiệu của CTTP. Chỉ hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội là
dấu hiệu được phản ánh trong tất cả các CTTP cơ bản.
Hành vi khách quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất
giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài
vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần
áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…).
Tội phạm hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi trên, hậu quả không
phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này.
- Chủ thể của tội phạm: Là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ
tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [7, tr.122].
Chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định (từ đủ 16 tuổi trở lên (khoản 1 Điều 194
BLHS 1999), từ đủ 14 tuổi trở lên (khoản 2, 3, 4 Điều 194 BLHS 1999)).
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội phạm là những hoạt động bên trong của người phạm
tội, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích. Trong đó, lỗi được phản ánh trong tất cả
các CTTP.
Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, lỗi của người phạm tội là lỗi cố
ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức được rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và có khả năng lựa chọn xử sự theo đúng quy định của pháp
luật nhưng cố tình thực hiện. Mục đích là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này,
tức là mục đích chỉ là tàng trữ, không có mục đích mua bán, vận chuyển hay sản
xuất trái phép chất ma túy.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái
phép chất ma túy
1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
11
- Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời, ngày 03/9/1945,
một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong bài về "Những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: "Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng
mọi thủ đoạn nhằm hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng
gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta... Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc
phiện". Thực hiện chỉ thị của Người, ngày 05/3/1952, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 150/TTg quy định việc xử lý đối với những hành vi vi
phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 225/TTg ngày 22/12/1952 quy định những người có hành vi vi
phạm thể lệ quản lý thuốc phiện có thể bị tịch thu thuốc phiện, phạt tiền hoặc bị
truy tố trước Toà án nhân dân.
Hai Nghị định này chỉ dừng lại việc xử lí đối với hành vi vận chuyển, tàng
trữ trái phép ma túy, vẫn cho phép trồng thuốc phiện do đó tình trạng nghiện ma
túy trong nhân dân vẫn không giảm. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban
hành Nghị định số 580/TTg ngày 15/9/1955 quy định những trường hợp cụ thể
có thể đưa ra Toà án để xét xử; Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 635/VVH-HS
ngày 29/3/1945 và Thông tư số 33/VHH-HS ngày 05/07/1958 hướng dẫn đường
lối truy tố và xét xử những vụ án về buôn lậu thuốc phiện.
Sau khi giải phóng miền Nam, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 76/CP ngày 25/3/19977 về chống buôn lậu thuốc phiện.
Như vậy, có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã sớm nhận
thấy tầm quan trọng của công tác phòng, chống ma túy bằng việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật xử lí đối với hành vi vi phạm trong quản lí thuốc
phiện, tuy nhiên do đặc điểm tình hình nước ta mới giành được độc lập, đang
12
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật,
nên nhiệm vụ này mới chỉ dừng lại ở việc quy định trong các văn bản như Nghị
định, Thông tư, đến khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời hành vi vi phạm về ma
túy mới được quy định thành tội danh cụ thể.
- Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra đời, có một điều luật riêng quy định về “Tội tổ chức dùng chất ma túy” (Điều
203), còn những hành vi vi phạm khác về ma túy được giải quyết bằng các quy
định khác nhau, tương ứng với hành vi cụ thể như Điều 97 “Tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, Điều 166 “Tội buôn bán
hoặc tàng trữ hàng cấm”. Như vậy, theo BLHS năm 1985 thì hành vi tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép ma túy có tính chất, mức độ nguy hiểm như hành
vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hàng hóa thông thường khác dẫn đến mức hình
phạt chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa tội phạm. Trước tình hình đó, BLHS năm
1985 được sửa đổi, bổ sung (tháng 12/1989, tháng 8/1991, tháng 12/1992) đã
tách một số hành vi liên quan tới ma túy thành tội độc lập và quy định trong một
điều luật riêng. Đó là tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các
chất ma túy – Điều 96a và tội tổ chức dùng chất ma túy – Điều 203. Ngày
10/10/1996, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
đã ban hành Thông tư liên ngành số 09/TTLN hướng dẫn Điều 96a và Điều 203.
Ngày 10/5/1997 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung (lần thứ 4) một
số điều của BLHS năm 1985, đã quy định các tội phạm về ma túy thành một
chương riêng - Chương VIIA.
Chương VIIA gồm 14 điều, quy định 13 tội danh, gồm „Tội trồng cây
thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy” – Điều 185a, “Tội sản
xuất trái phép chất ma túy” – Điều 185b, “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” –
13
Điều 185c; “Tội vận chuyển trái phép chất ma túy” – Điều 185d, “Tội mua bán
trái phép chất ma túy” – Điều 185đ; “Tội chiếm đoạt chất ma túy” – Điều 185e...
Trong Chương VIIA, tội phạm về ma túy đã được quy định thành các
điều luật riêng cụ thể, rõ ràng từng hành vi tương ứng với từng khung hình
phạt. Cho thấy tư duy và trình độ lập pháp của Nhà nước ta đã có nhiều tiến
bộ; đồng thời qua đó thấy được việc Đảng, Nhà nước ta đã nhận thức sâu sắc
hơn về tác hại của ma túy và những hành vi vi phạm về ma túy sẽ phải chị u
hình phạt nghiêm khắc.
1.2.2. Quy định tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong Bộ luật Hình sự
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009
- Quy định về tội phạm:
Trong quá trình áp dụng BLHS năm 1985 đã bộc lộ những hạn chế bất cập,
để đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội, ngày 21/12/1999 BLHS mới được
ban hành trên cơ sở kế thừa những thành tựu khi áp dụng BLHS năm 1985. Bộ
luật Hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về ma túy tại Chương XVIII, gồm
10 tội, từ Điều 192 đến Điều 201.
Điều 194 BLHS 1999 được hình thành trên cơ sở ghép 04 điều luật của
BLHS năm 1985, sửa đổi, bổ sung năm 1997 là “Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy” – Điều 185c; “Tội vận chuyển trái phép chất ma túy” – Điều 185d, “Tội
mua bán trái phép chất ma túy” – Điều 185đ; “Tội chiếm đoạt chất ma túy” –
Điều 185e thành “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy”.
Để hướng dẫn áp dụng thống nhất Điều 194 BLHS 1999, Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQHĐTP ngày 15/3/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Điều 194 BLHS
1999; liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP (viết tắt Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT) ngày
14
24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội
phạm về ma túy” của BLHS 1999, trong đó hướng dẫn cách thức, phương pháp
tính, quy đổi định lượng ma túy, định lượng xác định cấu thành tội phạm đối với
các hành vi vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy tạo thuận lợi cho quá
trình giải quyết vụ án về ma túy. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng,
chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết về định lượng, tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của
các chất ma túy, là căn cứ để xác định khung hình phạt áp dụng và mức hình
phạt tương ứng với trọng lượng do hành vi phạm tội gây ra giúp cơ quan tố tụng
và người tiến hành tố tụng dễ dàng áp dụng, tránh được sự tùy tiện. Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT
về định lượng ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự còn nhiều vướng mắc
trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Ví dụ điển hình là việc thực hiện Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17
tháng 9 năm 2014 của Tòa án nhân dân Tối cao về quán triệt, triển khai thực
hiện nghiêm việc giám định hàm lượng chất ma túy theo hướng dẫn của Thông
tư liên tịch số 17/2007/TTLT. (Vấn đề này sẽ được phân tích trong phần thực
tiễn xét xử).
Ngày 14/11/2015 liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP (viết tắt Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT) sửa đổi một số điều của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT đã
góp phần tháo gỡ khó khăn, bất cập khi áp dụng Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT.
- Quy định về hình phạt:
Điều 194 BLHS 1999 quy định hình phạt chính gồm có 4 khung, khung cơ
bản quy định tại khoản 1 có mức hình phạt tù từ 02 đến 07 năm. Khung tăng
nặng quy định tại khoản 2, 3, 4 có mức cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình.
Ngoài hình phạt chính, còn có hình phạt bổ sung như: hình phạt tiền, tịch thu
15
một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định.
1.2.3. Quy định tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong Bộ luật Hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
Qua quá trình thực tế áp dụng Điều 194 BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 cho thấy những khó khăn, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung đó là:
Khó khăn khi xác định tội danh và hình phạt vì xét về hành vi nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm thì hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy và hành
vi chiếm đoạt chất ma túy không nguy hiểm bằng hành vi mua bán trái phép chất
ma túy, nhưng Điều 194 BLHS 1999 lại qui định về định lượng, mức hình phạt
đối với các hành vi này là như nhau nên thực tiễn gặp không ít khó khăn.
Ví dụ như: Trong vụ án vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nếu là
tội phạm đơn lẻ, độc lập thuộc trường hợp đặc biệt thì mức áp dụng hình phạt có
thể là chung thân hoặc tử hình. Nhưng với lượng ma túy như vậy hoặc có thể
nhiều hơn trong vụ án đồng phạm, có tổ chức, nhiều bị cáo hơn và vai trò của bị
cáo này thấp hơn bị cáo khác thì sẽ không áp dụng hình phạt chung thân hoặc tử
hình. Như vậy, cùng một loại hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, nhưng trách
nhiệm hình sự khác nhau trong khi đó tội phạm có tổ chức lại nguy hiểm hơn.
Do đó, để định tội danh và áp dụng mức hình phạt công bằng phù hợp giữa
các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc
chiếm đoạt chất ma túy BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã tách
Điều 194 BLHS 1999 thành 04 tội riêng biệt qui định tại các Điều: tội tàng trữ
trái phép chất ma túy (Điều 249); tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều
250); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội chiếm đoạt chất ma túy
(Điều 252). Nâng tổng số điều luật trong Chương XX BLHS 2015 lên 13 điều
(từ Điều 247 – Điều 259).
Thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW là hạn chế áp dụng hình phạt tử hình
đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc tách Điều 194 BLHS
16
năm 1999 thành các tội phạm độc lập, nhằm bỏ hình phạt tử hình đối với tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Điều 249 và “Tội chiếm đoạt chất ma túy” –
Điều 252 BLHS chỉ áp dụng mức hình phạt cao nhất là chung thân.
Qui định rõ ràng, cụ thể, trực tiếp trong luật về định lượng để truy cứu
trách nhiệm hình sự trong từng tội phạm và qui định khung hình phạt nhẹ hơn so
với Điều 194 BLHS 1999. BLHS 1999 không qui định cụ thể định lượng của
các chất ma túy để xác định cấu thành tội phạm mà căn cứ mục 3.6 Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007
của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ
Tư pháp để xác định mức tối thiểu cấu thành tội phạm cho các hành vi tàng trữ,
vận chuyển trái phép chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
Thay đổi đơn vị tính: Thực tế các chất ma túy khi thu giữ được xác định
bằng gam, kg… hoặc không thu giữ được vật chứng là chất ma túy mà dựa trên
lời khai của các đối tượng để xác định ma túy bằng đơn vị bánh, cây, chỉ… Đây
là những đơn vị tính khối lượng chứ không phải trọng lượng. Vì vậy, BLHS
2015 thay đổi “Trọng lượng” thành “ Khối lượng” để phù hợp với đơn vị tính.
Qui định cụ thể thêm các chất ma túy nằm trong Danh mục chất ma túy ban
hành kèm theo Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ như:
Methamphetamine, Amphetamine, MDMA.
Như vậy, có thể thấy qua việc sửa đổi, bổ sung Điều 194 BLHS 1999,
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định chi tiết, cụ thể mức
định lượng đối với từng tội phạm trong luật, thay đổi đơn vị tính từ “Trọng
lượng” thành “Khối lượng”, tách điều luật nhằm phân hóa trách nhiệm hình sự
giúp cho cơ quan áp dụng pháp luật được chính xác và công bằng hơn, quy định
mức tối thiểu của khung hình phạt ở khoản 1 (khung cơ bản) nhẹ hơn, mặt khác
hạn chế được việc áp dụng hình phạt tử hình theo đúng chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta.
17
Kết luận Chương 1
Căn cứ tình hình thực tế hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật
nào quy định khái niệm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, do đó tác giả đã
nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về ma túy, chất ma túy, tội
phạm, tàng trữ trái phép chất ma túy để đưa ra khái niệm về “Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy” làm tài liệu tham khảo quy định trong luật; đồng thời phân
tích những dấu hiệu pháp lí của tội tàng trữ trái phép chất ma túy giúp cho việc
định tội danh và quyết định hình phạt được chính xác, khách quan. Bên cạnh đó,
tác giả còn khái quát quá trình lịch sử hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy để có cách nhìn
khái quát, tổng hợp thấy được những kinh nghiệm gì trong quá trình lập pháp
cần phải phát huy, kế thừa; những gì là hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, bổ
sung trong thời gian tới.
18
Chương 2
THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
GIAI ĐOẠN 2012 - 2017
2.1. Thực tiễn định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
giai đoạn 2012 - 2017
2.1.1. Nhận thức chung về định tội danh tội tàng trữ trái phép
chất ma túy
2.1.1.1. Khái niệm về định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Áp dụng pháp luật hình sự có nhiều nội dung trong đó có định tội danh,
quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, áp dụng án treo,
xóa án tích… Trong những nội dung trên thì định tội danh có ý nghĩa vô cùng
quan trọng nó là bước đầu tiên để xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội thực tế
đã xảy ra phạm tội gì trong BLHS, đồng thời định tội danh còn là cơ sở cho các
nội dung khác trong áp dụng pháp luật hình sự. Do đó cần phải nghiên cứu khái
niệm định tội danh là gì?
Hiện nay trong lí luận luật hình sự có nhiều khái niệm khác nhau về định
tội danh:
Theo tác giả Lê Cảm, “Định tội danh là một quá trình nhận thức lí luận
có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành
bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ các tài liệu thu thập được và các tình tiết
thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự
phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định”
[4, tr.33].
19
Theo tác giả Nguyễn Kim Thanh, “Định tội danh là hoạt động thực tiễn
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền trên cơ sở
các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự để xác định, so
sánh và ghi nhận về mặt pháp lí sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của
hành vi tội phạm cụ thể trong thực tế đã được thực hiện với các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm của điều luật tương ứng trong phần các tội phạm BLHS quy
định, cũng như các quy định khác trong BLHS có liên quan, qua đó làm tiền đề
phân tích, đánh giá và ra quyết định về trách nhiệm hình sự cũng như hình phạt
của người phạm tội” [26, tr.30].
Tác giả Phan Thị Hồng Thắng đưa ra khái niệm“Định tội danh là hoạt
động thực tiễn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở các quy định
của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự để xác định, so sánh và ghi
nhận về mặt pháp lí sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm
tội cụ thể trong thực tế đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm của điều luật tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy
định, cũng như các quy định khác trong bộ luật hình sự có liên quan, qua đó làm
tiền đề phân tích, đánh giá và ra quyết định về trách nhiệm hình sự cũng như
hình phạt của người phạm tội” [27, tr.9].
Ba khái niệm trên khác nhau về cách diễn đạt nhưng nhìn chung về nội
dung là thống nhất, do đó theo tác giả có thể hiểu định tội danh là “việc xác định
và ghi nhận về mặt pháp lí sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi
tội phạm cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã
được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [39, tr.9].
Từ khái niệm “Định tội danh” nêu trên có thể đưa ra khái niệm “Định tội
danh đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau: Định tội danh tội tàng
trữ trái phép chất ma túy là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lí sự phù hợp
chính xác của hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi
nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng
20