Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Chuyên đề 1 quản lý nhà nước chuyên viên chính Hành chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.91 KB, 43 trang )

Chuyên đề 1:
HÀNH CHÍNH CÔNG
Câu hỏi ôn tập:
Phân tích những đặc trưng (đặc điểm) cơ bản của hành chính công.
Liên hệ thực tiễn hoạt động hành chính công của Việt Nam để làm rõ những
đặc trưng trên?
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG (ĐẶC ĐIỂM) CƠ BẢN CỦA HÀNH
CHÍNH CÔNG
1. Khái niệm:
- Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà
nước, đó là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà
nước trong quản lý xã hội theo khuôn khổ pháp luật nhà nước nhằm phục vụ
nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
2. Những đặc trưng(đặc điểm) cơ bản của hành chính nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, hành chính nhà nước ở Việt Nam hoạt động
theo quy định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 1992 sửa đổi và các hệ thống
pháp luật khác có những nét đặc trưng sau:
a) Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị:
- hành chính nhà nước trước hết là phục vụ chính trị, thực hiện những
nhiệm vụ chính trị do cơ quan quyền lực Nhà nước quyết định. hành chính
nhà nước là trung tâm thực thi các quyết định của hệ thống quyền lực chính
trị, hoạt động của nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu lực và hiệu quả của hệ thống
chính trị.
Ở nước ta, nền hành chính nhà nước mang bản chất của một Nhà nước
“của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” dựa trên nền tảng của liên minh
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
hành chính nhà nước ở nước ta là yếu tố cấu thành hệ thống chính trị trong đó
Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính
trị xã hội có vai trò giám sát và tham gia hoạt động của Nhà nước. Trong hoạt
động thực thi quyền lực Nhà nước, hành chính nhà nước là yếu tố quan trọng
quyết định hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước cả hệ thống chính trị.


b) Tính pháp quyền:
Với tư cách là công cụ của công quyền, hành chính nhà nước ở nước ta
có tính cưỡng bức của Nhà nước. Những hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Hệ thống pháp luật đòi hỏi mọi cơ
quan Nhà nước, mọi tổ chức trong xã hội, mọi công chức và công dân phải
1


tuân thủ mà chính bản thân của các cơ quan hành chính nhà nước cũng phải
nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật. Không có một cơ quan
hành chính nhà nước nào có thể hoạt động ngoài quy định của pháp luật. Đảm
bảo tính pháp quyền của nền hành chính tức là bảo đảm được tính chính quy,
hiện đại của một bộ máy hành chính có kỷ luật, kỷ cương.
Tính pháp quyền đòi hỏi các cơ quan hành chính, mọi công chức phải
nắm vững quyền lực, sử dụng đúng đắn quyền lực, đảm bảo đúng chức năng
và thẩm quyền của mình khi thực thi công vụ. Bên cạnh đó luôn quan tâm chú
trọng đến việc nâng cao uy tín về chính trị, về phẩm chất đạo đức và về năng
lực trí tuệ. Phải kết hợp chặt chẽ yếu tố quyền lực và uy tín mới có thể nâng
cao được hiệu lực và hiệu quả của một nền hành chính công phục vụ dân.
c) Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng:
Nhiệm vụ của hành chính công là phục vụ dưới hình thức công vụ đối
với công dân. Đây là công việc hàng ngày thường xuyên và liên tục vì các
mối quan hệ xã hội và hành vi công dân được pháp luật hành chính điều chỉnh
diễn ra thường xuyên, liên tục. Chính vì vậy, nền hành chính nhà nước phải
đảm bảo tính liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong
bất kỳ tình huống nào.
Tính liên tục và ổn định không loại trừ tính thích ứng. Chính vì vậy ổn
định ở đây mang tính tương đối, không phải là cố định, không thay đổi. Nhà
nước là một sản phẩm của xã hội, đời sống kinh tế xã hội luôn chuyển biến
không ngừng do đó hoạt động của hành chính nhà nước luôn phải thích ứng

với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Trong từng thời kỳ nhất định, thích nghi với xu
thế của thời đại đáp ứng được những nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong giai đoạn
mới.
d) Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao:
Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao là một bắt buộc đối với hoạt
động quản lý Nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước và là đòi hỏi
của 1 nền hành chính phát triển, Khoa học văn minh và hiện đại.
Hoạt động quản lý Nhà nước của hành chính nhà nước có nội dung
phức tạp và đa dạng đòi hỏi các nhà hành chính phải có kiến thức xã hội và
kiến thức chuyên môn sâu rộng.
Những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước là những
thực thi công vụ, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của họ có ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng công vụ vì lẽ đó trong hoạt động hành chính nhà nước
năng lực chuyên môn và quản lý của những người làm việc trong các cơ quan
hành chính nhà nước phải là những tiêu chuẩn hàng đầu. Xây dựng và tuyển
chọn đội ngũ những người vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
2


nước có năng lực, trình độ chuyên môn đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của
hoạt động quản lý Nhà nước là một trong những vấn đề khó khăn hiện nay
của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng.
e) Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ:
hành chính nhà nước bao gồm hệ thống định chế theo thứ bậc chặt chẽ
thông suốt từ trung ương tới các địa phương mà trong đó cấp dưới phục tùng
cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp
trên. Mỗi cấp cơ quan, mỗi người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được giao.
Tổ chức bộ máy hành chính theo thứ bậc chính là cách thức cần thiết
để phân công trách nhiệm hoạt động quản lý Nhà nước của các cơ quan hành

chính nhà nước. Tuy nhiên để tránh biến thế hệ thống hành chính thành hệ
thống quan liêu, cứng nhắc, chính hệ thống thứ bậc cũng cần sự chủ động
sáng tạo linh hoạt của mỗi cấp, mỗi cơ quan mỗi công chức để thực hiện luật
pháp và mệnh lệnh của cấp trên trong khuôn khổ phân công phân cấp, đúng
thẩm quyền theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
f) Tính không vụ lợi:
hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích công
dân vì vậy không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, không đòi hỏi người được
phục vụ phải trả thù lao. Nếu mục tiêu của các tổ chức SẢN XUẤT KINH
DOANH là lợi nhuận và phục vụ cho những mục tiêu riêng của những người
thành lập tổ chức thì hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung
và hành chính nhà nước nói riêng nhằm phục vụ nhân dân do đó tính riêng
của các cơ quan hành chính nhà nước không tồn tại.
Tính xã hội, tính nhân dân làm cho hành chính nhà nước không vụ lợi,
không vì tổ chức riêng của mình.
g) Tính nhân đạo:
Tính nhân đạo của hoạt động quản lý Nhà nước của các cơ quan hành
chính nhà nước là tôn trọng con người, phục vụ con người và lấy mục tiêu
phát triển làm động lực. Cơ quan hành chính và đội ngũ những người được
Nhà nước trao cho việc thực thi hoạt động quản lý Nhà nước không được
quan liêu, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà cho dân khi thi hành công vụ.
Sự cưỡng bức của hành chính nhà nước là biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm
để mọi vi phạm phải được xử lý chứ không phải chỉ nhằm để trừng phạt.
3. Khái niệm và đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước.
a. Khái niệm:

3


Quản lí hành chính nhà nước là quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành

pháp hoặc quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động chấp hành – điều
hành của nhà nước.
b. Quản lý hành chính nhà nước có các đặc điểm sau:
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chấp hành và điều
hành.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước mang tính chủ động và tính
sáng tạo.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính mục đích và tính
định hướng.
Quản lý hành chính nhà nước có tính chuyên môn hóa và nghiệp vụ
cao;
Quản lý hành chính nhà nước XHCN không có sự cách biệt tuyệt đối
về mặt xã hội giữa chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý (chủ thể chịu sự
quản lý).
Quản lý hành chính nhà nước mang tính không vụ lợi. Hoạt động quản
lý hành chính nhà nước được bảo đảm về phương diện tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam mang đầy đủ
những đặc điểm chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước và có một
số đặc điểm riêng. Các đặc điểm nổi bật của quản lý hành chính nhà nước ở
Việt Nam là:
Thứ nhất, hoạt động quản lý hành chính nhà nước có tính chấp
hành và điều hành.
- Tính chấp hành thể hiện ở mục đích của quản lí hành chính nhà nước
là: đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan
quyền lực nhà nước. Mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều được
tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật.
- Tính điều hành của quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở chỗ: để

đảm bảo cho các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước được
thực hiện trên thực tế, các chủ thể của quản lí hành chính nhà nước phải tiến
hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lí
thuộc quyền

4


=> Trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tính chấp hành
và tính điều hành luôn đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước, nhờ đó có thể phân biệt với hoạt động lập
pháp và tư pháp: Trong lập pháp, chấp hành là để xây dựng pháp luật làm cho
pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. trong tư pháp, chấp hành là để bảo vệ
pháp luật tránh khỏi sự xâm hại; còn trong quản lý hành chính, chấp hành là
để tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội.
Thứ hai, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang quyền lực
nhà nước.
- Quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước trước hết thể
hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua
phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng
được sử dụng là văn bản quản lý hành chính nhà nước
- Bên canh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể
có thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý
chí nhà nước, như các biện pháp về tổ chức, về kinh tế, tuyên truyền giáo dục,
thuyết phục cưỡng chế …
=> Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt hoạt động quản lý hành
chính với những hoạt động quản lý không mang tính quyền lực nhà nước, nhu
quản lý trong nội bộ của các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, doanh
nghiệp.
Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được tiến hành

bởi những chủ thể có quyền năng hành pháp.
Nhà nước có ba quyền năng: lập pháp, hành pháp và tư pháp.Trong đó,
quyền năng hành pháp trước hết và chủ yếu thuộc về các cơ quan hành chính
nhà nước, tuy nhiên trong rất nhiều hoạt động khác như: việc ổn định tổ chức
nội bộ của các cơ quan nhà nước, hoạt động quản lý được tiến hành bởi các
bộ…Trong các trường hợp này quyền năng hành pháp cũng thể hiện rõ nét và
nếu xét về bản chất thì tương đồng với hoạt động hành pháp của các cơ quan
hành chính nhà nước. Do dó, có thể kết luận chủ thể quản lý hành chính nhà
nước là các chủ thể mang quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, bao
gồm: cơ quan hành chính nhà nước và công chức của những cơ quan này; thủ
trưởng của các cơ quan nhà nước; các công chức nhà nước, cá nhân hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước ủy quyền quản lý hành chính đối với một số loại
việc nhất định
Thứ tư, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính thống
nhất, được tổ chức chặt chẽ.

5


Tính thống nhất và được tổ chức chặt chẽ của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước dựa trên nguyên tắc “hai chiều phụ thuộc”: loại trừ Chính phủ
là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính nhà thì mỗi cơ quan khác trong bộ
máy này đều lệ thuộc vào hai cơ quan: một cơ quan theo chiều dọc để đảm
bảo sự thống nhất của bộ máy; một cơ quan theo chiều ngang để đảm bảo sự
chủ động của mỗi cấp quản lý.
* Quan hệ dọc
- Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ
quan hành chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc
- Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chuyên môn cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung

cấp dưới trực tiếp nhằm thực hiện chức năng theo quy định của pháp luật.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị, cơ sở trực
thuộc.
* Quan hệ ngang
- Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chung với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên
môn cùng cấp với nhau
=>Tính thống nhất và tổ chức chặt chẽ của hoạt động quản lý nhà nước
ở Việt Nam là cơ sở đảm bảo cho hoạt động của bộ máy nhà nước được chỉ
đạo, điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự
liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp
của cả, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền
khác nhau; đồng thời tích cực phát huy tính chủ động sáng tạo của các địa
phương trong quản lý bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương.
Thứ năm, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính liên
tục.
Để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội, quản lý
hành chính nhà nước luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt. Đây là
một trong những cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và
hoạt động, quy chế công chức, công vụ của bộ máy hành chính nhà nước; tạo
ra bộ máy hành chính gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công
chức năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm đối
với hoạt động của mình.
Kết luận: Quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam là hoạt động chấp
hành và điều hành của nhà nước Việt Nam, hoạt động này được tiến hành liên
6


tục, luôn thống nhất và có tổ chức chặt chẽ, mang tính quyền lực nhà nước và

đươc tiến hành bởi các chủ thể có quyền năng hành pháp.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà
nước?
1. Khái niệm hiệu lực, hiệu quả của hành chính nhà nước
- Hiệu lực hành chính nhà nước: Là sự thực hiện đúng, có kết quả chức
năng quản lý của bộ máy hành chính để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề
ra.
- Hiệu quả hành chính nhà nước: Là kết quả quản lý đạt được của bộ
máy hành chính trong sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực, trong
mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính
nhà nước?
Thứ nhất, năng lực, chất lượng của nền hành chính biểu hiện ở sự kết
hợp hài hòa các yếu tố thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức.
Thứ hai, sự ủng hộ của nhân dân đối với NHÀ NƯỚC nói chung và
hành chính nói riêng. Sự tín nhiệm của dân đối với cơ quan hành chính càng
lớn thì hoạt động quản lý của bộ máy hành chính nhà nước càng dễ dàng đạt
được mục tiêu.
Thứ ba, đặc điểm tổ chức và nguyên tắc vận hành của hệ thống chính
trị. Hiệu lực quản lý của bộ máy hành chính phụ thuộc vào nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng, sự phân công rành mạch giữa các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp và giữa các cơ quan NHÀ NƯỚC với nhau.
3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hành chính
nhà nước
Việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hành chính nhà nước là một yêu
cầu tất yếu đối với các nước nói chung và Việt Nam nói riêng, xuất phát từ
yếu tố nội tại của nền hành chính và yếu tố môi trường của hoạt động hành
chính nhà nước

a. Yếu tố nội tại của nền hành chính nhà nước
Nền hành chính là bộ máy trực tiếp thực thi quyền hành pháp, tổ chức
và điều hành mọi hoạt động trong đời sống xã hội theo pháp luật. Đó là bộ
phận năng động nhất và thực hiện trực tiếp nhất chức năng quản lý trong bộ
máy nhà nước. Do đó, cải cách hành chính được coi là nội dung trọng tâm

7


trong cải cách bộ máy nhà nước của hầu hết các nước trên thế giới. Vị trí đặc
biệt của nền hành chính được xem xét trên các phương diện:
Trong toàn bộ cơ cấu nhà nước, nền hành chính nhà nước là một hệ
thống rộng lớn nhất, bao gồm các mặt: pháp lý, tổ chức nhân sự va tài chính
công. Nó là chiếc cầu nối quan trọng giữa Đảng cầm quyền, nhà với dân, trực
tiếp thực hiện chức năng quản lý công việc hàng ngày của nhà nước, thường
xuyên tiếp xúc với dân, giải quyết các yêu cầu của dân.
Nền hành chính với số lượng nhân viên đông đảo nhất so với tất cả các
tổ chức công quyền khác trong xã hội. Cải cách hành chính nhà nước cũng
chính là nâng cao trình độ, năng lực, xây dựng tác phong làm việc chuyên
nghiệp và nâng cao phẩm chất đội ngũ cán bộ, công chức hùng hậu trong bộ
máy nhà nước nhằm xây dựng một nền hành chính phục vụ dân có hiệu quả
hơn.
Nền hành chính nhà nước là nơi biểu hiện trực tiếp nhất, rõ nhất, tập
trung nhất những ưu việt của chế độ, cũng như những khuyết điểm, nhược
điểm của bộ máy nhà nước.
Ngoài ra, một lý do quan trọng khiến các Chính phủ phải tiến hành cải
cách là do nền hành chính đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong quản lý,
điều hành cũng như phục vụ xã hội. Vì vậy, các chính phủ phải nỗ lực tìm
kiếm các giải pháp để khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động hành chính nhà nước

b. Sự thay đổi của môi trường hành chính
Nền hành chính nhà nước tồn tại, vận động và phát triển trong môi
trường rất phức tạp, đa dạng và luôn biến đổi. Trong hoạt động quản lý chỉ
thích ứng trong môi trường cụ thể. Khi môi trường thay đổi, phương thức
quản lý cũng phải điều chỉnh, thay đổi. Chính vì vậy việc thay đổi, điều chỉnh
phương thức hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả của hành chính nhà nước là
một đòi hỏi tất yếu. Sự thay đổi của môi trường trong đó nền hành chính nhà
nước tồn tại biểu hiện tất cả các lĩnh vực; chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Môi trường chính trị thế giới cũng đang có nhiều biến động phức tạp,
không dễ dàng dự báo những xu thế đó. Vì vậy, các nhà quản lý nhà nước nói
chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng vẫn đứng trước nhiều thách
thức của sự tác động này đến nền hành chính nhà nước, sẽ không kịp thời đưa
ra các biện pháp để điều chỉnh, can thiệp cần thiết nhằm làm cho nền hành
chính nhà nước thích ứng với môi trường chính trị quốc tế đang diễn biến rất
phức tạp như hiện nay
Môi trường kinh tế thế giới cũng đang tác động mạnh hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước của các quốc gia trên thế giới. Tình hình kinh tế thế
8


giới tác động đến bộ máy nhà nước nói chung và nền hành chính nhà nước nói
riêng có thể dễ nhận dạng hơn và mức độ tác động của có thể rất mạnh và có
thể đo lường cụ thể. Thị trường kinh tế thế giới đang ngày càng mở rộng và
tính không biên giới của thị trường kinh tế càng ngày càng thể hiện cụ thể.
Nhiều khu vực mậu dịch tự do đã được hình thành nhằm giải quyết tốt hơn và
thúc đẩy buôn bán giữa các nước với nhau và tạo ra một sự bình đẳng, cùng
có lợi vì sự phát triển. Nếu như trước đây, các nước áp dụng chính sách bảo
hộ hàng sản xuất trong nước, hạn chế sự xâm nhập của hàng nước ngoài
thông qua hàng rào thuế quan, thì sự hình thành các khu mậu dịch tự do tạo ra
những cơ hội cạnh tranh lớn hơn, tạo cơ hội sử dụng tốt hơn, hiệu quả hơn lợi

thế so sánh giữa các nước thuộc khu vực mậu dịch tự do. Điều đó cũng có
nghĩa tăng hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
Trong môi trường xã hội dân chủ, người dân đòi hỏi và mong muốn
được thực hiện quyền làm chủ hợp pháp một cách đầy đủ, được yên ổn sinh
sống, làm ăn trong môi trường an ninh, trật tự và dân chủ, không bị phiền hà,
sách nhiễu. Hành chính nhà nước phải phát huy dân chủ cơ sở, thu hút sự
tham gia của người dân vào quản lý nhà nước và phải công khai, minh bạch
trong các hoạt động của mình. Khi xã hội càng phát triển, trình độ dân trí
ngày càng cao và những đòi hỏi mở rộng dân chủ ngày càng cấp bách, việc
xây dựng một nền hành chính có hiệu lực, hiệu quả, coi công dân là khách
hàng, coi phục vụ công dân và xã hội là đòi hỏi tất yếu và là mục tiêu chung
của hầu hết các quốc gia trên thế giới
Những thành tựu của khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, sinh
học…) đã tác động mạnh mẽ đến quá trình quản lý. Điều đó đòi hỏi phải cải
cách nền hành chính, sắp xếp lại bộ máy, đổi mới phương pháp quản lý để
theo kịp những tiến bộ chung của thế giới
Toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như các vấn đề khác đã tạo ra những
thách thức và đòi hỏi các chính phủ phải có những thay đổi trong hoạt động
quản lý. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng rộng rãi và diễn ra trên bình
diện toàn thế giới trên nhiều lĩnh vực, đó là quá trình khu vực hóa và toàn cầu
hóa. Những quá trình này đòi hỏi thể chế hành chính và đội ngũ cán bộ phải
thích ứng với pháp luật và thông lệ quốc tế đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ
bảo vệ lợi ích quốc gia.
Việc tìm kiếm những mô hình tổ chức nền hành chính nhà nước nhằm
đem lại hiệu lực, hiệu quả cao hơn luôn là mục tiêu ưu tiên của nhiều nhà lãnh
đạo nhà nước khi lên nắm chính quyền. Các Chính phủ luôn đưa ra các đề
xuất nhằm thay đổi, cải cách hoạt động quản lý của chính phủ sao cho phù
hợp với xu thế vận động, phát triển của mội trường trong đó nền hành chính
tồn tại


9


4. Các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính nhà nước
Một là, kiểm soát chi tiêu của Chính phủ
- Yêu cầu của nền hành chính của mọi quốc gia hiện nay là chính phủ
phải làm nhiều hơn, nhưng chi phí ít hơn. Điều này dẫn đến xu hướng kiểm
soát chi tiêu chính phủ. Biện pháp:
+ Giảm quy mô hành chính nhà nước bằng cách hợp nhất các Bộ có
chuyên môn nghiệp vụ gần giống nhau, loại bỏ những cơ quan chức năng
trùng lặp, xã hội hóa dịch vụ công. Ngoài ra, tiến hành tinh giảm biên chế.
+ kiểm soát để nền hành chính nhà nước sử dụng nguồn lực hiệu quả.
Bằng cách: Cấp phát ngân sách theo chương trình, dự án, xây dựng chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Hai là, nâng cao chất lượng dịch vụ công
- Cải cách thủ tục hành chính phục vụ nhân dân nhanh, gọn, có hiệu
quả và công bằng. Thực hiện đơn giản hóa, giảm số lượng các thủ tục hành
chính. Hoặc áp dụng mô hình 1 cửa, một dấu như hiện nay.
- Xây dựng các quy định chính thức về trách nhiệm của NHÀ NƯỚC
trong cung ứng dịch vụ công cho xã hội .
- Tư nhân hóa và thiết lập các công tác công tư trong hoạt động cung
ứng dịch vụ công.
Ba là, tăng cường sự tham gia của nhân dân vào hoạt động hành
chính nhà nước
- Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ dân với quan điểm coi
công dân như khách hàng và đưa nền hành chính gần với dân, làm cho dân
gắn với hoạt động của CHÍNH PHỦ .
- Tăng cường sự tham gia của nhân dân và Quản lý NHÀ NƯỚC , tạo
hệ thống quản lý mở, tạo cơ hội để dân có thể bày tỏ quan điểm của mình để
hoàn thiện chính sách, quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hành

chính công.
Bốn là, đẩy mạnh phân quyền
- Hướng tới nền hành chính hiệu quả, nhiều CHÍNH PHỦ đã và đang
chuyển giao bớt thẩm quyền từ trung ương xuống địa phương.
- Xu hướng này một mặt tăng cường sự quản lý thống nhất và điều
hành vĩ mô của CHÍNH PHỦ trung ương đối với toàn quốc và địa phương;
mặt khác tăng cường thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương,
phát huy tính chủ động của địa phương.
10


Năm là, cải cách chế độ công vụ
- Công vụ, công chức là yếu tố quan trọng cấu thành nền HÀNH
CHÍNH, quyết định sự thành bại của một tổ chức. Xu hướng chung của các
nước là cải cách công vụ theo hướng dân chủ, công bằng.
- Các giải pháp cơ bản trong cải cách công vụ bao gồm: cải cách chế độ
tiền lương, áp dụng mô hình quản lý công chức mới, tăng cường đào tạo công
chức hành chính, chú trọng tới đạo đức công chức.
Sáu là, vận dụng các nguyên tắc và phương pháp quản lý doanh
nghiệp vào hành chính nhà nước
- Vận dụng các nguyên tắc và phương pháp quản lý doanh nghiệp vào
hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của QUYẾT ĐỊNH
HÀNH CHÍNH . Nhiều phương pháp, nguyên tắc Quản lý có hiệu quả được
đưa vào áp dụng trong khu vực công như: Quản lý theo mục tiêu (MBO),
cạnh tranh, đấu thầu.
Bảy là, hiện đại hóa hành chính nhà nước.
- Hiện đại hóa hành chính nhà nước bằng cách trang bị các thiết bị kỹ
thuật hiện đại như: máy tính, máy fax, điện thoại vào trong các hoạt động
hành chính , nhất là hoạt động hành chính văn phòng và thông tin điều hành
nhằm đảm bảo thu thập, xử lý và truyền thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác

và thuận lợi.
Tóm lại, Các giải pháp trên được tổ chức và triển khai thực hiện có hiệu
quả sẽ góp phần thiết thực vào việc xây dựng nền hành chính nhà nước hoạt
động thông suốt, hiệu quả và làm tốt các chức năng đối nội và đối ngoại ở
nước ta hiện nay.
IV. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6
Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 “…Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ”. Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng
ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng xác định là nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Như vậy, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải là một hoạt động
thường xuyên trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung và của các cơ quan nhà nước nói riêng. Vấn đề đặt ra tưởng rằng như
đơn giản nhưng hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất, là: hiểu nội dung
của nguyên tắc này như thế nào cho đúng?.
11


Theo chúng tôi, hiện nay có ba loại ý kiến khác nhau về nguyên tắc
này.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết
hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
Nhà nước. “Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao
giờ được phép cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Vì như vậy sẽ dẫn
đến những hậu quả như: chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, hạn chế tự do,
sáng tạo, coi thường pháp luật v.v…”3. “Tập trung và dân chủ là hai mặt của

một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không
chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản
chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ
dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu
quả”4. “Nghệ thuật của sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là tìm tỷ lệ
kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm
chí là từng vấn đề cụ thể”5. “Trong từng địa phương, từng thời điểm khác
nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ
dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc”6. “Nội dung
của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước là sự kết hợp biện chứng giữa hai mặt: tập trung (thống nhất) và dân
chủ”7. “Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất
biện chứng giữa chế độ tập trung và chế độ dân chủ. Do vậy, bất kỳ sự nhấn
mạnh hay coi nhẹ một mặt nào của nguyên tắc này sẽ dẫn đến sự thiếu hiệu
lực và hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu quá tập trung sẽ
dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ,
còn nếu quá dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng dân chủ quá trớn, lạm dụng dân
chủ và vô chính phủ. Nói như vậy cũng không có nghĩa là chúng ta dàn đều cả
hai nội dung tập trung và dân chủ”8.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập
trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở
dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm
chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. V.I. Lênin đã nhấn mạnh
rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nghĩa chung nhất là: tập trung được hiểu
ở nghĩa dân chủ thực sự.
Ngoài ra, còn có loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc
thủ trưởng có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng
góp ý kiến của nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của
cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa

tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng.

12


Như vậy, có thể thấy đa số các tác giả cho rằng nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước là sự kết hợp
giữa hai yếu tố (hai mặt) tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là
không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ
thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước.
Chúng tôi cho rằng để hiểu một cách chính xác nội dung của nguyên
tắc này, trước hết cần xem xét về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp của thuật ngữ
này. Chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng thuật ngữ “tập trung dân chủ” thì
“tập trung” là danh từ, “dân chủ” là tính từ; tính từ bổ nghĩa cho danh từ10.
Như vậy, “tập trung dân chủ” không phải là tập hợp của hai danh từ [cũng cần
nhắc lại rằng Điều 6 Hiến pháp 1992 qui định “…Quốc hội, Hội đồng nhân
dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức va hoạt động theo “nguyên
tắc tập trung dân chủ” chứ không phải là nguyên tắc tập trung, (phẩy) dân chủ
hoặc cũng không phải là tập trung - (gạch ngang) dân chủ]11. Do đó, dễ dàng
có thể nhận thấy rằng nội dung của nguyên tắc này không phải là hai vế, hai
mặt của một vấn đề. Tập trung dân chủ là “tập trung” trên cơ sở “dân chủ”
(tập trung một cách dân chủ).
Tập trung là một thuộc tính quản lý quan trọng của bất kỳ nhà nước
nào, song nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước ta nói riêng
không áp dụng sự tập trung độc đoán hay tập trung quan liêu mà là tập trung
trên cơ sở dân chủ chân chính. Sự tập trung đó rất xa lạ với tập trung quan
liêu, tách rời bộ máy nhà nước với nhân dân. Đúng như V.I.Lênin đã nhấn
mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nghĩa chung nhất là: tập trung
được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự. Tập trung trong tổ chức và hoạt động của

các cơ quan nhà nước phải mang tính dân chủ chứ không phải tập trung độc
đoán, tập trung quan liêu. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng nguyên tắc này được
Lênin nêu ra trước Cách mạng tháng 10 Nga trong bối cảnh nội bộ Đảng
Cộng sản Nga xuất hiện nhiều tư tưởng có khuynh hướng cản trở việc thống
nhất đường lối, thống nhất hành động cách mạng. Nội dung của nguyên tắc
này, theo Lênin là thống nhất nhận thức, thống nhất hành động để giữ vững
đường lối cách mạng và tiến hành cách mạng thắng lợi. Từ đó, nguyên tắc tập
trung dân chủ được xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của Đảng Cộng sản Nga.
Ở nước ta, nguyên tắc này không những được áp dụng trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước mà tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam
và một số các tổ chức chính trị – xã hội cũng vận dụng nguyên tắc này.
Bất kỳ xã hội và bất kỳ kiểu nhà nước nào, việc quản lý xã hội và thực
hiện quyền lực nhà nước (quản lý nhà nước) đều phải có sự tập trung quyền
lực. Đây là yếu tố bắt buộc và mang tính tất yếu nhằm điều khiển (quản lý)
13


được toàn bộ các hoạt động xã hội, thiết lập và duy trì một trật tự xã hội phù
hợp với ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, nội
dung (tính chất) của sự tập trung trong các chế độ xã hội và chế độ nhà nước
hoàn toàn không giống nhau. Điều đó trước hết phụ thuộc vào bản chất của
chế độ xã hội, chế độ nhà nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội.
Trong xã hội phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung trong tay giai cấp
thống trị phong kiến mà đại diện là nhà vua; đặc biệt ở các nhà nước theo
chính thể quân chủ chuyên chế, chế độ cai trị thể hiện sự độc đoán, chuyên
quyền, phản dân chủ (hoặc có dân chủ nhưng rất hạn chế). Đến chế độ tư bản
chủ nghĩa, tập trung, quan liêu là đặc trưng điển hình của việc tổ chức bộ máy
nhà nước tư sản. Các cơ quan cai trị với những quan lại cai trị được bổ nhiệm
từ trên xuống luôn kiêu căng, lấn át, xa rời thực tế; chỉ chịu trách nhiệm trước

cấp trên mà không chịu trách nhiệm trước nhân dân và không chịu sự giám sát
của nhân dân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kịch liệt phê
phán cơ chế tập trung quan liêu đó. Đối với bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa thì một nguyên tắc mới đã được vận dụng, đó là nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nội dung của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước có biểu hiện rất phong phú và đa dạng, nhưng thể hiện một cách khái
quát ở việc phân công công việc, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà
nước (ở trung ương cũng như ở các cấp địa phương), sự phân cấp về thẩm
quyền (nhiệm vụ, quyền hạn), mối quan hệ giữa trung ương với địa phương,
giữa các cấp địa phương với nhau. Trong từng cơ quan nhà nước, những vấn
đề nào do tập thể quyết định; những vấn đề nào do người đứng đầu quyết
định; qui định cách thức quyết định những vấn đề đó.
Trên bình diện toàn bộ bộ máy nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ
được biểu hiện ở một số nội dung cơ bản:
- Toàn bộ các cơ quan nhà nước phải có một trung tâm quyền lực chỉ
đạo một cách mạnh mẽ và thống nhất, mỗi cơ quan nhà nước đều có những
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp phải do nhân dân bầu ra theo bốn nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín trên cơ sở dân chủ. Các đại biểu
dân cử thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước phải liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, nói lên tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám
sát chặt chẽ của nhân dân. Nếu không còn được sự tín nhiệm của nhân dân thì
đại biểu dân cử có thể bị bãi nhiệm.
14



- Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
theo qui định của Hiến pháp và pháp luật, nhưng những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước trước khi quyết định phải lấy ý kiến của nhân dân hoặc phải
do nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc trưng cầu ý kiến của nhân
dân. Ở địa phương, những vấn đề quan trọng ở địa phương cần tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến hoặc trực tiếp quyết định.
- Trên cơ sở qui định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của mình
và căn cứ vào đặc điểm, tình hình, lợi ích hợp lý của điạ phương (và cấp
dưới), các cơ quan nhà nước trung ương (và cấp trên) có quyền quyết định đối
với địa phương (và cấp dưới). Các cơ quan nhà nước địa phương (và cấp
dưới) có quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện quyết định của cơ
quan nhà nước trung ương (và cấp trên) hoặc những vấn đề thuộc thẩm quyền
của mình, phù hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương hoặc đơn vị mình,
nhưng không được trái với các qui định của trung ương (và cấp trên ).
- Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải phân định những vấn
đề thuộc thẩm quyền tập thể, những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền
của người đứng đầu. Những vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể thì thiểu số phục
tùng đa số nhưng thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến, đa số cũng cần xem xét,
tham khảo ý kiến của thiểu số để kiểm tra tính đúng đắn trong quyết định của
mình. Những vấn đề cá nhân có quyền quyết định thì cá nhân phải chịu trách
nhiệm về quyết định của mình.
- Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra (và
do cấp trên phê chuẩn) và phải thực hiện các quyết nghị của cơ quan quyền
lực, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực cùng cấp.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng trong tổ chức và hoạt
động trong các cơ quan nhà nước khác nhau thì khác nhau. Có thể phác họa
hình thức thể hiện của nguyên tắc này trong từng loại cơ quan nhà nước như
sau:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm

trước nhân dân. Các đại biểu dân cử có thể bị nhân dân bãi nhiệm nếu không
còn sự tín nhiệm của nhân dân. Các văn bản của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp có giá trị bắt buộc đối với các cơ quan cùng cấp và cấp dưới. Tất
cả các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp đều được thảo luận một cách dân chủ, công khai trong các kỳ họp và
quyết định theo đa số (trừ một số vấn đề đặc biệt được quyết định khi có ít
nhất 2/3 tổng số đại biểu biểu quyết tán thành).
- Đối với cơ quan hành chính nhà nước nguyên tắc này thể hiện, Chính
phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm (đối với Thủ tướng), phê chuẩn
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và
15


Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) theo đề nghị của Thủ tướng, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với các thành viên của Chính phủ. Quốc hội thành lập, sáp nhập,
giải thể các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
theo sự đề nghị của Thủ tướng (sau khi đã được tập thể Chính phủ quyết
định). Chính phủ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp
luật qui định để thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội.
Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số 8 nhóm vấn đề quan
trọng14, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì sẽ thực hiện theo ý kiến
mà Thủ tướng đã biểu quyết. Thủ tướng có quyền quyết định cá nhân những
vấn đề khác (Điều 20, Luật tổ chức Chính phủ 2001). Ủy ban nhân dân các
cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Người đứng đầu cơ quan hành
chính cấp trên có quyền phê chuẩn nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp
dưới trực tiếp về việc bầu Ủy ban nhân dân; có quyền điều động, miễn nhiệm,
cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch cơ quan hành chính cấp dưới trực
tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của cơ quan
hành chính cấp dưới trực tiếp. Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số 6 nhóm vấn đề quan trọng15. Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết

định những vấn đề còn lại thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân.
Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Các cơ quan thuộc Chính phủ làm việc
theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm tính dân chủ. Bộ trưởng có quyền quyết định
các công việc thuộc phạm vi quản lý của Bộ và chịu trách nhiệm về các quyết
định đó, Bộ trưởng chịu trách nhiệm về những công việc do Bộ trực tiếp quản
lý, chịu trách nhiệm liên đới về những công việc đã phân cấp cho chính quyền
địa phương nhưng do Bộ không thực hiện đầy đủ trách nhiệm. Các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên
chế và công tác của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo,
kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên và hoạt động theo
chế độ thủ trưởng. Tập trung dân chủ không phải là cơ quan cấp trên làm thay
hoặc “lấn sân” cơ quan cấp dưới, đồng thời cũng không phải là việc cơ quan
cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên.
Như vậy, có thể thấy rằng loại ý kiến thứ ba về nguyên tắc tập trung
dân chủ như đã nói ở trên chỉ đúng đối với tổ chức và hoạt động của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (tức là
chỉ đúng đối với hoạt động của các cơ quan làm việc theo chế độ thủ truởng).
Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, nguyên tắc tập trung
dân chủ được thể hiện rất đa dạng như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội
không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Chánh
án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước

16


Hội đồng nhân dân cùng cấp; trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Tòa án các cấp. Chế độ
bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với Tòa án nhân dân địa phương.

Chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với Tòa án quân sự cấp
quân khu, khu vực. Việc xét xử ở Tòa án có Hội thẩm tham gia theo qui định
của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Tòa án xét
xử tập thể và quyết định theo đa số. Tòa án xét xử công khai (trừ một số
trường hợp đặc biệt). Tòa án đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án bảo đảm cho những người
tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa
án. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử…
Đối với Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), nguyên tắc tập trung dân
chủ được thể hiện mang tính chất đặc thù. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC) do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, chịu sự
giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Viện trưởng VKSND địa phương do Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. Viện kiểm sát do
Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của
Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện
trưởng Viện kiểm sát Quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng VKSNDTC. VKSND cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện, khắc
phục kịp thời và xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của VKSND cấp mạnh
mẽ như nước lũ mùa xuân trong khi thảo luận, nhưng khi điều hành thì hàng
triệu người phải tuân theo chỉ huy của một người. Cường điệu một chiều là
trái với nguyên tắc tập trung dân chủ.
V. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Nội dung của Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001-2010.
Bao gồm 4 nội dung sau:
- Cải cách thể chế;
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính;

- Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức;
- Cải cách tài chính công.
1. Cải cách thể chế

17


- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt
động của hệ thống hành chính nhà nước.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan
nhà nước, của cán bộ, công chức.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính.
2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho
phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
- Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm
nhận để khắc phục những chống chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ.
Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm
những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà
nước trực tiếp thực hiện.
- Đến năm 2005, về cơ bản ban hành xong và áp dụng các quy định mới
về phân cấp Trung ương - địa phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa
phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương,
tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa
phương. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ.
Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước

khi địa phương quyết định phải có ý kiến của Trung ương và những việc phải
thực hiện theo quyết định của Trung ương.
- Bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
- Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.
- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính
các cấp.
- Thực hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính.
3. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức.
- Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ.

18


- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức.
4. Cải cách tài chính công
- Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách
Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách
nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân
sách.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân
dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các
công việc ở địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân
bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử
dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính
sách.

- Trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự
nghiệp, dịch vụ công, trong 2 năm 2001 và 2002 thực hiện đổi mới cơ chế
phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo
số lượng biên chế, thay thế bằng cách tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả và
chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo
mục tiêu của cơ quan hành chính, đổi mới hệ thống định mức chi tiêu cho đơn
giản hơn, tăng quyền chủ động của cơ quan sử dụng ngân sách.
- Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công.
- Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới
như:
+ Cho thuê đơn vị, sự nghiệp công, cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà
trường, bệnh viện, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ, công
chức chuyển từ các đơn vị công lập sang dân lập.
+ Cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài đầu tư
phát triển các cơ sở đào tạo dạy nghề, đại học, trên đại học, khám chữa bệnh
có chất lượng cao v.v…
+ Thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công cộng như vệ sinh
đô thị, cấp, thoát nước, cây xanh công viên, nước phục vụ nông nghiệp…
+ Thực hiện cơ chế hợp động một dịch vụ công trong cơ quan hành
chính.
- Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước, xoá bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đối
19


với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai,
minh bạch về tài chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai.
VI. PHỤ LỤC
1. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8-11-2011 của Chính phủ ban hành

chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020
2. Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND ngày 22-6-2012 của UBND Tp.
Hồ Chí Minh ban hành chương trình cải cách hành chính trên địa bàn Tp. Hồ
Chí Minh giai đoạn 2011-2020.

20


CHÍNH PHỦ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 30c/NQ-CP

Hà Nội, ngày 08 tháng 11 năm 2011

NGHỊ QUYẾT
BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 - 2020 (sau đây gọi tắt là Chương trình).
Điều 2. Mục tiêu của Chương trình
1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.

2. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh
bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
3. Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương
tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng
tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của
các cơ quan hành chính nhà nước.
4. Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của
đất nước.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất,
năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của
đất nước.
Trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách
thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,

21


chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ,
công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng
cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.
Điều 3. Nhiệm vụ của Chương trình
1. Cải cách thể chế:
a) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm
1992 được sửa đổi, bổ sung;
b) Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước
hết là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định,
thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn

bản quy phạm pháp luật;
c) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính
sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm sự công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh
tế - xã hội;
d) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại
khách quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước,
sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện
hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất,
bảo đảm quyền của người sử dụng đất;
đ) Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là
xác định rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn
của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức
năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ
chức và kinh doanh vốn nhà nước;
e) Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo
hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
g) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp;
h) Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa
Nhà nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính
22



sách quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước.
2. Cải cách thủ tục hành chính:
a) Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các
lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân,
doanh nghiệp;
b) Trong giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện cải cách thủ tục hành chính
để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã
hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền
kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững. Một số lĩnh vực trọng tâm
cần tập trung là: Đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở; thuế; hải quan; xuất
khẩu, nhập khẩu; y tế; giáo dục; lao động; bảo hiểm; khoa học, công nghệ và
một số lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo yêu cầu cải
cách trong từng giai đoạn;
c) Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước,
các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
d) Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo
quy định của pháp luật;
đ) Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình
thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá
nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành
chính nhà nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành
chính;
e) Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây
dựng thể chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa
Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò
của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế,
chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục hành chính
hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân
giám sát việc thực hiện;

g) Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy
định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính
và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp.
3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
a) Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ
cấu tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
23


nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành
chính nhà nước ở trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp
của Nhà nước); trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng
chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển
giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc
làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm
nhận;
b) Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của
chính quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm
phân định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu
quả; xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù
hợp.
Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên,
khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường
giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần
trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành;
c) Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà
nước; thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa,

một cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn
phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài
lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà
nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;
d) Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng
bước được nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài
lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các
lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020.
4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức:
a) Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ
cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và
phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước;
b) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo
đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy
phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có
hiệu quả;

24


c) Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về
chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán
bộ, công chức lãnh đạo, quản lý;
d) Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn
vị, xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc
làm;
đ) Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công
nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức

trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi
tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng
và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương)
trở xuống;
e) Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức,
viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế
loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật,
mất uy tín với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành
vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức;
g) Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng
dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức,
viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi
dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng
hàng năm;
h) Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế
độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của
cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống
của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã
hội.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo
ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc khó
khăn, nguy hiểm, độc hại.
Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối
với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
i) Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức.

25


×