Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Thực trạng và giải pháp để nâng cao văn hóa doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Trách nhiệm của văn phòng trong việc xây dựng, giữ gìn và phát triển hình ảnh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.79 KB, 37 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Việt Nam đã từng trải qua thời kỳ bao cấp gắn liền với văn hóa dân tộc, văn

hóa làng xã, văn hóa gia đình…tất cả giống như một dấu chân mà khi nhìn lại ai
đấy cũng thở dài. Đến ngày nay, văn hóa ấy dù vẫn tồn tại, song cũng đã trở nên
mờ nhạt, mà thay vào đó là “văn hóa doanh nghiệp” đang được quan tâm nhiều
hơn.
Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có nghĩa là
chúng ta đã bước sâu vào sân chơi kinh tế thế giới, nó tạo cho chúng ta cơ hội để
phát triển hội nhập kinh tế, nhưng nó cũng đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam
sự lựa chọn. Hoặc là thay đổi để kinh doanh có hiệu quả, hoặc là rút lui.
Đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có quy mô nhỏ và vừa. Vậy
điều gì có thể đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Việt Nam khi
bước ra sân chơi lớn của thế giới? Hơn hết các doanh nghiệp hiểu rằng, muốn phát
triển không chỉ quan tâm đến lới nhuận, mà quan trọng hơn là làm thế nào để các
sản phẩm luôn mang đậm dấu ấn bản sắc của doanh nghiệp, làm thế nào để nhân
viên phát triển toàn diện,…Muốn làm được điều này, các doanh nghiệp phải hiểu
được tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp, xây
dựng hình ảnh của doanh nghiệp trong một “sa mạc” các doanh nghiệp không chỉ
trong nước mà còn trên thế giới.
Văn hóa doanh nghiệp đang là một vấn đề được quan tâm, bởi nó là một
trong những yếu tố tạo nên những giá trị thực của mỗi doanh nghiệp. Một khái
niệm tưởng mới mà cũng không hoàn toàn mới, là một thách thức đối với bất kỳ
một nhà quản trị doanh nghiệp nào. Vậy làm thế nào để doanh nghiệp có thể nhận
thức được vai trò và xây dựng văn hóa doanh nghiệp có hiêu quả. Dừng lại ở phạm


vi môn học, hình ảnh của doanh nghiệp là một mục tiêu mà văn hóa doanh nghiệp


hướng tới. Vậy trách nhiệm của văn phòng trong việc xây dựng, giữ gìn và phát
triển hình ảnh của doanh nghiệp là gì? Xét thấy sự cần thiết phải nghiên cứu nó, tôi
đã lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp để nâng cao văn hóa doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay. Trách nhiệm của văn phòng trong việc xây dựng, giữ gìn và
phát triển hình ảnh của doanh nghiệp”, góp phần nâng cao văn hóa doanh nghiệp
ở Việt Nam hiện nay.
2.
3.

4.

Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về Văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: các doanh nghiệp tại Việt Nam;
Phạm vi thời gian: giai đoạn 2013 – 2015.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu liên
quan đến văn hóa doanh nghiệp, thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa doanh
nghiệp ở nước ta,…tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến văn phòng và
trách nhiệm của văn phòng trong xây dựng, giữ gìn và phát triển hình ảnh của
doanh nghiệp;
Phương pháp phân tích: sử dụng phương pháp này trong việc phân tích các
ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, các giải pháp đưa ra…;
5. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là nhằm nghiên cứu một cách tương đối hệ thống
về văn hóa doanh nghiệp để làm rõ và khẳng định tầm quan trọng của vấn đề này,

thấy được thực trạng văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa doanh nghiệp ở nước ta.


Mặt khác, tìm hiểu rõ hơn về trách nhiệm của văn phòng trong xây dựng,
duy trì và phát triển hình ảnh của doanh nghiệp – một yếu tố và mục tiêu của văn
hóa doanh nghiệp.
6.

Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia

làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về văn hóa doanh nghiệp và trách nhiệm
của văn phòng trong xây dựng, giữ gìn và phát triển hình ảnh của doanh
nghiệp;
Chương 2: Thực trạng văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Giải pháp nâng cao văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VĂN PHÒNG TRONG XÂY DỰNG, GIỮ GÌN
VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
1.1.
1.1.1.

Khái quát chung về văn hóa doanh nghiệp
Khái niệm


1.1.1.1.


Văn hóa
Ở phương Tây, văn hóa – culture hay kultur…có xuất cứ từ tiếng Latinh, có

nghĩa là khai hoang, trồng trọt, trông nom cây lương thực. Sau đó, được mở rộng
dùng trong các lĩnh vực xã hội chỉ sự vun trồng, giáo dục, đào tạo và phát triển mọi
khả năng của con người.
Ở phương Đông, văn hóa có nghĩa là văn trị giáo hóa, là giáo dục, cảm hóa
bằng điển chương, lễ nhạc, không dùng hình phạt tàn bạo và sự cưỡng bức.
Như vậy, văn hóa theo phương Đông và phương Tây đều có bản chất là sự
giáo hóa, vun trồng nhân cách con người, làm cho cuộc sống của con người trở nên
tốt đẹp hơn.
Đến nay, con người đã từng bước mở rộng khái niệm văn hóa:“Văn hóa là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử”
1.1.1.2.

Doanh nghiệp
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp:
*Quan điểm nhà tổ chức: doanh nghiệp là một tổng thể các phương tiện,

máy móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt một mục đích nào đó.
*Quan điểm lợi nhuận: doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua đó,
trong khuôn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác
nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường và thu khoản
chênh lệch giá thành và giá bán sản phẩm.


*Quan điểm chức năng: doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh
nhằm thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản

xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi.
*Quan điểm lý luận hệ thống: doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành trong
hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động tương hỗ lẫn
nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt đông mà nhà nước đặt ra cho hệ thống
kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.
Tổng hợp các quan điểm này, doanh nghiệp được hiểu như sau: “Doanh
nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm và
dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi
nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi chính đáng của
người tiêu dùng”.
1.1.1.3.

Văn hóa doanh nghiệp
Doanh nghiệp được coi là một xã hội thu nhỏ. Xã hội lớn có nền văn hóa

lớn, đương nhiên một xã hội nhỏ (doanh nghiệp) cũng mang đặc trưng của một nền
văn hóa riêng biệt. Mỗi nền văn hóa nhỏ là một bộ phận cấu thành nên nền văn hóa
lớn “Văn hóa Doanh nghiệp gắn với văn hóa xã hội, là một bước tiến của văn hóa
xã hội, là tầng sâu của văn hóa xã hội. Văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi vừa chú tới
năng suất và hiệu quả sản xuất, vừa chú tới quan hệ chủ thợ, quan hệ giữa người
với người. Nói rộng ra nếu toàn bộ nền sản xuất đều được xây dựng trên một nền
văn hóa doanh nghiệp có trình độ cao, nền sản xuất sẽ vừa mang bản sắc dân tộc,
vừa thích ứng với thời đại hiện nay” (Theo Edgar Schein).
Nói về văn hóa doanh nghiệp, có rất nhiều định nghĩa xung quanh khái niệm
này. Mỗi nền văn hóa khác nhau có các định nghĩa khác nhau. Theo chuyên gia
người Pháp về doanh nghiệp vừa và nhỏ Saite Marie: “Văn hóa doanh nghiệp là


tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kị, các
quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh nghiệp”.

Tổ chức lao đông quốc tế ILO cũng đã đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa
doanh nghiệp là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền
thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một
tổ chức đã biết”.
Mặc dù có rất nhiều khái niệm về văn hóa doanh nghiệp nhưng cho đến nay
chưa có một định nghĩa nào được chính thức công nhận. Tuy nhiên, có một định
nghĩa khá phổ biến là định nghĩa của Edgar H. Chein: “Văn hóa doanh nghiệp là
tổng thể những thủ pháp và quy tắc mà các thành viên của doanh nghiệp thu nhận
được trong quá trình giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thống nhất bên trong
doanh nghiệp”.
Dù được định nghĩa bằng nhiều cách khác nhau, nhưng sau cùng chúng ta có
thể rút ra một định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp như sau: “Văn hóa doanh
nghiệp chính là hệ thống các giá trị, quan niệm và nguyên tắc hành vi được chia
sẻ bên trong doanh nghiệp, chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và cách thức hành
động của các thành viên trong quá trình theo đuổi và thực hiện những mục tiêu
chung, tạo nên bản sắc riêng của mỗi doanh nghiệp”.

1.1.2. Vai trò của văn hóa doanh
1.1.2.1.
Đối với doanh nghiệp

nghiệp

*Văn hóa doanh nghiệp tạo nên nét đặc trưng riêng cho doanh nghiệp, giúp
phân biệt với các doanh nghiệp khác.


Khi mới thành lập, doanh nghiệp chưa thể có một nền văn hóa ổn định, chưa
có bản sắc văn hóa riêng. Trải qua một quá trình hoạt động lâu dài, với những
thành công và thất bại, đấu tranh và xây dựng, các yếu tố văn hóa dần được hình

thành, chắt lọc để rồi tồn tại thành một hệ thống, tạo ra đường lối kinh doanh riêng
của doanh nghiệp đó, giúp phân biệt nó với các doanh nghiệp khác, tổ chức xã hội
khác.
Phong cách đó đối với doanh nghiệp cũng quan trọng giống như “không khí
và nước” đối với con người. Thật dễ dàng để chúng ta nhận thấy phong cách của
một doanh nghiệp thành công, phong cách ấy thường gây ấn tượng rất mạnh cho
người ngoài và là niềm tự hào của các thành viên trong doanh nghiệp. Hãng thức
ăn nhanh McDonald’s được biết đến trên toàn thế giới với biểu tượng chữ M màu
vàng trên nền túi giấy màu đỏ để đựng đồ ăn. Không những vậy cách bố trí của
quán ăn, đồng phục cũng là nét nổi bật của cửa hàng đồ ăn nhanh nổi tiếng thế giới
này. Nhờ những đặc điểm đó, chúng ta có thể dễ dàng phân biệt nó với các hãng đồ
ăn nhnah khác.
*Điều phối, kiểm soát và định hướng hành vi của các thành viên
Văn hóa doanh nghiệp tạo ra khuôn mẫu ứng xử, được thành viên chấp nhận
và tuân thủ, thể hiện sự hòa đồng trong doanh nghiệp. Khuôn mẫu ấy chính là
những chuẩn mực chung, những giá trị giúp biểu dương những hành vi tốt, lên án
những hành vi xấu, từ đó mọi người biết nên làm gì và không nên làm gì. Như vậy,
văn hóa doanh nghiệp giống như một công cụ điều tiết mềm thông qua hệ thống
giá trị, các chuẩn mực, truyền thống, tập tục…đã được gây dựng và thừa nhận
trong doanh nghiệp. Trong hoạt động quản lý, văn hóa cũng được coi như công cụ
kiểm soát cực kỳ hiệu quả vì nó tạo nên niềm tin và sự tự giác ở các thành viên.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ chỉ có hiệu quả thực sự khi hướng con người đến sự


tự nguyện và tự giác trong hành động của họ. Chính những giá trị văn hóa phù hợp
và được tôn trọng sẽ tạo ra niềm tin và phần nào hạn chế một cách có hiệu quả
hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp.
Bên cạnh chức năng kiểm soát hành vi của cá nhân, văn hóa doanh nghiệp
còn có chức năng định hướng hành vi. Một khi nhwunxg giá tri, quan niệm, mục
tiêu của tổ chức được các thành viên chấp nhận, họ sẽ hành động và quyết định

trên cơ sở những quan niệm, giá trị của tổ chức đó. Tất ca những quyết định đưa ra
đều phải phù hợp với những nguyên tắc, giá trị của doạnh nghiệp. Văn hóa doanh
nghiệp sẽ giúp người lãnh đạo giảm việc định hướng hành vi của nhân viên thông
qua xây dựng các quy tắc bởi chính những giá trị của văn hóa doanh nghiệp đã ảnh
hưởng sâu sắc tói nhận thức của các thành viên trong tổ chức.
*Tạo động lực làm việc và củng cố lòng trung thành của nhân viên
Để khuyến khích và tạo động lực cho người lao động chỉ có lương cao, chế
độ đãi ngộ, chế độ làm việc thôi là chưa đủ. Thực tế cho thấy nhân viên gắn bó lâu
dài cới tổ chức vì môi trường mội bộ của doanh nghiệp tạo sự hứng thú và cảm
giác thân thuộc, tạo cơ hội cho họ khẳng định mình. Con người là nguồn tài
nguyên quý giá của mỗi tổ chức, vì vậy sự trung thành của nhân viên đối với doanh
nghiệp giống như một sự kích thích phát triển. Để có được được điều đó, văn hóa
doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng đảm bảo sự gắn kết lâu dài của người lao
động.
*Giải quyết vấn đề xung đột cá nhân – tập thể
Doanh nghiệp là tập hợp của nhiều cá nhân với nguồn gốc, lối sống, tính
cách, động cơ và mục tiêu…khác nhau. Chính vì vậy, sự xung đột có thể xảy ra bất
cứ lúc nào. Vào lúc này, tính thống nhất, đồng tâm mà văn hóa doanh nghiệp mang
lại sẽ giúp giải quyết những xung đột đó.


*Khích lệ khả năng sáng tạo và đổi mới trong doanh nghiệp
Sáng tạo và đổi mới là yếu tố tiên quyết để duy trì vị thế cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thương trường. Song một vấn đề là làm thế nào để khích lệ sự
sáng tạo của nhân viên. Hãy đặt chân đến công ty Hewlette – Packard và xem thử
niềm tin của họ. Công ty Hewlette luôn đặt niềm tin vào nhân viên, niềm tin ấy
được thể hiện trong chính sách “để ngỏ nguyên vật liệu phòng thí nghiệm” của
công ty. Với chính sách này, các kĩ sư không chỉ được tự do sử dụng thiết bị ở
phòng thí nghiệm mà còn khuyến khích đem nó về nhà dùng vào việc riêng của
học. Điều này tạo cho họ cơ hội học hỏi thêm và qua đó củng cố sự cam kết gắn bó

của công ty với quá trình đổi mới và sáng chế. Như vậy, văn hóa doanh nghiệp là
công cụ khích lệ sự sáng tạo và đổi mới trong doanh nghiệp.
*Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp đúng hướng sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp bởi nó tạo được sự thống nhất, giảm thiểu sự rủi ro, tăng cường phối hợp và
giám sát, thúc đẩy động cơ làm việc của mọi thành viên, tăng hiệu suất và hiệu quả
của doanh nghiệp. Từ đó tăng sức cạnh tranh và khả năng thành công của doanh
nghiệp trên thị trường. Văn hóa doanh nghiệp chính là sợi dây gắn kết và thúc đẩy
động cơ làm việc của mọi nhân viên trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thành
công trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp chắc chắn có đủ sức đối đầu và chiến
thắng những cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất.
1.1.2.2.

Đối với xã hội
Trong những năm trở lại đây, chúng ta đều phải thừ nhận vai trò đặc biệt

quan trọng của Văn hóa doanh nghiệp trong sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Bản thân văn hóa vốn đã ngầm chức trong nó những giá trị nhân văn, vì vậy nó
luôn đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự gắn bó chặt chẽ trong việc kinh doanh với


tính nhân văn trong kinh doanh. Văn hóa doanh nghiệp cũng luôn định hướng cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi doanh nghiệp theo hướng nâng cao tinh
thần cộng đồng, dân tộc, khuyến khích doanh nghiệp tham gia các hoạt động xã hội
nhiều xóa đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, tham gia các hoat động từ
thiện… Nếu kinh doanh thiếu đi yếu tố văn hóa thì xã hội sẽ phải gánh chịu những
hậu quả hết sức nghiêm trọng, đặc biệt là vấn đề rất được quan tâm hiện nay - ô
nhiễm môi trường.
1.1.3.


Các bước hình thành văn hóa doanh nghiệp
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp là một quá trình tổng thể, lâu dài chứ không

chỉ đơn giản chỉ đơn giản là việc lãnh đạo đưa các giá trị vào doanh nghiệp một
cách rời rạc. Vậy để xây dựng văn hóa doanh nghiệp một cách thống nhất và hiệu
quả cần phát triển theo các bước sau:
+Bước 1: Tìm hiểu môi trường và các yếu tố ảnh hưởng;
+Bước 2: Xác định đâu là giá trị cốt lõi làm cơ sở cho thành công. Đây là
bước cơ bản nhất để xây dựng vân hóa doanh nghiệp;
+Bước 3: Xây dưng tầm nhìn mà doanh nghiệp sẽ vươn tới;
+Bước 4: Đánh giá văn hóa hiện tại và xác định những yếu tố cần thay đổi:
+Bước 5: Thu hẹp khoảng cách giữa những giá trị hiện có và những giá trị
mong muốn;
+Bước 6: Xác định vai trò của lãnh đọa trong việc dẫn dắt thay đổi văn hóa;
+Bước 7: Khi khoảng cách đã được xác định thì việc tiếp theo là soạn thả
một kế hoạch hành động bao gồm các mục tiêu, hoạt động, thời gian, điểm mốc và
trách nhiệm cụ thể;


+Bước 8: Phổ biến nhu cầu thay đổi, kế hoạch hành động và động viên tinh
thần nhân viên, tạo động lực cho sự thay đổi.
+Bước 9: Nhận biết các trở ngại và nguyên nhân từ chối thay đổi, xây dựng
các chiến lược để đối phó;
+Bước 10: Thể chế hóa, mô hình hóa và củng cố sự thay đổi văn hóa;
+Bước 11: Tiếp tục đánh giá văn hóa doanh nghiệp và thiết lập các chuẩn
mực mới để không ngừng học tập và thay đổi.
Văn hóa doanh nghiệp có bền vững hay không, có trở thành sức mạnh thúc
đẩy sự phát triển của doanh nghiệp hay không phụ thuộc vào quá trình xây dựng
văn hóa doanh nghiệp có đúng hướng hay không. Chỉ có những bước đi đúng đắn
trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp này mới có thể tạo nên những đặc trưng văn

hóa riêng của doanh nghiệp, đảm bảo sự hội nhập trong quá trình phát triển lâu dài.
1.2.

Trách nhiệm của văn phòng trong xây dựng, giữ gìn và phát huy hình

1.2.1.

ảnh của doanh nghiệp.
Khái niệm văn phòng
Để phục vụ công tác lãnh đạo quản lý ở các cơ quan, đơn vị cần phải có

công tác văn phòng với những nội dung chủ yếu như: tổ chức, thu thập xử lý, phân
phối và quản lý sử dụng các thông tin bên ngoài và nội bộ, trợ giúp lãnh đạo thực
hiện các hoạt động điều hành quản lý cơ quan, đơn vị…Bộ phận chuyên đảm trách
các hoạt đông này được gọi là văn phòng.
Văn phòng cũng được hiểu theo nhiều giác độ khác nhau:
- Theo nghĩa rộng: Văn phòng là bộ máy làm việc tổng hợp và trực tiếp trợ
giúp cho việc điều hành của ban lãnh đạo một cơ quan, đơn vị. (Như văn phòng
Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Tổng công ty…)


- Theo nghĩa hẹp: văn phòng bao gồm một bộ máy trợ giúp nhà quản trị
trong một số chức năng được giao, là một bộ phận cấu thành trong cơ cauus tổ
chức và chịu sự điều hành của nhà quản trị cấp cao.
- Theo khoa học hành chính Việt Nam, văn phòng được hiểu theo 4 nghĩa:
+ Văn phòng là bộ máy làm việc của cơ quan giúp cho lãnh đạo quản lý,
điều hành;
+ Văn phòng là trụ sở của cơ quan, nơi diễn ra công việc đối nội và đối
ngoại hằng ngày;
+ Văn phòng là nơi làm việc của lãnh đạo;

+ Văn bản là công việc thuộc sự vụ, giấy tờ, quản lý văn bản đến và văn bản
đi…
1.2.2.

Vị trí và vai trò của văn phòng
Vị trí: Văn phòng là một bộ phận gần gũi, có quan hệ mật thết với lãnh đạo,

quản lý của cơ quan, đơn vị trong mọi hoạt động; là bộ phận trung gian thực hiện
việc ghép nối các mối quan hệ trong quản lý điều hành cơ quan, đơn vị theo yêu
cầu của người đứng đầu cơ quan và là một bộ phận thực hiện nhiệm vụ mang tính
thường xuyên, liên tục trong cơ quan, đơn vị.
Vai trò: Văn phòng là trung tâm thực hiện việc quản lý, điều hành trong cơ
quan, đơn vị; là nơi tiếp nhận tất cả các mối quan hệ, nhất là quan hệ đối ngoại; là
bộ máy làm việc của các nhà lãnh đạo, quản lý; là trung tâm và cầu nối của các
hoạt động quản lý và điều hành của cơ quan; là người cung cấp các dịch vụ phục
vụ hoạt động của cơ quan, đơn vị; là cầu nối giữa chủ thể lãnh đạo quản lý với cơ
quan, đơn vị.


1.2.3.

Chức năng của văn phòng
*Chức năng tham mưu tổng hợp
Tham mưu là nhằm mục đích trợ giúp cho người lãnh đạo có cơ sở để lựa

chọn quyết định quản lý tối ưu phục vụ cho mục tiêu hoạt động của cơ quan, tổ
chức đó.
Muốn có những quyết định đúng đắn, kịp thời, có cơ sở và mang tính khoa
học, người ra quyết định nắm được nhiều lĩnh vực, phải có mặt ở mọi lúc, mọi
nơi… Điều này vượt quá khả năng của một con người. Vì lý do đó, người lãnh đạo

cần ý kiến tham mưu của lực lượng trợ giúp. Thông thường, theo cơ cấu tổ chức
trực tuyến – chức năng, lực lượng trợ giúp về các lĩnh vực chuyên môn nằm ở các
phòng, ban chức năng. Văn phòng sẽ giúp thủ trướng trong việc tổng hợp các ý
kiến chuyên môn đó, phân tích, chọn lọc để đưa ra những kết luận chung nhất
nhằm cung cấp cho lãnh đạo những thông tin, phương án quyết định kịp thời và
đúng đắn.
Như vậy, tham mưu và tổng hợp là hai mặt gắn kết hữu cơ với nhau trong
một chức năng luôn tỏ ra hữu hiệu vì nó mang tính tham vấn, khách quan, không bị
gò bó, ràng buộc.
*Chức năng giúp việc theo ngành
Văn phòng là bộ máy trực tiếp giúp cho việc điều hành quản lý của ban lãnh
đạo cơ quan, đơn vị thông qua các công việc cụ thể như xây dựng chương trình, kế
hoạch công tác ngày, tuần, tháng, quý… và tổ chức triển khai thực hiện các kế
hoạch đó. Văn phòng cũng là nơi thực hiện các hoạt động lễ tân; tổ chức các cuộc
họp, các hội nghị, các cuộc đàm phán, thảo luận; tổ chức các chuyến đi công tác
của lãnh đạo; soạn thảo và quản lý các văn bản…


*Chức năng hậu cần
Hoạt động của các cơ quan, đơn vị không thể thiếu các điều kiện vật chất như
nhà cửa, phương tiện, thiết bị, dụng cụ…Văn phòng là bộ phận cung cấp, bố trí,
quản lý các phương tiện, thiết bị, dụng cụ đó để đảm bảo sử dụng chúng có hiệu
quả. Số lượng, đặc điểm của các phương tiện vật chất phụ thuộc vào đặc điểm và
quy mô hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Phục vụ một cách tiết kiệm nhưng vẫn
đảm bảo hiệu quả là phương châm hoạt động của công tác văn phòng.
Như vậy, văn phòng là đầu mối giúp việc cho lãnh đạo, thủ trưởng thông qua
ba chức năng quan trọng tham mưu tổng hợp, trợ giúp theo ngành và hậu cần. Các
chức năng này vừa độc lập, vừa hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng khẳng định sự
cần thiết khách quan của văn phòng với tư cách một phòng làm việc và công tác
văn


phòng

với



cách

như

một

loại

hoạt

động.

1.2.4. Các loại văn phòng
Văn phòng chia làm 5 loại chính là:
1.2.5.

Văn phòng của cơ quan hành chính nhà nước;
Văn phòng của các tổ chức chính trị xã hội;
Văn phòng của các đơn vị sự nghiệp, tổ chức dịch vụ công;
Văn phòng đại diện;
Văn phòng doanh nghiệp.
Trách nhiệm của văn phòng trong xây dựng giữ gìn và phát huy hình ảnh
của doanh nghiệp

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu tại cuộc vận động “Xây dựng

văn hóa doanh nghiệp Việt Nam” khẳng định, văn hoá doanh nghiệp vô cùng quan
trọng. Điều này chứng minh người đứng đầu Chính phủ đang rất quan tâm đến
hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam. Bởi theo Thủ tướng, văn hóa doanh nghiệp
không chỉ là hình ảnh doanh nghiệp mà còn là hình ảnh quốc gia.


Việt Nam tự hào vì đã có rất nhiều thương hiệu quốc gia, trong số đó không
ít thương hiệu khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Nhưng so với quy mô
nền kinh tế và yêu cầu hội nhập, phát triển kinh tế thì số lượng doanh nghiệp xây
dựng được thương hiệu và uy tín, hình ảnh còn rất khiêm tốn. Trong khi đó, ngày
càng xuất hiện nhiều những doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao
động, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường, cạnh tranh không lành mạnh…. Điều
này, khiến cho hình ảnh các doanh nghiệp đang bị méo mó, lòng tin của người dân,
người tiêu dùng với các doanh nghiệp đang bị suy giảm, xói mòn.
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang ngày càng hòa nhập hơn với nền kinh
tế thế giới, việc xây dựng hình ảnh doanh nghiệp đã và đang trở thành một vấn đề
cấp thiết đối với các doanh nghiệp trong nước.
Hình ảnh doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự thành công của
doanh nghiệp trên thương trường, hình ảnh doanh nghiệp là sự tổng hòa của nhiều
yếu tố: chất lượng sản phẩm, phong cách kinh doanh, văn hóa của doanh nghiệp
cũng như các hoạt động truyền thông, quảng bá… Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, nên nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn chưa dành
sự quan tâm đúng mức cho việc nâng cao nhận thức về xây dựng hình ảnh doanh
nghiệp.
Nói về xây dựng hình ảnh doanh nghiệp, Thời báo Kinh tế Việt Nam đã tổ
chức một cuộc tọa đàm với chủ đề tương tự. Tham dự cuộc tọa đàm có các diễn giả
như ông Nguyễn Thế Quang, Anh hùng Lao động, Phó chủ tịch UBND Thành phố
Hà Nội; TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; GS. Đào

Nguyên Cát, Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam; ông Dương Trung Quốc,
Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tổng biên tập tạp chí Xưa và Nay;
ông Hoàng Hải Âu, Giám đốc Công ty Cổ phần Giải pháp thị trường Hoàng Gia


Việt Nam. Tọa đàm đã mang lại một cái nhìn toàn cảnh và nhiều chiều hơn về vấn
đề xây dựng hình ảnh doanh nghiệp tại Việt Nam.
Chúng ta hãy đặt chân đến “Coca Cola” - một tập đoàn toàn cầu chuyên sản
xuất và kinh doanh nước giải khát, mà khi nhắc tới nó, người ta nhớ ngay đến logo
của hãng với hàng chữ Coca Cola mềm mại, mang màu đặc trưng là màu đỏ và
xuất hiện gần như khắp nơi trên toàn cầu. Người ta cũng nhớ đến Coca Cola như
một hãng sở hữu nhiều thương hiệu nổi tiếng khác nhau như: Coca Cola, Fanta,
Sprite, Joy…với những chương trình quảng cáo rất hay và vui nhộn…
Ở Việt Nam, khi nói đến Samsung, người ta thường nghĩ đến một tập đoàn
sản xuất đồ điện tử với các loại sản phẩm chính như TV, máy tính, và gần đây là
điện thoại di động, tất cả đều mang thương hiệu Samsung với màu đặc trưng là
màu xanh dương. Các quảng cáo của Samsung cũng thường rất đẹp và ấn tượng…
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hình ảnh doanh nghiệp là diện mạo của
một doanh nghiệp, cho phép ta phân biệt doanh nghiệp này với một doanh nghiệp
khác, đóng vai trò mang tính quyết định đối với sự thành bại của doanh nghiệp...
Mỗi đối tượng khác nhau (người tiêu dùng, đối tác, chính quyền hay các cơ quan
chức năng…) sẽ có một mối quan tâm và cách nhìn nhận khác nhau đối với hình
ảnh doanh nghiệp. Như người tiêu dùng quyết định mua hàng dựa trên nhận thức
của họ về thương hiệu nhiều hơn là tính thực tế của bản thân sản phẩm…Như vậy,
“Lợi thế cạnh tranh bền vững duy nhất của bất kỳ ngành kinh doanh nào chính là
danh tiếng của nó” - một giám đốc marketing của một tập đoàn hàng đầu tại nước
Mỹ đã từng nói.
Trong thực tế hiện nay, một doanh nghiệp có thể sở hữu một hoặc nhiều
thương hiệu khác nhau. Nhưng việc xây dựng hình ảnh doanh nghiệp và phát triển
thương hiệu luôn luôn không thể tách rời. Đó chính là bài học thành công của



những doanh nghiệp phát triển hàng đầu hiện nay ở Việt Nam cũng như trên toàn
thế giới.
Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp là một quá trình lâu dài và kiên trì của
doanh nghiệp. Trog quá trình ấy cần có sự tham gia đoàn kết của tất cả các thành
viên của doanh nghiệp. Văn phòng là một bộ phận trung gian kết nối các bộ phận
khác trong doanh nghiệp.
Với chức năng tham mưu, tổng hợp, văn phòng là nơi thu thập và chuyển
giao thông tin giữa các quan hệ cấp trên – cấp dưới, đồng nghiệp, giữa các phòng
ban, quan hệ với khách hàng…Do đó, cần phải đảm bảo thông tin một cách chính
xác và rõ ràng nhằm tạo ra những quyết định đúng đắn, hiệu quả; tạo niềm tin cho
khách hàng (tư vấn, tiếp nhận phản hồi…); tạo sự đồng thuận, đoàn kết giữa phòng
ban công ty (trong các chiến dịch PR sản phẩm mới)...
Với chức năng giúp viêc theo ngành và hậu cần, văn phòng góp phần vào sự
thành công của các chiến lược kinh doanh, các cuộc họp tạo dựng hình ảnh, truyền
cảm hứng cho sự sáng tạo, thiết lập các thông điệp có ý nghĩa…
Xuất phát từ ý nghĩa này trong xây dựng hình ảnh doanh nghiệp, dù là bộ
phận trung gian nhưng văn phòng doanh nghiệp có trách nhiệm rất lớn. Những ý
nghĩa này giống như sợi dây “vô hình” buộc văn phòng doanh nghiệp phải thực
hiện đúng chức năng của mình, có như vậy mới đảm bảo trách nhiệm của mình
trong xây dựng, giữ gìn và phát triển hình ảnh doanh nghiệp.
Như vậy, hình ảnh doanh nghiệp là một khái niệm rộng và khó phân biệt
rạch ròi giữa các yếu tố cấu thành. Đó có thể là sự tổng hòa các mối quan hệ của
doanh nghiệp với khách hàng, với xã hội; là sự gắn kết giữa thương hiệu, văn hóa
doanh nghiệp với sự thành công trong kinh doanh… mà muốn xây dựng, giữ gìn và
phát triển nó cần có sự đồng lòng của các cá nhân, bộ phận trong doanh nghiệp.


Trong đó, văn phòng doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong việc bảo đảm

sự hài hòa của các mối quan hệ của hình ảnh doanh nghiệp

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Khái quát về văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam
Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam được hình thành và bồi đắp từ thế hệ này
đến thế hệ khác như một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam. Trong giai đoạn
công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, văn hóa
doanh nghiệp là sự kết hợp của truyền thống với hiện đại.
Trong thời kì đất nước bị đô hộ nhiều doanh nhân đã khởi xướng và phát
triển những ý nghĩ mới trong công thương nghiệp, hình thành nền móng đầu tiên


của Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam. Đó là tinh thần dân tộc trong kinh doanh,
dũng cảm cạnh tranh với tư bản Pháp, Hoa trên thị trường.
Trong những năm thực hiện thể chế kế hoạch hóa tập trung, do thị trường và
các quy luật của thị trường không được công nhận các doanh nghiệp nước ta tiến
hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh được ban hành từ trê, sản phẩm
làm ra được giao nộp lên cấp trên, không tính đến nhu câu thị trường, không hạch
toán đến giá cả,…Thể chế kế hoạch hóa không đảm bảo trách nhiệm và quyền hạn
của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể kinh doanh, hạn chế tính sáng tạo,
tinh thần kinh doanh của người quản lý doanh nghiệp. Tình trạng đó đã làm sai
lêch bản chất của kinh doanh, cũng có thể gọi đó là sản xuất mà không kinh doanh.
Tuy nhiên, thời kỳ này vẫn có những nhà quản lý mạo hiểm tìm tòi, tạo ra một số
mô hình kinh doanh có hiệu quả.
Đại hội toàn quốc lần thứu VI của Đảng (12-1986), thì thể chế kinh tế thị
trường đã được công nhận, mở ra cho các doanh nghiệp điều kiện mới, có ý nghĩa
quyết định để từng bước hình thành Văn hóa doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm
kinh tế, xã hội ở nước ta - văn hóa doanh nghiệp Việt Nam. Nền kinh tế thị trường

với đặc trưng là sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp, các đối tượng tham
gia thị trường, tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh toàn
cầu hiện nay, doanh nghiệp và doanh nhân là những chiến sỹ trên mặt trận kinh tế.
Họ là lực lượng nòng cốt tạo nên sức sống và tăng trưởng kinh tế, góp phần đánh
bại nghèo nàn và lạc hậu, giúp Việt Nam dần khẳng định vị trí của mình trên
thương trường quốc tế.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam


Văn hóa doanh nghiệp là một bộ phận cảu văn hóa kinh doanh, đồng thời
cũng nằm trong văn hóa doanh nghiệp. Do đó, nó chịu sự tác động sâu sắc của cả
văn hóa dân tộc và môi trường kinh doanh.
2.1.2.1. Văn hóa dân tộc
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa phong phú và mang trong nó những
giá trị riêng. Văn hóa dân tộc vì thế có ảnh hưởng tới Văn hóa doanh nghiệp, một
bộ phận nằm trong nó.
*Ảnh hưởng của lối sống trọng tình: Do lối sống trọng tình nên quan hệ
đồng nghiệp ở Việt Nam gần gũi hơn ở các nước phương Tây. Người lao động Việt
Nam đối xử với nhau có tình nghĩa và gắn bó với doanh nghiệp. Các mâu thuẫn
trong doanh nghiệp thường được giải quyết êm đẹp, dĩ hòa vi quý, song lại không
triệt để, giải quyết qua loa, không rõ ràng, minh bạch. Đồng thời, chính lối sống
trọng tình này khiến việc giải quyết các công việc thường dựa vào các mối quan hệ
cá nhân, riêng tư không rõ ràng.
*Ảnh hưởng của tâm lý muốn làm quan: tâm lý này chịu ảnh hưởng từ thời
phong kiến Việt Nam cho tới nay. Nhiều doanh nghiệp chỉ dựa vào bằng cấp và
bảng điểm để tuyển dụng lao động, thay vì tuyển dụng bằng năng lực của cá nhân.
Chnhs điều này đã làm cho lao động nước ta chưa chú trọng đến kỹ năng mà chỉ
giỏi “lý thuyết suông”, không làm được việc, buộc phải đào tạo lại. Có thể nói đây
là nguyên nhân khiến chất lượng nhân lực Việt Nam còn thấp. Cùng với sự hội
nhập kinh tế thì đến nay, tư tưởng này đang dần được thay đổi.

*Ảnh hưởng của tâm lý “thích ổn định”: Hầu hết lao động Việt Nam thích
những công việc có sự ổn định cao, họ thường không thích thay đổi chỗ làm, đa
phần là muốn làm trong doanh nghiệp Nhà nước vì công việc ổn định, dù mức
lương thấp. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và


vừa, cũng do ảnh hưởng của tâm lý “ổn định”, sợ rủi ro. Điều này đã hạn chế sự
phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam.
*Ảnh hưởng của tính địa phương cục bộ: Vì tinh thần của người Việt Nam
mang tính địa phương cục bộ nên sự hợp tác giữa các doah nghiệp Việt Nam trong
cùng một ngành nghề chưa cao. Doanh nghiệp đi trước không truyền đạt kinh
nghiệm cho doanh nghiệp đi sau. Có trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam cùng
xuất khẩu gạo sang thị trường chính họ đã tự cạnh tranh với nhau, dẫn đến hạ giá
thành, lợi nhuận không cao. Hiện tượng này không những gây thiệt hại nghiêm
trọng cho nền kinh tế đất nước nói chung mà còn cho chính bản thân doanh nghiệp.
*Ảnh hưởng của sự thủ tiêu vai trò cá nhân: chính sự ảnh hưởng này khiến
cho lao động Việt Nam không dám đi ngược với ý kiến tập thể, họ phải ứng xử và
hành động theo những quy tắc và chuẩn mực của tập thể đó, thiếu tính chủ động
trong công việc, thường thụ động, không dám nói lên suy nghĩ cá nhân, và thường
dựa dẫm vào người khác.
*Ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa khác: bên cạnh những yếu tố trên thì văn
hóa doanh nghiệp còn ảnh hưởng bởi rất nhiều các yếu tố khác như tính dung hợp,
ôn hòa; tính tôn trọng thứ bậc trong xã hội; ảnh hưởng của sự suy giảm ý thức tôn
trọng môi trường sống…của văn hóa dân tộc.
1.2.2.2. Môi trường kinh doanh
Áp lực cạnh tranh không những trên thị trường trong nức mà cả thị trường
nước ngoài đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo nét đặc trưng riêng biệt cho mình, và văn
hóa doanh nghiệp đã dần được nhận thức như một yếu tố tạo nên sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Song chính những rào cản của tư tưởng cũ cũng như môi trường
kinh doanh, khiến cho văn hóa doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự được quan

tâm. Vượt lên trên những trở ngại đó, các doanh nghiệp nước ta đã chứng minh có


thể làm giàu bằng sự kinh doanh lành mạnh và văn hóa được xây dựng từ sự kết
hợp của phương Tây và phát huy những giá trị truyền thống. Không ít doanh
nghiệp đã tạo được niềm tin của người tiêu dùng như Vinamilk, Kinh Đô,
Kymdan…Bước sang thời kỳ đổi mới, các hoạt động kinh doanh trở nên tích cực
hơn, góp phần hình thành các giá trị Văn hóa tích cực ở các doanh nghiệp Việt
nam: vai trò của kinh doanh nói chung đã được nhìn nhận, tiến trình hội nhập đã
mở cửa nền kinh tế Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới…Tuy nhiên, sự
thay đổi này cũng kéo theo những hệ lụy, đặc biệt ;à sự đảo lộn các hệ thống giá trị
trong mỗi cong người nói riêng và xã hội nói chung. Nhưng suy cho cùng, chính sự
thay đổi môi trường kinh doanh đã tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội
phát triển.
2.1.3. Đặc điểm của văn hóa doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, văn hóa doanh nghiệp có
4 đặc điểm nổi bật là:
Thứ nhất, tính tập thể: Quan niệm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là
do toàn thể thành viên doanh nghiệp tích luỹ lâu dài cùng nhau hoàn thành, có tính
tập thể.
Thứ hai, tính quy phạm: Văn hóa doanh nghiệp có công năng điều chỉnh kết
hợp: trong trường hợp lợi ích cá nhân và doanh nghiệp xảy ra xung đột thì công
nhân viên chức phải phục tùng các quy phạm, quy định của văn hóa mà doanh
nghịêp đã đề ra, đồng thời doanh nghiệp cũng phải biết lắng nghe và cố gắng giải
quyết hài hòa để xóa bỏ xung đột.
Thứ ba, tính độc đáo: Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau, doanh nghiệp
khác nhau ở cùng một quốc gia đều cố gắng xây dựng văn hóa doanh nghiệp độc
đáo trên cơ sở văn hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. Văn hóa doanh



nghiệp phải bảo đảm tính thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa
các doanh nghiệp khác nhau cần phải tạo nên tính độc đáo của mình.
Thứ tư, tính thực tiễn: Chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của văn hóa
doanh nghiệp mới được kiểm chứng để hoàn thiện hơn nữa. Chỉ khi nào văn hóa
doanh nghiệp phát huy được vai trò của nó trong thực tiễn thì lúc đó mới thực sự
có ý nghĩa.
Để phát huy ưu thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cạnh
tranh kinh tế toàn cầu, khi đối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải xem xét và kiện toàn hơn nữa vấn đề văn hóa doanh
nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp khi được xây dựng hoàn thiện không những kích
thích sức phát triển sản xuất mà còn có ý nghĩa quan trọng để xây dựng uy tín và
thương hiệu của doanh nghiệp.

2.2. Đánh giá văn hóa doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù đã có sự thay đổi trong nhận thức về văn hoá doanh nghiệp của nước
ta, song nhìn chung văn hóa doanh nghiệp còn có những mặt hạn chế nhất định. Đó
là một nền văn hóa được xây dựng trên nền tảng dân trí thấp, môi trường làm việc
có nhiều bất cập, dẫn đến có những cái nhìn ngắn hạn, chưa có quan niệm đúng
đắn về cạnh tranh và hợp tác, chưa có tính chuyên nghiệp, còn bị ảnh hưởng bởi
các tàn dư của nền kinh tế bao cấp, chưa có cơ chế dùng người thỏa đáng vời từng
vị trí làm việc, có sự bất cập trong giáo dục và đào tạo. Mặt khác, văn hóa doanh
nghiệp Việt Nam còn có các yếu tố khác chi phối.
Thời phong kiến, đế quốc, lịch sử đã ghi lại tên tuổi của những doanh nhân
như Bạch Thái Bưởi được coi là “vua vận tải đầu thế kỷ XX”, Nguyễn Sơn Hà chủ


hãng sơn Resistanco đã dùng thương hiệu của mình đánh bại nhiều hãng sơn
đương thời. Trần Chánh Chiếu đã chủ trì nhiều cơ sở kinh doanh, Trương Văn Bền
với nhãn hiệu xà phòng Cô Ba nổi tiếng. Thời đó, với phong trào canh tân đất nước
đã kích thích nhiều người Việt lập ra những hãng buôn lớn, đề cao tinh thần dân

tộc trong kinh doanh. Qua đó có thể khẳng định, trên khắp đất nước ta trong những
năm bị đế quốc thống trị, đã có nhiều doanh nhân thấu hiểu được nỗi đau mất
nước, thân phận nô lệ, nên quyết tâm đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh đó là một nội dung cơ bản của văn hóa doanh nghiệp thời đó.
Thời kỳ thực hiện thể chế kế hoạch hóa tập trung, văn hóa trong các doanh
nghiệp không thể hiện rõ nhưng trong thời kỳ này cũng xuất hiện một số mô hình
kinh doanh có hiệu quả, đã nêu lên một số nét đặc trưng của văn hóa doanh nghiệp
thời kỳ đó, tinh thần dám nghĩ dám làm, năng động sáng tạo vươn lên khắc phục
khó khăn, thiếu thốn và là tiền đề văn hóa doanh nghiệp cho thế hệ doanh nhân,
doanh nghiệp ngày nay kế thừa và phát triển.
Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12 – 1986) và thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chấp nhận đã mở ra những điều kiện mới
có ý nghĩa quyết định đối với các doanh nghiệp để từng bước hình thành văn hóa
doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội ở nước ta, đó là văn hóa doanh
nghiệp Việt Nam và là động lực để phát huy sức mạnh dân tộc cho công cuộc chấn
hưng đất nước. Mọi người được tự do phát huy tài năng, trí tuệ trong kinh doanh,
làm giàu chính đáng cho mình và cho đất nước. Công cuộc đổi mới đã tạo điều
kiện cho sự ra đời và phát triển dân doanh, đội ngũ doanh nhân mới, hình thành và
phát triển văn hóa doanh nhân mới, mở đường cho sự hình thành và phát triển của
văn hóa Doanh nghiệp Việt Nam.


Như vậy, có thể thấy Văn hóa doanh nghiệp thể hiện trên hai mặt: mục đích
kinh doanh và phương pháp quản trị kinh doanh. Trong đó, mục đích kinh doanh là
quyết định toàn bộ hoạt động của mỗi doanh nhân và doanh nghiệp.
*Về mục đích kinh doanh: Đạt hiệu quả và lợi nhuận cao cho cá nhân, cộng
đồng, có tính nhân văn đối với con người trong xã hội và môi trường sinh thái.
Mục đích kinh doanh của mỗi doanh nhân Việt Nam nay rất đa dạng về tính
chất vì lẽ sống của con người vô cùng phong phú, nhất là trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Một số khuynh hướng nổi bật như kinh
doanh là để tiếp nối và duy trì truyền thống lâu đời của gia đình, kinh doanh là để

kiếm được nhiều tiền, kinh doanh để có danh tiếng và địa vị xã hội, kinh doanh để
tự khẳng định mình, để tự hoàn thiện bản thân và có cơ hội tự do phát triển…Bắt
đầu từ công cuộc đổi mới cho đến nay, một mục đích kinh doanh mới được hình
thành trong các doanh nghiệp Việt Nam, đó là kinh doanh vì lợi ích của doanh
nghiệp nói riêng và vì lợi ích của toàn dân tộc nói chung. Mỗi doanh nghiệp phát
triển không chỉ vì lợi ích của bản thân, mà còn vì lợi ích của khách hàng, vì sự phát
triển của quê hương, đất nước. Theo kết quả từ Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế
đã phối hợp với tổ chức JICA Nhật Bản đã tiến hành ột cuộc điều tra về mục đích
kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam (năm 2000) với 481 doanh nghiệp. Trong
đó, mục đích kinh doanh vì lợi ích cộng đồng chiếm tỷ lệ cao nhất với gần 200
doanh nghiệp. Ngoài ra còn một số mục đích khác như muốn tự quyết định công
việc kinh doanh của mình, muốn phát huy tối đa khả năng của mình, muốn kiếm
nhiều tiền hay muốn tiếp tục công việc kinh doanh của mình. Như vậy, những giá
trị tốt đẹp trong mục đích kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng được phát huy.
Điều này góp phần tạo nền móng xây dựng và phát triển Văn hóa doanh nghiệp
thành công, mang giá trị nhân văn cao đẹp.


×