VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG PHAN BÁ PHƯƠNG
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG PHAN BÁ PHƯƠNG
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành:
Luật Kinh tế
Mã số:
60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI, 2017
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Khái quát lý luận về doanh nghiệp xã hội .......................................... 9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại doanh nghiệp xã hội ................... 9
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội .............................................. 9
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội ........................................ 12
1.1.1.3. Phân loại doanh nghiệp xã hội................................................ 17
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của doanh nghiệp xã hội ...................................... 21
1.1.2.1. Về mặt xã hội .......................................................................... 21
1.1.2.2. Về mặt kinh tế - chính trị ......................................................... 23
1.1.2.3. Về mặt pháp lý ......................................................................... 24
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp xã hội ................... 25
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ........ 25
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ... 26
1.2.2.1. Thành lập và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp xã hội .... 26
1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội ......................... 28
1.2.2.3. Giải thể, phá sản doanh nghiệp xã hội ................................... 29
1.2.2.4. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội ..................... 31
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam ................ 37
2.1.1. Một số vấn đề chung của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ....... 37
2.1.2. Đánh giá chung ............................................................................... 39
2.1.3. Những vấn đề hạn chế về pháp luật doanh nghiệp xã hội ........... 43
2.2. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh .......................................................... 49
2.2.1. Tình hình kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .. 49
2.2.2. Tình hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ... 51
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................... 58
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam phải xuất
phát từ đường lối, chính sách của Đảng và nhu cầu quản lý xã hội của Nhà
nước ........................................................................................................... 58
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam phải xuất
phát từ góc độ thực tiễn ............................................................................ 60
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ....... 63
3.2.1. Những kiến nghị về cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với doanh
nghiệp xã hội ............................................................................................. 63
3.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ........ 65
KẾT LUẬN ................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 81
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Dân số trung bình của thành phố Hồ Chí Minh ......................... 50
Bảng 2.2. Thống kê số lượng doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh .. 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Doanh nghiệp xã hội đầu tiên xuất hiện ở Vương quốc Anh từ thế kỷ
XVII. Trong các thế kỷ tiếp theo, lần lượt các mô hình tín dụng vi mô, hợp tác
xã, nhà ở xã hội... ra đời và được nhân rộng ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuy
nhiên, doanh nghiệp xã hội chỉ phát triển mạnh mẽ và trở thành một phong trào
rộng lớn trên thế giới như hiện nay kể từ đầu những năm 1980.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp xã hội. Trong chiến
lược phát triển doanh nghiệp xã hội năm 2002 của Vương quốc Anh có định
nghĩa: “Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm
thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó
hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Doanh nghiệp xã hội
là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng
tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế.
Doanh nghiệp xã hội thường cung cấp các dịch vụ xã hội và việc làm cho các
nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông thôn. Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội còn
cung cấp các dịch vụ cộng đồng, trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, môi
trường”. Tổ chức hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) của Việt Nam đưa
ra quan điểm: “Doanh nghiệp xã hội là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của
các doanh nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích
và điều kiện hoạt động cụ thể. Doanh nghiệp xã hội lấy lợi ích xã hội làm mục
tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu
xã hội / môi trường và mục tiêu kinh tế”.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung, doanh nghiệp
xã hội có các đặc điểm cơ bản sau đây: (i) Phải có hoạt động kinh doanh; (ii) Đặt
1
mục tiêu xã hội lên hàng đầu; (iii) Tái phân phối lợi nhuận; (iv) Sở hữu mang
tính xã hội; (v) Phục vụ nhu cầu của người nghèo, yếu thế trong xã hội. Từ kết
quả hoạt động của các doanh nghiệp xã hội ở một số nước thế giới như: Anh, Mỹ,
Hàn Quốc, Thái Lan… cho thấy doanh nghiệp xã hội cùng với Nhà nước đã và
đang giải quyết khá hiệu quả các vấn đề xã hội, ví dụ như: Giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động, ổn định cuộc sống và nâng cao thu nhập thông qua
giáo dục, đào tạo nghề, cung cấp các dịch vụ thân thiện với môi trường và tăng
cường nhận thức trong cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang phải đối diện với nhiều khó khăn,
thách thức trong quá trình tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội, môi trường
như: còn nhiều hộ nghèo và cận nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, người bị nhiễm chất độc màu da cam, hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải ở người (human immunodeficiency virus infection / acquired
immunodeficiency syndrome - HIV/AIDS), người già neo đơn; tình trạng bạo
lực xã hội, các vấn đề về giáo dục, y tế đều ở tình trạng quá tải, bất hợp lý; tình
trạng vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý rác thải, ô nhiễm không khí... hiện đang ở
mức báo động. Song thực tế, Nhà nước ta vẫn chưa đủ nguồn lực để giải quyết
tốt tất cả các vấn đề nói trên. Bởi vậy, việc phát triển các doanh nghiệp xã hội là
rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của đất nước. Cũng từ kinh nghiệm của
một số nước trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy doanh nghiệp xã hội phát triển và
làm tròn sứ mệnh của mình đối với xã hội cần rất nhiều yếu tố tác động khác
nhau. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là pháp luật điều chỉnh tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội. Pháp luật không những tạo dựng
căn cứ pháp lý vững chắc để bảo vệ, hỗ trợ doanh nghiệp xã hội phát triển, mà
còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội.
Ở Việt Nam, mặc dù trước đây đã có nền móng cho sự phát triển loại hình
doanh nghiệp xã hội, cũng như ưu điểm của nó đối với nền kinh tế - xã hội, cụ
2
thể là đã từng có rất nhiều tổ chức sử dụng kinh doanh như một công cụ để đóng
góp cho cộng đồng, đặc biệt là cho nhóm người yếu thế. Một nghiên cứu năm
2011 do Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) - Hội đồng Anh
phối hợp cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã cho
thấy, ở Việt Nam, có đến gần 200 tổ chức có đầy đủ đặc điểm để trở thành một
doanh nghiệp xã hội, trong số đó, được hình thành sớm nhất là Hợp tác xã Nhân
đạo thuộc Hội người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973; Trung tâm Nghiên
cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng (RTCCD) thành lập tháng 5/1996; Trường
Trung cấp Kinh tế - Du lịch Hoa Sữa thành lập năm 1994; Trung tâm Hỗ trợ
sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) thành lập năm 2008; Trung tâm Nghị lực
sống thành lập năm 2009…v.v. Tuy nhiên, cho đến Luật Doanh nghiệp năm
2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/5/2016
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng
ký doanh nghiệp xã hội, thì doanh nghiệp xã hội mới được pháp luật ghi nhận và
nhận diện một cách khá đầy đủ.
Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, ra đời vì mục tiêu và sứ mệnh
cộng đồng, doanh nghiệp xã hội cần có một khuôn khổ pháp lý đồng bộ và phù
hợp với thực tiễn xã hội, để động viên các chủ thể kinh doanh cùng tham gia chia
sẻ gánh nặng an sinh xã hội với Nhà nước. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành mặc dù mới tạo ra nền tảng cơ bản về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp xã hội, tuy nhiên, đó mới là những cố gắng bước đầu của Nhà
nước đối với những mô hình vì xã hội và cộng đồng này, việc hoàn thiện pháp
luật là yêu cầu nhất thiết để thực hiện những mong muốn vô cùng tốt đẹp của các
sáng lập viên doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ những phân tích ở trên, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Doanh
nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí
Minh”, để nghiên cứu trong khuôn khổ Luận văn Thạc sĩ luật học nhằm tìm
3
kiếm các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội, góp phần thúc
đẩy doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam ngày càng phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu
Doanh nghiệp xã hội được hình thành từ lâu và phát triển ở Việt Nam
trong một thời kỳ nhất định, với mô hình đầu tiên là hợp tác xã. Tuy nhiên, càng
về sau, hình thức hợp tác xã dần mang tính thương mại, doanh nghiệp xã hội đã
trở lại với những định dạng khác nhau nhằm đóng góp cho xã hội. Chính vì vậy,
về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội được nhiều người quan tâm,
nghiên cứu và được thể hiện qua các tài liệu sau:
Trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 thông qua có đề cập tới doanh nghiệp
xã hội, đã có một số công trình nghiên cứu về chủ đề này: Trung tâm hỗ trợ sáng
kiến cộng đồng (CSIP) và Hội đồng Anh tại Việt Nam với nghiên cứu: Khái
niệm doanh nghiệp xã hội; khảo sát về doanh nghiệp xã hội đăng trong: "Báo
cáo kết quả khảo sát doanh nghiệp xã hội Việt Nam" năm 2011… Các nghiên
cứu này mới chỉ tập trung vào khái niệm doanh nghiệp xã hội, lịch sử hình thành
và pháp triển của nó. Tuy nhiên, vì ra đời từ trước nên các công trình này mới
chỉ có giá trị về mặt lý luận nghiên cứu, chưa có tính ứng dụng vào thực tiễn cho
chế định này.
Bài viết “Kỳ vọng từ mô hình doanh nghiệp xã hội” của tác giả Trang
Trần đăng trên Tạp chí Tài chính số ra ngày 14/3/2014. Bài viết đã đưa ra các
khái niệm khác nhau về mô hình doanh nghiệp xã hội trên thế giới và điều kiện
phát triển mô hình này tại Việt Nam. Bên cạnh đó, bài viết cũng đưa ra ba giai
đoạn chủ yếu của phong trào doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. Nhìn chung, bài
viết còn khá sơ sài với các kiến thức và quan điểm của tác giả - một người chưa
nghiên cứu sâu về pháp luật. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu như:
“Những vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014”
của Tiến sĩ Phan Thị Thanh Thủy, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
4
6/2015; “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp xã hội” của
Thạc sĩ Vũ Thị Hòa Như, Tạp chí Luật học số 3/2015… Các công trình nghiên
cứu này đề cập một số khía cạnh của mô hình phát triển doanh nghiệp dưới góc
độ pháp lý.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Minh Hiền, Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Đề tài đã nghiên cứu các vấn đề lý luận,
thực tiễn của pháp luật doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất
các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, đây là
một công trình nghiên cứu nghiêm túc, có chiều sâu. Tuy nhiên, thời điểm của
luận văn này là ngay sau khi Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, do đó, công
trình này chưa có được sự cập nhật cần thiết của các văn bản dưới luật hướng
dẫn thi hành, dẫn tới một số đánh giá tại đây đã được khắc phục tại thời điểm
hiện tại. Mặt khác, đây là nghiên cứu trên phạm vi Việt Nam, chưa có sự đánh
giá cho tình hình thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận
pháp luật về doanh nghiệp xã hội, và từ thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề
này tại thành phố Hồ Chí Minh để đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(i) Nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp
xã hội như: Khái niệm, đặc điểm và phân loại doanh nghiệp xã hội; mục đích,
nguyên tắc và nội dung pháp luật về doanh nghiệp xã hội… Bên cạnh đó, để làm
sâu sắc hơn các vấn đề nghiên cứu, luận văn cũng đề cập khảo cứu kinh nghiệm
pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề này.
5
(ii) Khái quát, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực
hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra những
ưu điểm, những vấn đề còn bất cập, vướng mắc và các nguyên nhân…
(iii) Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất định hướng
và các giải pháp để hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, hệ thống các quy
định pháp luật hướng dẫn thi hành, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp xã hội
ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại
thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan
đến tổ chức và hoạt động, địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội, trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và từ thực
tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh.
Về không gian và thời gian, bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật tại thành phố Hồ Chí Minh, đặc
biệt là từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành, luận văn cũng khảo
cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để làm rõ các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu, luận văn đã sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -
6
Lênin; đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta
trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong tất cả các chương nhằm lý giải những vấn đề thuộc về bản chất, các quan
điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng, để từ đó, đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về doanh
nghiệp xã hội ở Việt Nam.
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê về kết quả thành lập,
tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp so sánh: sử dụng nhằm so sánh pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam trong
bối cảnh nước ta hiện nay đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức
trong quá trình tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội, môi trường…
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị trong
nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện pháp luật, trong giảng dạy và học tập về
pháp luật doanh nghiệp nói chung và pháp luật về doanh nghiệp xã hội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu 3 chương, cụ thể là:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp xã hội và pháp luật về
doanh nghiệp xã hội.
7
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp
xã hội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp xã hội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Khái quát lý luận về doanh nghiệp xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại doanh nghiệp xã hội
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội
Doanh nghiệp là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được nghiên cứu
dưới góc độ của nhiều ngành khoa học. Tuy nhiên, luật pháp các nước thông
thường không quy định khái niệm chung về doanh nghiệp, mà chỉ đưa ra định
nghĩa pháp lý về từng loại hình doanh nghiệp cụ thể. Pháp luật đa số các nước
quan niệm doanh nghiệp chỉ là những chủ thể kinh doanh thuần túy có nghề
nghiệp chính là hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, ở một số nước như Cộng hòa
Liên bang Đức, doanh nghiệp được hiểu không chỉ bao gồm các chủ thể kinh
doanh thuần túy, mà còn bao gồm cả những tổ chức kinh tế hoạt động vì mục
tiêu công ích. Theo pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, “doanh nghiệp bao gồm
doanh nghiệp thành lập theo luật công và doanh nghiệp thành lập theo luật tư”.
Khi phân biệt hai loại doanh nghiệp này, người ta dựa trên cơ sở phân chia theo
trật tự pháp luật công và pháp luật tư. Pháp luật Đức có sự phân biệt rõ ràng
trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp
thành lập theo luật công và các doanh nghiệp thành lập theo luật tư. Cơ sở của sự
phân biệt này là chức năng và mục đích hoạt động của hai loại doanh nghiệp có
sự khác nhau. Doanh nghiệp thành lập theo luật công có chức năng chủ yếu là
hoạt động công ích; trong khi đó, các doanh nghiệp thành lập theo luật tư có
chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận [1, tr. 15].
9
Ở Việt Nam, kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế
thị trường, pháp luật đã đưa ra những khái niệm chính thức về doanh nghiệp.
Theo khái niệm doanh nghiệp được xác định trong Luật Công ty năm
1990, thì tất cả các chủ thể có nghề nghiệp kinh doanh được xác lập tư cách hợp
pháp đều là doanh nghiệp. Điều 3 Luật Công ty năm 1990 quy định: “Doanh
nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện
các hoạt động kinh doanh”. Với quy định này, khái niệm doanh nghiệp có nội
hàm rất rộng, có thể hiểu tất cả các chủ thể có nghề nghiệp kinh doanh được xác
lập tư cách theo thủ tục do pháp luật quy định đều là doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời với
nhiều đổi mới, trong đó có vấn đề quan điểm về doanh nghiệp. Cả hai văn bản
cùng thống nhất một khái niệm về doanh nghiệp, cụ thể là: “Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh”. Theo đó, chỉ có những chủ thể kinh doanh thỏa mãn những điều
kiện nhất định mới có tư cách doanh nghiệp. Phù hợp với khái niệm đó, pháp
luật đã quy định rõ tư cách doanh nghiệp cho các chủ thể kinh doanh gồm: doanh
nghiệp tư nhân, các loại công ty (quy định trong Luật Doanh nghiệp), công ty
nhà nước (quy định trong Luật Doanh nghiệp nhà nước), doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Có thể
nhận thấy, khái niệm doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 1999 và 2005 có nội
hàm hẹp hơn khái niệm theo cách hiểu trước đây.
Đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, khái niệm về doanh nghiệp đã có một
số thay đổi nhất định. Theo khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì:
“Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch được đăng
ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Nhìn
chung, theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, để trở thành một doanh nghiệp thì các
10
chủ thể kinh doanh cũng phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện như quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2005 và cũng quy định rõ tư cách doanh nghiệp cho các
chủ thể kinh doanh như trên. Tuy nhiên, quy định trên có phần ngắn gọn và linh
hoạt hơn, nhưng lại có nội hàm mở rộng phạm vi các chủ thể được coi là doanh
nghiệp. Đồng thời, tăng cường tính linh hoạt đối với việc đăng ký trụ sở của
doanh nghiệp, nhất là đối với các ngành nghề kinh doanh có tính chất không ổn
định hoặc chủ sở hữu thường xuyên phải thay đổi, mở rộng địa bàn kinh doanh.
Bên cạnh các doanh nghiệp thương mại truyền thống với mục đích chính
là kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông và các chủ sở hữu. Thì
hiện nay, với khái niệm doanh nghiệp như trong quy định của pháp luật đã phần
nào đó nêu lên được bản chất của doanh nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, doanh
nghiệp xã hội thì vẫn còn là một khái niệm mơ hồ và khiến cho nhiều người
nhầm lẫn, pháp luật không hề giải thích doanh nghiệp xã hội là gì mà chỉ nêu ra
các tiêu chí của một doanh nghiệp xã hội chứ không hề có một khái niệm hoàn
chỉnh về doanh nghiệp xã hội. Vậy thực tế đặt ra là, để trả lời cho câu hỏi doanh
nghiệp xã hội là gì, thì vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh và cụ thể.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa về doanh
nghiệp xã hội thì: “Doanh nghiệp xã hội là những tổ chức hoạt động dưới nhiều
hình thức pháp lý khác nhau vận dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi
cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế, doanh nghiệp xã hội thường cung cấp
các dịch vụ xã hội và làm việc cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông thôn.
Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng trên các lĩnh
vực giáo dục, văn hóa, môi trường”. Với định nghĩa này, OECD đã cho rằng
doanh nghiệp xã hội phải là một tổ chức có hệ thống, có quản lý, có tiêu chí hoạt
động và theo đuổi cùng lúc hai mục tiêu nhưng mục tiêu xã hội được đặt lên trên
mục tiêu kinh tế. Doanh nghiệp xã hội cung cấp các dịch vụ xã hội, hoạt động
trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm phục vụ và làm việc cho những nhóm
người nhất định.
11
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Tuy nhiên, đó chỉ là một doanh nghiệp
thương mại truyền thồng kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận trái ngược hoàn
toàn với mục đích của doanh nghiệp xã hội. Doanh nghiệp xã hội cũng có hoạt
động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, nhưng lợi nhuận này sẽ được doanh nghiệp
tái đầu tư để giải quyết các vấn đề xã hội. Từ sự phân tích trên có thể rút ra một
khái niệm về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam như sau:
“Doanh nghiệp xã hội là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch, được đăng ký và thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng bằng lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh”.
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội
Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội bên cạnh những điểm chung của doanh
nghiệp thương mại còn có những đặc điểm riêng biệt theo mục đích hoạt động
của mình. Các đặc điểm của doanh nghiệp xã hội bao gồm:
Thứ nhất: Có hoạt động kinh doanh
Như đã nói ở trên, doanh nghiệp xã hội cũng là một loại hình doanh
nghiệp. Chính vì vậy, hoạt động cơ bản và chủ yếu của doanh nghiệp xã hội là
hoạt động kinh doanh. Đây chính là đặc điểm nhằm phân biệt doanh nghiệp xã
hội với các loại hình tổ chức khác cũng có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội.
Đối với các loại hình tổ chức cũng có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội khác
như tổ chức phi chính phủ, các quỹ từ thiện… thì hoạt động kinh doanh không
xuất hiện trong các hoạt động của tổ chức. Những tổ chức này thường có tài trợ
từ một hoặc nhiều nguồn khác nhau. Mọi chi phí hoạt động của tổ chức đều phụ
thuộc vào những nguồn tài trợ này.
12
Ví dụ: Tổ chức từ thiện T được tài trợ bởi ba nguồn khác nhau bao gồm:
tài trợ từ nhà nước, tài trợ từ các doanh nghiệp và tài trợ từ các cá nhân. Lượng
tài trợ nhiều hay ít, tài trợ dài hạn hay ngắn hạn đều do các nguồn tài trợ đó
quyết định mà gần như phía tổ chức từ thiện không có vai trò tham gia. Vì vậy,
tổ chức từ thiện này khi thực hiện các hoạt động từ thiện (hoạt động từ thiện
cũng nhằm giải quyết một số vấn đề xã hội) thường ở thế bị động, không thể tự
chủ. Tổ chức từ thiện sẽ không thể tự quyết định được mình sẽ làm gì, mà phải
tính toán các hoạt động dựa trên sự đóng góp của các nguồn tài trợ. Đây có thể
coi là nhược điểm của các tổ chức có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội mà
không phải là doanh nghiệp xã hội.
Đối với doanh nghiệp xã hội thì hoạt động chủ yếu là hoạt động kinh
doanh, ngoài ra doanh nghiệp xã hội cũng có thể nhận tài trợ từ các nguồn khác
nhau, nhưng tựu chung lại, hoạt động kinh doanh phải là chủ yếu và là hoạt động
quan trọng nhất. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xã hội cũng giống như
hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức khác, cũng bị tác động bởi nhiều
yếu tố, bởi các quy luật của thị trường. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
xã hội có thể nhận được những sự tài trợ, nhận được ưu đãi nhất định từ các cá
nhân, tổ chức khác hay thậm chí là từ nhà nước. Nhưng mục đích cuối cùng của
việc kinh doanh ở doanh nghiệp xã hội vẫn là mục đích thu lợi nhuận. Lợi nhuận
này sẽ được sử dụng tùy vào mục đích mà doanh nghiệp xã hội đặt ra nhằm
chung tay giải quyết các vấn đề xã hội. Ví dụ, công ty A là một doanh nghiệp xã
hội. Công ty A được nhận tài trợ từ các công ty khác và theo yêu cầu của các
công ty trên, lượng tài trợ này chỉ được dùng để làm các hoạt động từ thiện.
Công ty A nhận được tài trợ từ một số cá nhân và theo yêu cầu của các cá nhân
này thì lượng tài trợ cũng chỉ được dùng để làm các hoạt động từ thiện. Trong
khi đó, công ty A có dự định tổ chức một hoạt động từ thiện có chi phí nhiều hơn
tổng số tiền được tài trợ. Như vậy, công ty A bị các nhà tài trợ hạn chế về khả
năng sử dụng tài trợ đồng thời bị hạn chế bởi chi phí để thực hiện hoạt động từ
13
thiện. Nhưng công ty A được thành lập bởi các cổ đông, các cổ đông này có góp
một số lượng vốn để sử dụng cho việc kinh doanh. Khi việc kinh doanh của công
ty A thu được lợi nhuận nhất định. Số lợi nhuận này được các cổ đông quyết
định chia làm hai phần. Phần lợi nhuận thứ nhất góp thêm vào với số tài trợ của
các nhà tài trợ, như vậy đã đủ chi phí để thực hiện hoạt động từ thiện của mình.
Phần lợi nhuận thứ hai được dùng để mở rộng hoạt động của công ty và chia cho
các cổ đông góp vốn vào công ty.
Qua hai ví dụ trên ta có thể thấy của công ty A so với tổ chức từ thiện T
(hay các doanh nghiệp xã hội so với các tổ chức có mục tiêu giải quyết các vấn
đề xã hội khác) có nhiều ưu điểm hơn. Các ưu điểm nổi bật là:
(i) Doanh nghiệp xã hội có thể tự duy trì sự hoạt động của chính mình
(thậm chí tự phát triển) nhờ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh.
(ii) Doanh nghiệp xã hội vẫn có thể được tài trợ bởi các nhà tài trợ khác
nhau nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng lại không bị phụ thuộc hoàn toàn
vào các nguồn tài trợ này. Từ đó việc thực hiện các mục tiêu giải quyết vấn đề xã
hội dễ dàng hơn.
(iii) Các nhà đầu tư vào doanh nghiệp xã hội vẫn có thể thu được lợi
nhuận chứ không mất hoàn toàn tài sản như khi tài trợ cho các tổ chức khác.
Thứ hai: Mục đích hoạt động vì cộng đồng xã hội (tham gia giải quyết
các vấn đề xã hội).
Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng đối với sự phát triển các ngành
kinh tế, các lĩnh vực xã hội. Do vị trí của con người ở mỗi chế độ khác nhau nên
vai trò, bản chất của các vấn đề xã hội cũng khác nhau.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp
lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Các vấn
đề xã hội mà Đại hội IX đưa ra cần giải quyết đó là: giải quyết công ăn việc làm
14
và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, chăm lo giáo dục, an sinh xã hội, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã
hội, tội phạm, chăm lo những người thuộc nhóm yếu thế (người già, cô đơn, trẻ
em mồ côi lang thang cơ nhỡ, người tàn tật…). Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, cải
thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Bảo vệ môi trường, chủ động
phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Đối với doanh nghiệp xã hội, khi được thành lập sẽ có động cơ nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng được đặt ra trước đó.
Đây là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất mà người có ý tưởng thành lập
doanh nghiệp xã hội hướng tới. Nhưng doanh nghiệp xã hội phải có hoạt động
kinh doanh, mục tiêu của hoạt động kinh doanh sẽ là lợi nhuận, nhưng lợi nhuận
này được dùng (dùng một phần hoặc toàn bộ) để giải quyết các vấn đề xã hội,
môi trường vì lợi ích cộng đồng. Có thể thấy rằng, việc thành lập doanh nghiệp
xã hội hay tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xã hội chỉ là một
công đoạn tiền đề hay một cách để sau này thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn
đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng.
Ví dụ: Anh A và chị B là hai công dân Việt Nam, có một lượng tài sản
nhất định. Anh A và chị B nhận thấy nơi anh chị sinh sống có những vấn đề xã
hội cần được giải quyết. Hai người rất muốn tự mình giải quyết các vấn đề đó,
nhưng cần phải có chi phí thực hiện và cần giải quyết trong thời gian dài. Trong
khi đó anh A và chị B không muốn mất đi tài sản của mình chỉ để giải quyết các
vấn đề xã hội mà hai người lưu tâm, trong khi đó vẫn cần phải có nguồn thu nhất
định để giải quyết nhu cầu cá nhân. Vì vậy anh A và chị B quyết định đầu tư,
thành lập doanh nghiệp xã hội C. Khi doanh nghiệp xã hội C đi vào hoạt động và
thu được lợi nhuận, lượng lợi nhuận này một phần dùng để giải quyết các vấn đề
xã hội mà hai người đặt ra trước đó, phần còn lại chia cho anh A và chị B để giải
quyết các nhu cầu cá nhân.
15
Còn đối với một doanh nghiệp thông thường được thành lập thì động cơ
thành lập của doanh nghiệp là nhu cầu về lợi nhuận của người thành lập. Và
trong suốt quá trình tồn tại hoạt động của mình, doanh nghiệp của có mục tiêu
duy nhất là thu về lợi nhuận cho chủ sở hữu. Đây là chiến lược xuyên suốt của
doanh nghiệp thông thường. Ví dụ: A là công dân Việt Nam, là người không có
việc làm nhưng lại sở hữu một lượng tài sản nhất định. A nhận thấy mình cần
phải có thu nhập để giải quyết các nhu cầu cá nhân của bản thân. Vì vậy, A đã sử
dụng tài sản của mình để thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp của A hoạt động
hiệu quả và thu được lợi nhuận. Số lợi nhuận này được đưa về cho A và A sử
dụng để giải quyết các nhu cầu cá nhân của mình.
Như vậy, để phân biệt được doanh nghiệp xã hội và các doanh nghiệp
thông thường, chúng ta cần dựa trên mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp đó
hướng tới. Đối với doanh nghiệp thông thường, mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận
của doanh nghiệp. Trong khi đó, đối với doanh nghiệp xã hội, mục tiêu cuối
cùng là giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Và mục
tiêu này là mục tiêu mà các doanh nghiệp xã hội hướng đến, là mục tiêu hàng
đầu của việc các doanh nghiệp xã hội được thành lập.
Thứ ba: Sử dụng lợi nhuận để đầu tư giải quyết các vấn đề xã hội
Đặc điểm này cũng là một đặc điểm quan trọng để phân biệt doanh nghiệp
xã hội với các doanh nghiệp thông thường và là kết quả cuối cùng khi hai loại
hình doanh nghiệp này hướng tới mục đích của chúng.
Đối với doanh nghiệp thông thường, nếu hoạt động kinh doanh có lợi
nhuận thì lợi nhuận này có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Ví dụ như
có thể dùng lợi nhuận để tái đầu tư nhằm nâng cấp cơ sở vật chất, mở rộng thị
trường… của chính doanh nghiệp hoặc có thể chia cho chủ sở hữu nhằm đáp ứng
nhu cầu cá nhân của chủ sở hữu. Nhưng dù với mục đích gì, tựu chung lại thì lợi
nhuận thu được của doanh nghiệp thông thường đều nhằm giải quyết các vấn đề
16
nhu cầu cá nhân và vấn đề nội bộ của doanh nghiệp. Đây là biểu hiện của mục
tiêu vì lợi nhuận của các doanh nghiệp thông thường.
Đối với doanh nghiệp xã hội, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh không
thể được tối đa hóa cho các cá nhân mà phải được tái đầu tư nhằm giải quyết các
vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Mức độ tái đầu tư từ lợi nhuận
có thể khác nhau đối với mỗi doanh nghiệp. Có thể là 51% tổng lợi nhuận của
doanh nghiệp, hay có thể là 75% tổng lợi nhuận của doanh nghiệp hoặc toàn bộ
lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung, mức tái đầu tư cho xã hội phải
từ quá bán tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp trở lên. Như vậy mới có thể đảm
bảo được mục tiêu vì xã hội mà doanh nghiệp xã hội hướng tới, thể hiện được
tinh thần đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu của doanh nghiệp.
1.1.1.3. Phân loại doanh nghiệp xã hội [38]
Một là: Doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận
(Non-profit Social Enterprises)
Các doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận thường hoạt động dưới các hình
thức như: Trung tâm, hội, quỹ, câu lạc bộ, tổ/nhóm tự nguyện của người khuyết
tật, người chung sống với HIV/AIDS, phụ nữ bị bạo hành... Hầu hết các doanh
nghiệp xã hội phi lợi nhuận được phát triển lên từ nền tảng NGO (nongovernmental organization), bên cạnh đó cũng có một số xác định được mô hình
ngay từ khi thành lập. Do vậy, tuy rất giống với các tổ chức NGO truyền thống,
nhưng điểm khác biệt ở các doanh nghiệp phi lợi nhuận là khả năng đưa ra được
những giải pháp mới và sáng tạo để giải quyết các vấn đề mà cả xã hội đang
quan tâm. Nói cách khác, họ đưa ra những giải pháp có tính cạnh tranh cao để
giải quyết những nhu cầu xã hội cụ thể, do đó có thể thu hút nguồn vốn đầu tư
của những cá nhân và tổ chức đầu tư vì tác động xã hội (social impact investors).
Các doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận làm tốt vai trò xúc tác để huy động
nguồn lực từ cộng đồng để cải thiện đời sống cho những cộng động chịu thiệt
17
thòi. Có thể chia doanh nghiệp xã hội loại này thành ba nhóm dựa trên phương
thức hoạt động, mục tiêu, hiệu quả xã hội và nguồn tài trợ:
- Doanh nghiệp xã hội cung cấp dịch vụ, sản phẩm có hiệu quả cao trong
việc giải quyết các vấn đề xã hội và được một một bên thứ ba thường là cộng
đồng, hoặc nhà đầu tư xã hội tài trợ cho các hoạt động đó. Nói cách khác, doanh
nghiệp xã hội loại này như một người làm thuê độc lập, tự chủ, đóng vai trò xúc
tác, kết nối nguồn lực và mục tiêu xã hội.
- Doanh nghiệp nhắm tới mục tiêu đem hàng hóa/dịch vụ công tới những
người chịu thiệt thòi và dễ bị tổn thương nhất về kinh tế, những người không
được tiếp cận hay không đủ khả năng chi trả cho các dịch vụ theo mức giá thông
thường. Mục tiêu của những doanh nghiệp này là đáp ứng yêu cầu và quyền của
người dân đang bị những mô hình kinh doanh và cơ chế hiện tại bỏ qua.
- Doanh nghiệp tạo việc làm cho những nhóm yếu thế và lề hóa của xã
hội như những người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS, người mãn hạn tù…
phần lớn các doanh nghiệp xã hội thuộc loại này đổi mới từ tổ chức NGO bằng
cách thành lập thêm một nhánh kinh doanh bên trong tổ chức, hoặc thành lập
một doanh nghiệp kinh doanh, với lợi nhuận được sử dụng để tài trợ một phần
chi phí của tổ chức.
Hai là: Doanh nghiệp xã hội không vì lợi nhuận
(Not-for-profit Social Enterprises)
Đa số các doanh nghiệp loại này do các doanh nhân xã hội sáng lập, với
sứ mệnh xã hội được công bố rõ ràng. Ngay từ đầu, doanh nghiệp đã xác định rõ
sự kết hợp bền vững giữa sứ mệnh xã hội với mục tiêu kinh tế, trong đó mục tiêu
kinh tế là phương tiện để đạt mục tiêu tối cao là phát triển xã hội. Lợi nhuận thu
được chủ yếu để sử dụng tái đầu tư hoặc để mở rộng tác động xã hội của doanh
nghiệp. Việc đưa ra các giải pháp sáng tạo, áp dụng đòn bẩy của thị trường để
giải quyết vấn đề xã hội và các thách thức trong lĩnh vực môi trường, là điểm
18
khác biệt so với các tổ chức xã hội từ thiện hay các doanh nghiệp thông thường.
Phần lớn các doanh nghiệp xã hội thuộc loại này có thể tự đứng vững bằng
nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và dịch vụ của họ. Có thể nói, đây là lực
lượng “tinh túy” của khối doanh nghiệp xã hội.
Doanh nghiệp xã hội không vì lợi nhuận thường đăng ký hoạt động dưới
các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp
này đăng ký dưới hình thức công ty là họ không muốn xã hội nhìn nhận như đơn
vị “đi xin” lòng từ thiện của cộng đồng. Họ nhìn thấy cơ hội tạo giá trị vật chất
từ những hàng hóa và dịch vụ giàu nhân văn mà họ cung cấp cho cộng đồng.
Bên cạnh đó, việc hoạt động như những công ty giúp họ tiếp cận những nguốn
vốn và cơ hội kinh doanh đa dạng hơn là một tổ chức từ thiện đơn thuần.
Tuy nhiên, do sứ mệnh xã hội mà họ theo đuổi, các doanh nghiệp xã hội
lại đối mặt với một số thách thức đặc thù so với các doanh nghiệp thông thường
khác:
- Mục tiêu xã hội không cho phép họ “tối đa” hóa lợi nhuận bằng mọi
cách. Thay vào đó, phương châm của họ là “tối ưu” hóa lợi nhuận.
- Bên cạnh đó, những chi phí kinh doanh như những doanh nghiệp thông
thường, doanh nghiệp xã hội phải chi những “chi phí xã hội” rất lớn.
- Do bản chất “hỗn hợp” của mình, doanh nghiệp xã hội thường có nguồn
vốn đầu tư khá đa dạng. Bên cạnh vốn đầu tư thương mại thông thường, có thể
tiếp nhận các nguồn vốn ưu đãi dưới dạng vay dài hạn lãi suất thấp, vốn cổ tức
xã hội, hay vốn tài trợ không hoàn lại. Mặc dù vậy, việc chưa có quy định rõ
ràng trong việc tiếp nhận các khoản vốn tài trợ và vốn vay ưu đãi từ các nhà đầu
tư xã hội đang làm cho các doanh nghiệp lúng túng trong giải trình thuế và hạch
toán kinh doanh.
19