Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

ôn tập mac lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.05 KB, 6 trang )

Câu 1: Bản chất của của ý thức:
Khác với các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ
nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, cho rằng: Về bản chất, coi ý thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo, ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức đực thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông
tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra
những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của những thông tin được tíêp nhận. tính năng động
sáng toạ cảu sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người dự báo, tiên đoán
tương lai hoặc tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại. .. trong đời sống tinh thần của
mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức
các hoạt động cuả con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới
khách quan mà nó đã cải biến quan lăng kính chủ quan của con người. Điều này phụ thuộc
vào yếu tố của bản thân chủ thể, trình độ nhận thức, tâm tư, tình cảm, đặc điểm tâm sinh lý
của chủ thể.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà
chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt thực
tiễn cảu xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu
của thực tiễn xã hội.
Ví dụ:
Chủ tịch HCM dự đoán:
1. Sau CTTG thứ II kết thúc thì hàng loạt các nước sẽ ra đời hệ thống XHCN.
2. 1964: Mĩ nhất định sẽ thua tại VN nhưng chỉ thua sau khi thua trên bầu trời HN
(1972: 12 ngày đêm – kí hiệp định Pari)
3. 1960: 15 năm nữa Bác Nam sum họp 1 nhà.
Câu 2: Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận này trong cuộc sống và nghề nghiệp.


- Trên cơ sở quan điểm về bản chất của thế giới, bản chát năng động, sáng tạo của ý
thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây
dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng các quy luật khách
quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc phương pháp luận này,
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con ngườichỉ có thể đúng đắn, thành công và hiệu
quả khi và chỉ khi thực hiện động thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan , tôn trọng
thực tế khách quan với phát huy tính năng đọng chủ quan, phát huy tính năng động chủ quan
phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong
nhận thức và thực tiễn.
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan
của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy
luật, nhận thức và hành động theo quy luật, tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất
đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành
động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp, phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương
tiện, phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để
hành động.


- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hoá tính tích cực, năng
động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, tích cực học
tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá nó vào quần chúng, hướng dẫn quần
chúng hoạt động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh
quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học
và tính nhân văn trong định hướng hành động.
- Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, đó là
những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay hiện thực, lấy ý muốn chủ

quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược... Đây cũng
là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận,
bảo thủ, trì trệ, thụ động... trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Vận dụng :
-Tôn trọng những quy định của PL trong l.vực K.toán.
-X.phát từ năng lực bản thân, đk thực tế của g.đình để x.định phương hướng phấn đấu
cho phù hợp.
-Trong l.vực k.toán cần x.phát từ những số liệu thực tế, thông tin thực tế để tính toán.
Luôn trung thực trong hoạt động.
-Không ngừng học tập để hoàn thiện k.thức về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
sau này.
Câu 3: Phân tích nội dung quy luật Giá trị. Dùng quy luật giá trị giải thích câu
”Thương trường là chiến trường” .
1. Nội dung của quy luật giá trị
- Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết.
Cụ thể:
+ Trong sản xuất: Quy luật giá trị yêu cầu người sản xuất hàng hóa phải hạ thấp mức hao
phí lao động cá biệt của mình cho phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết để tồn
tại.
+ Trong trao đổi hàng hóa: quy luật giá trị yêu cầu phải thực hiện theo nguyên tắc ngang
giá: hai hàng hỏa trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau, hoặc trao
đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện theo nguyên tắc giá cả phù hợp với giá trị.
2. Tác động của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Điều tiết SX: phân phối TLSX và SLĐ vào các ngành, vùng khác nhau. Quy luật giá
trị điều tiết một cách tự phát thông qua sự lên xuống của giá cả.
+ Điều tiết lưu thông: Quy luật giá trị phân phối nguồn hàng hoá từ nơi có giá cả thấp
đến nơi có giá cả cao góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất
định.

- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hóa, người SX nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí
lao động xã hội cần thiết sẽ trở nên GIÀU muốn vậy phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức,
quản lý SX, thúc đẩy LLSX của XH phát triển.


- Phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.
+ Người nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu
được nhiều lãi trở lên giàu có.
+ Người nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ
rơi vào tình trạng thua lỗ trở lên nghèo khó.
3. “Thương trường là chiến trường”
Người nào nhanh nhạy trong sxkd sẽ óc mức hao phí lđxh cá biệt < mức lđxh cần thiết.
Khi mang hàng hóa có mức hao phí lao động xh ít sẽ đc lãi. Chủ thể nào không chịu khó đầu
tư vào sxkd, mức hao phí lđ cá biêt > mức hao phí lđ cần thiết sẽ lỗ.
Câu 4: P.tích mqh biện chững giữa nguyên nhân và kết quả. Vận dụng vấn đề này
trong học tập và nghề nghiệp.
a. Phạm trù nguyên nhân, kết quả.
- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Thí dụ: Sự tác động giữa dòng điện với giây tóc bóng đèn tạo nên ánh sáng; sự tác động
giữa hai chất hoá học tạo nên phản ứng hoá học v.v.
- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt, các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng tạo nên.
Thí dụ: ánh sáng xuất hiện là kết quả của sự tác động giữa dòng điện và giây tóc bóng đèn.
Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật khác nhau.
Nguyên nhân khác nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất
với kết quả. Điều kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới sự hình thành kết quả.
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả.

- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn xuất hiện trước kết quả.
- Nguyên nhân có trước kết quả, nhưng không phải hiện tượng có trước nào cũng là nguyên
nhân của hiện tượng có sau. Hiện tượng có trước phải có quan hệ sản sinh ra hiện tượng có sau
mới là nguyên nhân của nó.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp vì còn phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh khi
xảy ra nguyên nhân. Tính phức tạp đó biểu hiện ở chỗ: một nguyên nhân trong điều kiện khác
nhau có thể sinh ra kết quả khác nhau; hoặc nguyên nhân khác nhau trong những điều kiện khác
nhau có thể sinh ra kết quả giống nhau. Có thể có nhiều nguyên nhân đồng thời tác động. Nếu
nguyên nhân tác động cùng chiều thì thúc đẩy nhanh quá trình tạo ra kết quả, nếu không cùng
chiều hoặc trái chiều thì việc hình thành kết quả sẽ bị cản trở thậm trí bị triệt tiêu. Do vậy phải
nhận thức được vị trí vai trò của từng nguyên nhân để có thể chủ động tạo ra những điều kiện cho
kết quả ra đời theo mục đích của con người.
Thí dụ: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mỗi
thành phần kinh tế có vị trí, vai trò nhất định. Cần tạo ra những điều kiện để phát huy thế mạnh
của mỗi thành phần kinh tế trong cơ cấu thống nhất của toàn bộ nền kinh tế, có quan hệ biện
chứng với các thành phần kinh tế khác mới thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
một cách bền vững.
- Do tồn tại nhiều loại nguyên nhân và các nguyên nhân có vị trí khác nhau như vậy nên
cần phân loaị nguyên nhân. Có các loại nguyên nhân sau:


+ Nguyên nhân cùng chiều và trái chiều
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
+ Nguyên nhân chủ yếu và thứ yếu.
+ Nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
- Kết quả do nguyên nhân quyết định, nhưng kết quả ra đời lại tạo ra những điều kiện mới
cho sự tác động của nguyên nhân. Do vậy cần lợi dụng những kết quả để tác động lại nguyên
nhân nhằm đạt mục tiêu của con người.
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau trong quá trình phát triển của sự

vật.
Nguyên nhân và kết quả chỉ có ý nghĩa trong mối quan hệ nhất định. Do vậy không có sự
đối lập tuyệt đối giữa nguyên nhân và kết quả. Nguyên nhân và kết quả thống nhất biện chứng
với nhau.
c. . Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật,
hiện tượng dẫn đến kết qủa trong thế giới hiẹn thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới
đó.
- Ví mối liên hệ nhận quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại
nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp trường cụ thể
trong nhận thức và thực tiễn.
- Vì một nguyên nhạn có thể dẫn đến nhiều kết quả nên trong nhận thức và thực tiễn cần
phải có cách nhìn toàn diên và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng dụng quan hệ
nhân- quả.
Vận dụng thực tiễn: học tập chăm chỉ nên đạt kq tốt ...
Câu 5: Bản chất tiền công trong chủ nghĩa tư bản.
Ở bề ngoài của đời sống xã hội tư bản, công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian
nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hoá hay hoàn thành một số công việc nào đó thì nnhà tư
bản trả cho một số tiền nhất định gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng
rằng tiền công là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao
động, vì lao động không phải là hàng hoá. Sở dĩ như vậy là vì:
-Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ
thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao
động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động".
- Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây:
thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được
lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư
trong chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, còn nếu "hàng hoá lao động" được trao đổi không ngang giá để
có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.
- Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng bản thân lao động

thì không có giá trị. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư
bản chính là sức lao động. Do đó tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao
động. Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động,
nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động. Hình thức biểu hiện đó đã


gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những tình hình sau đây: thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức
lao động là không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử
dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị
cho lao động. Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có
tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư
bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. Thứ ba, lượng
của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản xuất ra, điều đó làm
cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động. Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của
sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành
lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền công che đậy bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản.
1. Bản chất của tiền công
- Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của hàng hóa
sức lao động. Tuy vậy, dễ có sự lầm tưởng, trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả của lao động
bởi vì:
+ Nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất ra
hàng hóa.
+ Tiền công được trả theo thời gian lao động, hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất
được.
- Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là sức lao động. Do đó,
tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa
sức lao động.
2. Hình thức tiền công cơ bản
- Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công tình theo thời gian lao động của công

nhân dài hay ngắn.
- Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công tính theo số lượng sản phẩm đã làm
ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định. Mỗi sản phẩm được trả
công theo một đơn giá nhất định...
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế.
- Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của
mình cho nhà tư bản.
- Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tư liệu tiêu dùng và
dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Câu 6: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
*Thực tiễn: Toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử xã hội của con người làm biến
đổi tự nhiên và xã hội. Nó nằm trong phạm trù vật chất. =>Biện chứng của hoạt động thực tiễn là
sự tác động qua lại giữa con người và hiện thực khách quan,trong dó con người là chủ thể,hiện
thực khách quan là khách thể. Chủ thể với tính tích cực,sáng tạo đã tách động vào khách thể làm
biến đổi khác thể và biến đổi cả chủ thể. Hoạt động thực tiễn được biểu hiện rất đa dạng nhưng có
thể khái quát ở 3 hình thức cơ bản sau:
-Hoạt động sản xuất vật chất trong xã hội(vai trò quyết định)
-Họat động cải biến xã hội
-Nghiên cứu,thực nghiệm khoa học: hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người


*Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
-Theo quan điểm của duy vật biện chứng:thực tiễn có vai trò đặc biệt to lớn đối với nhận
thức, nó chính là cơ sở mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
+ Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Chính những đòi hỏi của thực tiễn đã
đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức. Chính
con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải
tác động trực tiếp vào sự vật hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn làm các sự vật hiện tượng bộc
lộ những thuộc tính, những mối liên hệ của chúng, giúp con người nắm bắt được bản chất, quy
luật vận động phát triển của thế giới, từ đó hình thành nên các lý thuyết khoa học, chẳng hạn:từ

nhu cầu chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con người khám phá ra bản
đồ gen người...,từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người
sáng tạo ra các kính hiển vi.
+ Thực tiễn còn làm cho các cơ quan cảm giác của con người ngày càng hoàn thiện, năng
lực tư duy lôgic không ngừng được củng cố và phát triển
+ Thực tiễn tạo ra công cụ, phương tiện nhận thức làm khả năng nhận thức của con người
ngày càng mở rộng.
- Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý.
+ Thực tiễn là thước đo của những tri thức đã đạt được trong nhận thức
+ Thực tiễn không ngừng bổ xung, điểu chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
+ Tuy nhiên thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối.
-Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm
thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cở sở thực
tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Tránh 2 khuynh hướng xa rời thực tiễn hoặc tuyệt đối
hoá thực tiễn.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
-Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động thực tiễn,không được xa
rời thực tiễn.
-Trong hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học phải kết hợp với họat động sản xuất thực
tiễn theo phương châm học đi đôi với hành =>học mới có kết quả.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×