Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Lê Đạt và thơ Haikâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.14 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3
4
PHẦN NỘI DUNG
1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật.
1.1. Sự dịch biến điểm nhìn trong không gian, thời gian.
1.2. Sự dịch biến điểm nhìn bên trong và bên ngoài.
6
7
8
10
2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai. 12
3. Hợp xướng giọng điệu.
3.1. Giọng hài hước, châm biếm.
3.2. Giọng trữ tình.
3.2. Giọng triét lí.
14
15
18
19
4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh.
4.1. Ngôn ngữ miêu tả hoà vào ngôn ngữ đối thoại, độc
thoại.
4.2. Sự phức tạp của hệ lời.
4.3. Sự gia tăng của ngôn ngữ nhại.
21
21
22


24
PHẦN KẾT LUẬN 25
THƯ MỤC THAM KHẢO 26
1
Tôi quan niệm tiểu thuyết như một giấc mơ dài.
Hồ Anh Thái
2
PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Tiểu thuyết được xem là cái "máy cái" của văn học, là thể loại ưu việt
khám phá đời sống ở cả bề rộng và bề sâu. Văn học Việt Nam sau 1975 có sự
phát triển mạnh mẽ theo những khuynh hướng phức tạp khác nhau, trong đó tiểu
thuyết là thể loại phát triển hàng đầu và có nhiều thành tựu đáng chú ý.
Chưa bao giờ mà những sáng tạo tiểu thuyết, những gương mặt mới lại
xuất hiện nhiều và gây được nhiều chú ý đến thế. Nếu như tiểu thuyết là một con
đường dài thì các nhà văn là những người chạy tiếp sức, mỗi chẳng đường đều
có những tên tuổi nổi bật. Trong số đó, Hồ Anh Thái là một tên tuổi gây chú ý từ
những trang viết đầu tiên và là một trong những người bền bỉ bậc nhất trên con
đường văn chương.
Với quan niệm, "Tiểu thuyết như là một giấc mơ ẩn chứa những điều
không có thực ở ngoài xã hội. Thực chất tiểu thuyết là một câu chuyện bịa đặt
nhưng nó còn thật hơn cả sự thực" (Hồ Anh Thái), Hồ Anh Thái đã miệt mài trên
những trang giấy để viết lên những câu chuyện của riêng mình về cuộc sống:
Phía sau cổng trời, Cõi người rung chuông tận thế … và gần đây là Mười lẻ
một đêm, một tác phẩm gây xôn xao văn giới.
Mười lẻ một đêm là một câu chuyện rộng lớn về cuộc sống thể hiện một
cái nhìn bao quát, khả năng phản ánh và phân tích những tồn tại trong xã hội,
một tài bút hài hước kiểu mới của tác giả. Tác phẩm một lần nữa khẳng định vị
trí của Hồ Anh Thái, thể hiện những bước tiến dài của ông trong nghệ thuật tiểu
thuyết, đặc biệt là nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết. Nghệ thuật trần thuật

trong sáng tác này của nhà văn thể hiện sự tìm tòi cách tân đáng chú ý của nhà
văn, không chỉ là những sáng tạo khác lạ so với những nhà văn đi trước và cùng
3
thời mà còn là những sáng tạo mới so với chính Hồ Anh Thái. Qua nghệ thuật
trần thuật ta có thể nhận diện những cách tân, những bước tiến của ông trên sinh
lộ văn chương. Từ đó cũng có thể nhận diện được phần nào diện mạo của nghệ
thuật tiểu thuyết của văn học Việt Nam sau 1975.
Vì những lí do nêu trên mà chúng tôi lựa chọn đề tài, Nghệ thuật trần
thuật trong Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái để trình bày trong tiểu luận
này.
2. Lịch sử vấn đề.
Về những sáng tác của Hồ Anh Thái đến nay đã có một số những công
trình nghiên cứu đáng chú ý. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chi
dẫn ra hai công trình nghiên cứu có liên quan nhiều nhất đến phạm vi của bài
tiểu luận đó.
Thứ nhất là Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hữu Tâm, Nghệ thuật trần
thuật trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, ĐH Sư Phạm, 2006. Trong luận văn
của mình, tác giả đã trình bày khá rõ về những đặc sắc đáng chú ý của nghệ thuật
trần thuật trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Công trình này bao quát 5 tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái trong đó phần bàn về Mười lẻ một đêm chưa thực rõ.
Hơn nữa, phần bàn về giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết của
Hồ Anh Thái chưa thật rõ.
Công trình thứ hai chúng tôi quan tâm là Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Lê
Vân, Nghệ thuật truyện ngắn của Hồ Anh Thái, ĐH Sư phạm Hà nội, 2005
trong chương 3, Nghệ thuật trần thuật, tác giả đã có nhiều đóng góp, đặc biệt
là phần đầu chương, trần thuật khách quan và trần thuật chủ quan.
Ngoài những luận văn nghiên cứu có hệ thống nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết của Hồ Anh Thái thì những bài báo giới thiệu, đánh giá về tác phẩm
Mười lẻ một đêm cũng có những vị trí nhất định..
4

Báo Tin tức cuối tuần trong bài viết giới thiệu tác phẩm của tác giả
Hoàng Anh đánh gia: "bạn đọc vấp từ bất ngờ này sang bất ngờ khác… Một cuốn
tiểu thuyết chứa nhiều thông tin xã hội làm bạn đọc ngột thở, RỒi sự xýât hiện
ngỡ như chôc lát đơn giản của đôi tình nhân không tiên là duyên cớ cho những
trang cười trên từng trang tiểu thuyết. Báo Thanh niên thì đánh giá sát hơn về
giọng điệu của tác phẩm, " Mười lẻ một đêm được viết bằng giọng hài hước chủ
đạo. Thậm chí có đoạn được lồng vào vcả "truyện cười dân gian". Câu văn thụt
thò, dài ngắn, có chủ đích… tác giả dũng cảm- phải dùng chứ dũng cảm- nhảy
thẳng vào những ngổn ngang của đời sống hôm nay". Trong số ra mới nhất của
báo Người đại biểu nhân dân cũng có sự đánh giá tương tự " bằng tiếng cười,
tác giả đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm
nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc
phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở dây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn
ngang,m và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian
và nỗ lực cho nó". Những bài báo nêu trên đã nhận định đúng phần nào về nghệ
thuật của tác phẩm.Từ những bài báo có nhận xét đánh giá ban đầu ấy, chúng tôi
nhận thấy tác phẩm đã ghi những dấu ấn đậm nét trong công chùng.
Từ những công trình có qui mô khác nhau về tác phẩm, về nghệ thuật trần
thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, chúng tôi rút ra kết luận.
Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái có vị trí quan trọng trong văn học đương đại,
có giá trị nghệ thuật đáng chú ý mà đặc biệt là nghệ thuật trần thuật.
Mười lẻ một đêm là tác phẩm mới nhất của nhà văn, tác phẩm thể hiện
sức sống, sức sáng tạo bền bỉ của nhà văn cũng là tác phẩm đánh dấu độ chín của
tác giả. Và vấn đề nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm này là một vấn đề cần
được nghiên cứu toàn diện và kĩ lưỡng hơn.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu
nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết Mười lẻ một đêm để bổ sung thêm những
nghiên cứu về tác phẩm này, thể hiện sự nghiên cứu có hệ thống về nghệ thuật
trần thuật trong tác phẩ, để từ đó nhận diện phong cách độc đáo của Hồ Anh
Thái, về đặc điểm của nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết đương đại.

5
PHẦN NỘI DUNG
Trước hết, "Trần thuật là một phương thức cơ bản của tự sự, một yếu tố
quan trọng tạo nên hình thức của tác phẩm văn học. Cái hay, sức hấp dẫn của
một truyện ngắn hay tiểu thuyết phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật kể chuyện của
nhà văn. (187,18). Vai trò đậm nhạt của trần thuật còn phụ thuộc vào đặc điểm
của thể loại, những khuynh hướng phát triển của thể loại ấy. Trong địa hạt của
tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng, nghệ thuật trần thuật đóng vai
trò tối quan trọng. Nó không chỉ là yếu tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện mà còn là
bản thân của câu chuyện. Khi mà cốt truyện không còn đóng vai trò xương sườn,
nhân vật bị xoá mờ đường viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khoá mở ra
những cánh cửa của truyện. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 đã có những bước
phát triển mạnh mẽ theo những khuynh hướng phức tạp khác nhau. Trong đó,
khuynh hướng tiểu thuyết tự sự là một trong những khuynh hướng tiêu biểu và
có nhiều tác phẩm kết tinh (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thượng đế
thì cười của Nguyễn Khải, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài…) Trong những trang
viết đậm chất tự sự ấy, yếu tố trần thuật đóng vai trò quan trọng và thực tế đã cho
thấy, lối trần thuật mới lạ, đầy cách tân của Bảo Ninh, Nguyễn Khải, Phạm Thị
Hoài đã góp phần lớn tạo nên tên tuổi của những nhà văn này.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò của yếu
tố trần thuật trong tiểu thuyết nói chung và trong tiểu thuyết tự sự nói riêng.
Mười lẻ một đêm ra mắt bạn đọc năm 2006, khi mà tiểu thuyết Việt đã có
nhiều những trang viết thành danh, thể hiện rõ lối cách tân mạnh mẽ. Nhưng Hồ
Anh Thái vẫn không bị che mờ bởi những tên tuổi cùng thời và của cả chính
mình, ông vẫn thể hiện một lối trần thuật riêng, có sự nối tiếp của những sáng tạo
trước đó của mình và có những bước tiến rõ rệt, thể hiện một văn tài đáng chú ý.
Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong Mười lẻ
một đêm qua các khía cạnh sau:
6
1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật.

2. Người trần thuật trung tâm và người trần thuật đổi vai.
3. Hợp xướng giọng điệu.
4. Ngôn ngữ trần thuật đa thanh.
1. Sự dịch biến của điểm nhìn trần thuật.
Vấn đề điểm nhìn trần thuật trong văn bản, theo Iu Lôtman "bao giờ cũng
là vấn đề quan hệ giữa sáng tạo và cái được sáng tạo", nhà văn đặt mình ở vị trí
nào để quan sát và thể hiện những nhận suy về cuộc sống.
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, điểm nhìn nghệ thuật luôn có sự chuyển
hoá. Không có một điểm nhìn cố định, bất biến, duy nhất trong tác phẩm của nhà
văn. Điểm nhìn trong "Mười lẻ một đêm" có sự dịch biến trong không gian,
thời gian và từ bên ngoài vào bên trong.
1.1. Sự dịch biến điểm nhìn trong không gian, thời gian.
Theo giáo sư Trần Đình Sử thì "điểm nhìn không gian thể hiện qua các từ
chỉ phương vị, từ chỉ thị thời điểm như đây, này, hôm nay, nay… khi điểm nhìn
người trần thuật trùng với điểm nhìn nhân vật, khi điểm nhìn trần thuật không
trùng với điểm nhìn nhân vật ta có hình thức:
Điểm nhìn được trần thuật ở tâm khái quát, tầm xa.
Điểm nhìn của người trần thuật vận động theo hướng của mình, khi lùi về
quá khứ, khi ở phía này, khi ở phía kia trong các truyến nhân vật.
Khi nhìn trên cao có thể có cảch câm: chỉ thấy mà không nghe hoặc chỉ
nghe mà không thấy". (Dẫn theo Nguyễn Hữu Tâm).
7
Khi soi chiếu những nhận định trên của Trần Đình Sử vào trang viết của
Hồ Anh Thái, ta nhận ra sự song trùng, phù hợp của nó.
Câu chuyện được xác định ban đầu là câu chuyện kể của tác giả về một
chuyện có thể chấp nhận được hoặc không, tuỳ vào người đọc. Câu chuyện được
xác định trong giới hạn không gian là "trong căn hộ trên tầng sáu (7-2) nhưng
câu chuyện được kể không giới hạn trong cánh cửa mà xảy ra ở cuộc sống ngoài
kia, nhốn nháo và đầy nghịch lí. Không gian mở rộng từ khoảng hẹp là thành
phố, nông thôn rồi rộng hơn là không gian các nước khác như nước Mĩ, các nước

Châu Âu. Đó không chỉ là không gian xã hội bao quát mà còn là không gian
riêng tư của những gia đình, phòng trà, phòng khách, không gian chính giới, học
thuật … Tất cả đều được mở ra cả chiều rộng và chiều sâu.
Điều đáng chú ý là điểm nhìn luôn được dịch chuyển linh hoạt, từ toạ độ
ban đầu (căn phòng) chuyển đến các không gian rồi quay trở về toạ độ cũ, lại
tiếp tục dịch chuyển. Tưởng như điểm nhìn ấy có một toạ độ trung tâm : căn
phòng và những toạ độ biên, các không gian rộng mở, những không gian hẹp
khác. Giữa các toạ độ ấy luôn có sự liên kết, song chiếu lẫn nhau. Dù tách xa rồi
lại trở về, "toạ độ biên" luôn xoay quanh "toạ độ trung tâm".
Song trùng với sự dịch chuyển của điểm nhìn không gian là sự thay đổi
của điểm nhìn thời gian. Thời gian hiện tại, quá khứ, thời gian cuộc đời, thời
gian thực và thời gian trong truyện cổ. Điểm nhấn của tác phẩm là sự chuyển hoá
linh hoạt giữa thời gian cuộc đời trong tác phẩm. Kết cấu "truyện trong truyện"
tạo đà cho sự đan xen thời gian cuộc đời của các nhân vật. Từ người đàn ông
(anh), người đàn bà (chị) đến hoạ sĩ trồng chuối hột, người mẹ, giáo sư 1, giáo sư
8
2… Trong thời gian cuộc đời lại có sự chuyển dịch của quá khứ và hiện tại, song
chiếu hai khoảng hiện tại và quá khứ để nhận ra sự đổi thay. Như khi nhân vật
chị kể lại chuyện của mình với ông Vip, chuyện ông Vip nhận quà vào dịp lễ tết
thì đó là sự chuyển dịch điểm nhìn hiện tại về quá khứ. Trong câu chuyện ấy, khi
nhìn nét mặt hớn hở của chồng trước chồng quà, chị lại " ngạc nhiên, ngày trước
ông không có nét mặt ấy" thì đó là sự dịch chuyển một lần nữa. Quá khứ được
đẩy xa hơn, không còn là quá khứ của nhân vật chị mà là của nhân vật ông vip,
và một cấp độ nữa, là "quá khứ của quá khứ" hay rõ hơn là quá khứ trong câu
chuyện kể về quá khứ. Như vậy, sự dịch chuyển điểm nhìn thời gian luôn có sự
biến dịch của các tầng bậc, cấp độ. Điều đó tạo nên một lối kể chuyện liên tưởng
tự nhiên và thể hiện sự đa phức của mảng hiện thực nhà văn phản ánh. Ở đó
không chỉ có câu chuyện của người kể mà còn câu chuyện của biết bao số phận,
không chỉ có chuyện của quá khứ hay hiện tại mà còn là sự dịch chuyển từ quá
khứ đến hiện tại, sự đối sánh từ hiện tại trở về quá khứ …

1.2. Sự chuyển dịch điểm nhìn bên trong và bên ngoài.
Sự vận động chuyển hoá linh hoạt của điểm nhìn nghệ thuật không chỉ
diễn ra trong không gian, thời gian, nó còn luôn chuyển hoá giữa điểm nhìn bên
ngoài và điểm nhìn bên trong.
Điểm nhìn bên trong biểu hiện những hình thức tự quan sát, cái "tôi" qua
sự thú nhận hoặc dùng hình thức người trần thuật thể hiện những cảm nhận về
thế giới. Còn điểm nhìn bên ngoài là sự quan sát từ ngoại biên cuộc sống, nhận
diện khách quan về thế giới xung quanh.
9
Sự chuyển hoá điểm nhìn bên ngoài và bên trong xuất hiện nhiều trong tác
tiểu thuyết mở đường của văn học hiện đại sau 1975 như Nỗi buồn chiến tranh,
Thiên sứ, Bến không chồng … nhưng đến tác phẩm này, nó có sự khác biệt. Hồ
Anh Thái ngay từ những trang mở đầu tiểu thuyết đã tự giới thiệu sự tham dự
của tác giả trong truyện và đối thoại với bạn đọc " chính xác thì không đúng
mười lẻ một ngày nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả
cuốn sách thì mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia
truyền mà cái gì cũng phải tuần tự (7,2). Những lời đối thoại có tính chất giáo
đầu như thế đã thể hiện rõ điểm nhìn bên ngoài của tác giả khi trần thuật truyện.
Điều này phù hợp với câu chuyện kể chuyển vai theo lối truyện cổ Nghìn lẻ
một đêm. Nhưng điểm nhìn bên ngoài ấy luôn chuyển hoá, vận động vào điểm
nhìn bên trong. Khi tác giả viết, "chị bây giờ là vợ ông Vip, một nhân vật chỉ mới
nghe tên đã biết thế lực đến mức nào. Vợ của một ông lớn, một mệnh phụ phu
nhân, thuộc loại danh gia vọng tộc bắc bậc kiêu kì. Tư thế ấy không cho phép
dính vào bất kì một nhà nghỉ vớ vẩn nào. Vị trí ấy không cho phép hở hang bất kì
một chi tiết riêng tư nà trước mắt người đời (11, 2) thì đã đã có dịch chuyển điểm
nhìn. Người trần thuật ở đây vẫn là tác giả nhưng điểm nhìn đã đặt trong nhân
vật để thể hiện những suy ngẫm, tiếng nói riêng của nhân vật. Và sự chuyển hoá
như vậy xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết. Có những đoạn không tách bạch
điểm nhìn bên ngoài và bên trong. Bởi vậy mà những lời nhận xét, giễu nhại
trong tác phẩm có khi là lời của nhân vật nhưng cũng có lúc lại chính là lời bàn

của tác giả. Nhà văn và nhân vật của mình có khi tách bạch có khi lại hoà nhập
trong nhau.
10

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×