Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Xây dựng mô hình ứng dụng sản xuất nấm xanh metarhizium anisopliae (ma) trong điều kiện nông hộ để quản lý tổng hợp rầy nâu hại lúa góp phần phát triển nông nghiệp bền vững tại hậu giang (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.98 KB, 16 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
------------------

BÁO CÁO TÓM TẮT
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
DỰ ÁN CẤP TỈNH

XÂY DỰNG MÔ HÌNH ỨNG DỤNG SẢN XUẤT
NẤM XANH Metarhizium anisopliae (Ma) TRONG
ĐIỀU KIỆN NÔNG HỘ QUẢN LÝ TỔNG HỢP
RẦY NÂU HẠI LÚA GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TẠI HẬU GIANG

Cơ quan chủ trì: CHI CỤC BẢO VỆ THỰC VẬT TỈNH HẬU GIANG
Chủ nhiệm dự án: Ks. Lê Thị Như Thùy

HẬU GIANG - 2013
1


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ DỰ ÁN
1. Tên dự án: Xây dựng mô hình ứng dụng sản xuất nấm xanh Metarhizium anisopliae
(Ma) trong điều kiện nông hộ để quản lý tổng hợp rầy nâu hại lúa góp phần phát triển nông
nghiệp bền vững tại Hậu Giang.
Lĩnh vực khoa học: Nông nghiệp
2. Chủ nhiệm dự án: Ks. Lê Thị Như Thùy
3. Tổ chức chủ trì: Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Hậu Giang
Địa chỉ: Khu hành chính 406, Trần Hưng Đạo, Khu Vực 3, Phường 5, tỉnh Hậu
Giang
Số điện thoại: 07113878963


4. Danh sách cán bộ tham gia chính:
TT
Học vị, họ và tên
Chức vụ
Đơn vị công tác
Bộ môn BVTV-Khoa
1 PGs.Ts. Trần Văn Hai
Trường ĐHCT
NN&ƯD, Trường ĐHCT
Sở Nông Nghiệp & PTNT
2 Ths. Phạm Hoài An
Phó Giám Đốc
Hậu Giang
Phó Chi cục trưởng
Chi cục BVTV
3 Ks. Trần Ngọc Thể
Hậu Giang
Trưởng Phòng kỹ thuật
Chi cục BVTV
4 Ks. Võ Minh Phúc
Hậu Giang
Cán bộ kỹ thuật
Chi cục BVTV
5 Ths. Nguyễn Thanh Thuý
Hậu Giang
5. Thời gian thực hiện đã được phê duyệt:
Năm bắt đầu: 2010
Năm kết thúc: 2012
6. Thời gian kết thúc thực tế (thời điểm nộp báo cáo kết quả): 11/2013
7. Kinh phí thực hiện dự án: 350,94 triệu, trong đó kinh phí từ NSNN: 350,94 triệu


MỞ ĐẦU
2


Sử dụng hóa chất trừ sâu là biện pháp phòng trừ chính trong chiến lược quản lý dịch
hại do thuốc hóa học rất hữu hiệu và liên quan trực tiếp tới những trận dịch hại trên cây
trồng, làm tăng năng suất đáng kể đối với những cây trồng bị sâu phá hại nghiêm trọng.
Thế nhưng, việc sử dụng thuốc trừ sâu hóa học gây ra nhiều nguy cơ như tạo ra tính kháng
thuốc ở côn trùng, sự bộc phát dịch hại, gây hại cho thiên địch, phá hủy sự cân bằng sinh
thái, tồn dư độc chất trong nông sản và ô nhiễm môi trường…Để duy trì một nền nông
nghiệp bền vững thì việc xây dựng và áp dụng một quy trình quản lý dịch hại tổng hợp
(IPM) dựa trên sự hiểu biết sáng suốt về sinh thái học là một hướng đi đúng đắn để bảo vệ
cây trồng. Trong các biện pháp phòng trừ của IPM thì biện pháp sinh học đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng và tỏ ra có nhiều ưu điểm nhất. Cũng giống như các loại động vật khác,
côn trùng cũng bị bệnh, vì vậy, sử dụng các loài vi sinh vật gây bệnh cho côn trùng để
quản lý chúng là một trong những biện pháp sinh học lý tưởng. Rõ ràng rằng, các tác nhân
vi sinh vật gây bệnh cho côn trùng có thể đưa vào chương trình IPM một mặt giúp bảo tồn
thiên địch đồng thời cung c ấp một công cụ cho nông dân để quản lý những côn trùng có
hại.
Nấm xanh Metarhizium anisopliae (M.a) là loại nấm sinh học, có khả năng
phòng trừ rầy nâu trên cây lúa và một số đối tượng gây hại khác trên cây trồng mà
không ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vật nuôi và môi trường, hơn nữa chi phí
khi sử dụng nấm xanh M.a phòng trừ sâu bệnh cũng thấp hơn nhiều so với khi sử
dụng thuốc hóa học. Ở nước ta, từ năm 1993 bước đầu đã nghiên cứu và ứng dụng
các loại nấm ký sinh côn trùng để phòng trừ sâu hại đạt nhiều kết quả khả quan,
nấm Metarhizium anisopliae phòng trừ sâu đo chỉ hiệu quả khoảng 70 – 89% (Hưng
Yên); phòng trừ và dập tắt dịch châu chấu đạt hiệu quả từ 68,5 – 94% (Tây Ninh và
Hòa Bình); phòng trừ rầy nâu, bọ xít, sâu cắn gié đạt hiệu quả cao (Tiền Giang, Bạc
Liêu); phòng trị bọ cánh cứng hại dừa đạt hiệu quả từ 75,4 -88,5% (ĐBSCL).

Tỉnh Hậu Giang có diện tích lúa khá lớn, với 203.471.04 ha gieo trồng hằng năm cung ứng
từ 1.148.358 triệu tấn lúa góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và tham gia thị
trường xuất khẩu lúa gạo. Từ vụ Đông Xuân 2006 -2007 mặc dù đa số diện tích xuống
giống theo lịch né rầy của Chi cục Bảo vệ thực vật, nhưng vẫn còn một số diện tích nhiểm
rầy nâu với mật số cao và có cháy rầy cục bộ, bệnh vàng lùn- lùn xoắn lá gây thiệt hại
12.320 ha, số tiền thuốc bảo vệ thực vật nhà nước hổ trợ nông dân dập dịch lên đến trên 7 tỉ
đồng, có 3.807 ha bị tiêu hủy do bệnh vàng lùn- lùn xoắn lá, nông dân đã sử dụng nhiều loại
thuốc hóa học nhưng vẫn không ngăn chặn được rầy nâu bộc phát và gây hại, rầy nâu, bệnh
vàng lùn - lùn xoắn lá vẫn tiếp tục gây hại ở các vụ kế tiếp. Vụ Hè Thu 2007 với diện tích
3.900 ha nhiễm rầy và 250 ha lùn xoắn lá phải tiêu hủy sản lượng lúa ước tính bị thất thu
trên 1.000 tấn lúa. Những năm tiếp theo rầy nâu, bệnh vàng lùn lùn xoắn lá vẫn là đối tượng
gây hại chính biện pháp phòng trừ của nông dân hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào thuốc bảo vệ
thực vật. Lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng khá nhiều để phòng trừ rầy nâu trên
lúa đã gây ảnh hưởng trầm trọng tới hệ sinh thái, môi trường và sức khỏe con người.
3


Với mong muốn đưa các ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp
tỉnh nhà, Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Hậu Giang thực hiện dự án “Xây dựng mô
hình ứng dụng sản xuất nấm xanh Metarhizium anisopliae (Ma) trong điều kiện
nông hộ để quản lý tổng hợp rầy nâu hại lúa góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững tại Hậu Giang” được thực hiện nhằm giải quyết những mục tiêu sau:
* Mục tiêu tổng quát:
- Xã hội hóa trong phòng trừ dịch hại bằng biện pháp sinh học góp phần tạo sự
chuyển biến từ phòng trừ dịch hại bằng thuốc hóa học sang hướng sinh học.
- Hình thành mạng lưới cộng đồng tham gia nhân nuôi cấy nấm có ích để
phòng trừ rầy nâu trên lúa ở Hậu Giang, ứng dụng sản phẩm nấm xanh tự sản xuất
được trên ruộng nhà của hộ nông dân và giảm được lượng thuốc bảo vệ thực vật có
nguồn gốc hóa học.
* Mục tiêu cụ thể:

- Tổ chức chuyển giao quy trình kỹ thuật nhân nuôi cấy nấm xanh trong nông dân tại
các hợp tác xã sản xuất lúa trong tỉnh.
- Triển khai sản phẩm nấm xanh tự nhân nuôi trên ruộng nhà của nông dân và đánh
giá hiệu quả so với ruộng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học của nông dân.
- Mục tiêu của dự án không chỉ dừng lại việc chuyển giao qui trình kỹ thuật nhân nuôi
nấm xanh mà sau dự án người nông dân sẽ duy trì và tự sản xuất được nấm xanh để phục vụ
cho việc phòng trừ dịch hại đặc biệt là rầy nâu trên ruộng của mình, làm cân bằng lại hệ sinh
thái đồng ruộng, tăng hiệu quả kinh tế và bảo vệ được sức khỏe cộng đồng.

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.1 Tổng quan về nấm Metarhizium anisopliae (Metschnikoff) Sorokin.
* Phân loại: Theo Anisworth (1973): 1 giới Mycota,
Giới: Nấm
4


Ngành: Deuteromycota
Lớp: Hyphomycetes
Bộ: Moniliales
Chi: Metarhizium
Theo hệ thống phân loại nấm của G. C. Anisworth, 1966, 1970, 1971 cho rằng nấm
Metarhizium anisopliae thuộc ngành phụ lớp nấm bất toàn Deuteromycetes, giống
Metarhizium. Một giả thiết khác cho rằng nấm Metarhizium anisopliae thuộc ngành phụ
lớp nấm túi Ascomycotina, lớp Pletomyces và giống Metarhizium. Tuy nhiên phân loại
theo Ainsworth được nhiều tác giả chấp nhận hơn cả (Phạm Thị thùy, 2004)
1.2 Đặc điểm sinh học và khả năng ứng dụng của nấm xanh, Metarhizium anisopliae
(Metschnikoff) Sorokin
1.2.1 Đặc điểm sinh học của nấm xanh
* Đặc điểm sinh lý, sinh hóa của nấm Metarhizium anisopliae Sorokin.
Nấm M. anisopliae sống được ở nhiệt độ thấp 80C, biên độ về độ ẩm rộng, nấm M.

anisopliae có thể đồng hóa nhiều nguồn thức ăn carbon khác nhau, chúng phát triển tốt
trên môi trường chứa glucose hay lipid và điều kiện ẩm độ không khí khá cao để tạo bào
tử, ở những nơi tích lũy nhiều CO2 và thiếu O2 chúng có thể sống tới 445 ngày. Nhiệt độ
dưới 0 0C và trên 45 0C thì nấm thường không hình thành bào tử, nhiệt độ thích hợp cho sự
nẩy mầm của bào tử từ 25 – 30 0C (tốt nhất là 25 0C) và sẽ bị chết ở nhiệt độ cao 49 – 55
0
C. Điều kiện pH = 6 là thích hợp nhất và có thể dao động trong khoảng 3,3 – 8,5. Nấm M.
anisopliae có khả năng phân giải tinh bột, xenluloza và kitin. Đặc biệt nấm M. anisopliae
không thể sinh trưởng tốt trên nền cơ chất không có kitin (Tamerler C, Ullah M, Adlard
MW, and Keshavarz T, 1998).
1.2.2 Khả năng ký sinh côn trùng của nấm xanh
Viện Bảo Vệ Thực Vật đã nghiên cứu và sử dụng nấm M. anisopliae để phòng trừ
một số loài sâu hại nông nghiệp (Phạm Thị Thùy, 1992; 1996). Nấm xanh, M. anisopliae
đã được nghiên cứu và ứng dụng để phòng trừ các loài mối hại cây công nghiệp, cây ăn
trái và cây cảnh (Tạ Kim Chỉnh và ctv., 1996). Nấm xanh, M. anisopliae được ứng dụng
trong việc quản lý các loài sâu hại lúa (Nguyễn Thị Lộc, 1997). Khi sử dụng nấm trắng, B.
basiana hoặc nấm xanh, M. anisopliae trên đồng ruộng để quản lý sâu rầy hại lúa thì
không gây ảnh hưởng xấu tới những thiên địch của sâu hại lúa như nhện lớn bắt mồi, nhện
lưới, nhện lùn, nhện chân dài, bọ xít mù xanh và bọ xít gai ăn thịt tại ĐBSCL (Nguyễn Thị
Lộc và ctv., 2002).
1.2.3 Độc tố của nấm xanh
Nấm xanh tạo ra độc tố Destruxin A và B (Kodaira, 1961; Suzuki et al., 1971).
Destruxin là một phức hợp có nhiều chất đồng phân. Cấu trúc cơ bản của nó gồm 5
aminoacid và một α-hytroxy acid. Destruxin gây chán ăn và gây độc cho côn trùng sau
khi được hấp thu vào da (Amiri et al., 1999). Một số Destruxin làm tê liệt côn trùng

5


(Dumas et al., 1996) và một số destruxin khác có thể ức chế miễn dịch (Cerenius et al.,

1990).
Tính mẫn cảm của côn trùng đối với Destruxin khác nhau và một số loài sâu thuộc bộ
cánh vảy có thể mẫn cảm cao nhất (Charnley, 1984; Samuels et al., 1988; Thomsen et al.,
1996; Kershaw et al., 1999). LD50 của Destruxin A và B tiêm vào ấu trùng tằm là 0,015 –
0,03 mg/g ở 24 giờ sau khi tiêm (Kodaira, 1961; Suzuki et al., 1971; Tamura and
Takahashi, 1971). LC50 của nấm xanh đối với ấu trùng rầy nâu, N. Lugens là 1,86 x 106
bào tử/ml ở 4 ngày chủng trong điều kiện nhiệt độ 25 0C (Gillespie, 1986). Bào tử nấm
xanh có LT50 và LD50 đối với một số loài sâu bộ cánh vảy như ấu trùng tằm, sâu xanh da
láng, Spodoptera exigua, sâu xanh, Heliothis armigera là 48 giờ và 105 bào tử/ ml (Tạ
Kim Chỉnh và Lý Kim Bảng, 1995).
1.2.4 Cơ chế tác động của nấm xanh đối với côn trùng gây hại.
* Phương thức xâm nhập của nấm vào cơ thể côn trùng.
Nấm là một trong những tác nhân gây bệnh côn trùng bằng cách nhiễm vào ký chủ
chủ yếu xuyên qua biểu bì bên ngoài. Bào tử của nấm dính chặt vào da côn trùng và tấn
công vào da theo cơ chế bám dính không chuyên biệt thông qua tính kỵ nước của vách tế
bào của bào tử (Boucias et al., 1988; 1991). Khi tiếp xúc với da côn trùng và với điều kiện
thích hợp bào tử sẽ mọc mầm có thể tạo ra các cấu trúc xâm nhiễm (như tạo ra ống mầm,
túi ngoại bào hoặc túi áp suất) từ đó xâm nhiễm vào bên trong cơ thể côn trùng qua lớp
chitin.
Sự xâm nhập của nấm vào trong biểu bì thường là do sự phối hợp của enzyme và cơ
chế cơ học. Nấm xanh và nấm trắng tiết ra các loại men làm mềm lớp vỏ chitin và tạo
thành một lỗ thủng tại nơi bào tử mọc mầm, qua lỗ thủng đó mầm của bào tử nấm xâm
nhập vào bên trong cơ thể côn trùng. Các enzyme đó là exoproteases, endoproteases,
esterases, lipases, chitinases và chitobiases (St Leger, 1993; Boucias and Pendland, 1998;
Butt et al., 1998).
* Sự phát triển của nấm trong cơ thể côn trùng
Giai đoạn phát triển của nấm từ khi xâm nhiễm vào trong cơ thể côn trùng cho
đến khi côn trùng chết là giai đoạn sống ký sinh của nấm. Trong giai đoạn này nấm
thường tạo ra rất nhiều sợi nấm ngắn, chúng được phân tán khắp cơ thể theo dịch
máu. Trước khi nấm có thể sinh sôi nảy nở trong máu nó thường phải vượt qua phản

ứng phòng vệ của côn trùng, và sự tạo độc tố của nấm có thể làm suy yếu phản ứng tự
vệ của côn trùng. Côn trùng có thể phản ứng với sự xâm nhiễm của nấm bằng cách sử
dụng thể dịch (như phenoloxidase, lectins, peptid và protein hoặc sử dụng cơ chế của
vách tế bào như sự thực bào hoặc kết nang (Bidochka et al., 1997; Boucias and
Pendland, 1998). Côn trùng chết có thể là kết quả của sự phối hợp các hoạt động như
sự làm giảm dinh dưỡng, làm tắt nghẽn cơ thể hoặc sự xâm lấn của các cơ quan và tác
động của độc tố đối với côn trùng. Ví dụ nấm trắng tạo ra phức hợp các độc tố bao
gồm beauvericin, bassianolide và oosporein, nấm xanh tạo ra độc tố Destruxin làm tê
liệt côn trùng (Dumas et al., 1996), hoặc gây ức chế miễn dịch (Cerenius et al., 1990).
6


Cũng có trường hợp khi bị nấm tấn công cơ thể côn trùng bị ngắn lại hay bị khô do hệ
thống tiêu hóa bị tổn thương hoặc do thiếu nguồn thức ăn. Khi nấm M. anisopliae ký sinh
thì tuyến mở và mô khác của côn trùng bị hòa tan do enzyme lipaza và proteaza của nấm
tiết ra (Phạm Thị Thùy, 2004).
Sau khi côn trùng chết, nấm phát triển hoại sinh trong kí chủ đến khi có điều kiện
môi trường thích hợp nấm mọc thành sợi ra bên ngoài cơ thể vật chủ, sản sinh ra bào tử và
tiếp tục lây lan nhờ gió (Trần Văn Hai, 2008).
1.3 Nghiên cứu, ứng dụng nấm xanh trong quản lý sâu hại cây trồng
1.3.1 Ngoài nước
Xu thế của thế giới hiện nay là tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, nhất là các loài rau
trái, vì vậy các nhà khoa học luôn nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp phòng trừ sinh
học để thay thế cho thuốc hóa học, nhằm giảm thiểu tối đa lượng thuốc hóa học dùng trong
nông nghiệp.
Cho đến nay các nhà khoa học trên thế giới vẫn chưa xác định được một loài
nấm nào có hiệu lực cao và phổ tác dụng rộng rãi như chủng Metarhizium
anisopliae. Nhiều loại nấm trong chi Metarhizium có khả năng diệt côn trùng họ
Elateridae và Curculoinidae thuộc bộ cánh cứng Coleoptera, ấu trùng muỗi Aedes
aegypti, Anopheles setphensi, Clexpipieus thuộc bộ hai cánh Diptera, bọ xít đen hại

lúa mì Scotiphora coarctata thuộc bộ cánh nữa cứng Hemiptera, châu chấu thuộc bộ
cánh thẳng Orthoptera, mối thuộc bộ cánh bằng Isoptera (Yasuhisa Kunimi, 2005).
Từ năm 1880 – 1886 Metschnhikvo cùng học trò là Isac Craxinstic đã sản xuất thử hàng
ngàn kilogram nấm xanh M. anisopliae và ứng dụng ra đồng ruộng, kết quả đạt được sau
10 – 14 ngày phun thì tỷ lệ sâu non và trưởng thành của bọ đầu dài hại củ cải đường chết
55 – 80% (Phạm Thị Thùy, 2004).
1.3.2 Việt Nam
Trong thời gian 2007 – 2008, bộ môn Bảo vệ thực vật, khoa nông nghiệp &
sinh học ứng dụng, trường đại học cần thơ nghiên cứu các đặc tính sinh học và hiệu
quả của các chủng nấm xanh M. anisopliae đối với sâu xếp lá hại đậu phộng, đã
mang lại một số kết quả khả quan trên vùng đất giồng cát của hai huyện Cầu Ngang
và Trà Cú tỉnh Trà Vinh (Trần Văn Hai, 2008). Hiện nay bộ môn bảo vệ thực vật
ĐHCT đã nghiên cứu và sản xuất thành công chế phẩm thuốc trừ sâu sinh học có
nguồn gốc từ nấm xanh Metarhizium anisopliae (Ma - ĐHCT), phun trị sâu ăn tạp,
sâu xanh, sâu đo, rầy mềm, rầy nâu, rệp sáp,… Tại tỉnh Sóc Trăng thời gian qua đã
ứng dụng biện pháp sinh học bằng các chế phẩm từ nấm xanh M. anisopliae (Viện
lúa ĐBSCL), (công ty Sinh Thành) trong phòng trị rầy nâu hại lúa trên diện rộng đã
cho kết quả khả quan (Trần Văn Hai et al., 2009).

7


CHƯƠNG II
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
* Phương pháp tiếp cận

8


Cách tiếp cận: Qua các buổi hội thảo, hội nghị khoa học của Bộ NN&PTNT, Cục

Bảo vệ Thực vật, Trường Đại học cần Thơ;
Điều tra ghi nhận các vùng thường có mật số rầy nâu cao và có thể xảy ra cháy rầy để
thực hiện mô hình.
* Phương pháp nghiên cứu:
Nội dung 1:Tập huấn chuyển giao kỹ thuật nuôi cấy nấm Ma cho CBKT và nông
dân tham gia thực hiện đề tài
Nội dung 2:Triển khai thực hiện các mô hình diện rộng tại 4 huyện: Phụng Hiệp, Vị
Thuỷ, Châu Thành A, Long Mỹ. Có 20 mô hình được triển khai ở 2 vụ sản xuất lúa
- Vụ Đông Xuân 2010 - 2011 : 2 xã/Huyện x 4 Huyện = 8 xã (8 mô hình)
- Vụ Hè Thu 2011
: 3 xã/Huyện x 4 Huyện = 12 xã (12 mô hình)
* Triển khai thực hiện mô hình:
Tại các xã đã được chọn để xây dựng mô hình ứng dụng sản xuất nấm xanh
Metarhizium anisopliae trong điều kiện nông hộ sẽ tổ chức xây dựng mô hình thực nghiệm
“Ứng dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa”. Tại mỗi mô hình sẽ chọn 30 hộ nông
dân “Ứng dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa”, mỗi hộ nông dân có diện tích sản
xuất trên 5.000m2. Nên chọn những câu lạc bộ hoặc tổ hợp tác sản xuất lúa để thực hiện mô
hình với tổng diện tích 15 ha.
Tổng diện tích : 20 mô hình x 15 ha = 300 ha
Số hộ tham gia: 20 mô hình x 30 hộ = 600 hộ
* Phương pháp thực hiện:
+ Bố trí thí nghiệm
Mỗi mô hình được tiến hành với 30 hộ nông dân. Trên mỗi ruộng của từng hộ nông dân sẽ
xử lý hai nghiệm thức, mỗi nghiệm thức có diện tích là 2.500 m2
Nghiệm thức 1: xử lý nấm M.anisopliae.
Nghiệm thức 2: đối chứng (áp dụng theo tập quán của nông dân).
+ Phương pháp xử lý nấm
Trường hợp 1: xử lý 2 đợt
- Đợt 1: phun lần 1 để tạo nguồn nấm vào lúc 15-25 ngày sau sạ.
- Đợt 2: phun lần 2 vào lúc 45-50 ngày sau sạ.

Trường hợp 2: Nếu lúa sau khi sạ có rầy di trú vào ruộng sẽ phun nấm xanh 3 đợt
- Đợt 1: lúc rầy nở rộ.
- Đợt 2: cách đợt 1 khoảng10 ngày nếu rầy còn có chiều hướng tăng mật số.
- Đợt 3: phun nếu mật số rầy tăng cao (5.000 con/m2).
Trường hợp 3: Nếu áp lực rầy nâu quá cao (>5.000 con/m2), thời gian rầy di trú dài, rầy có
nhiều lứa và môi trường không thuận lợi cho nấm phát triển thì có thể áp dụng 1 lần thuốc
hoá học có chọn lọc để hạ nhanh mật số rầy nâu.
9


+ Liều lượng phun nấm xanh
5 bọc/ha x 0,5kg/bọc = 2,5kg/ha.
Pha 1 bọc với 64 lít nước (lược bỏ cặn), phun cho 2.000 m2. Cần cộng thêm chất bám dính.
Thời gian phun: vào buổi chiều mát (không phun vào sáng sớm và nắng gắt để tránh làm
chết nấm xanh)
+ Chăm sóc ruộng
Ngoài việc xử lý rầy nâu như trên thì các biện pháp chăm sóc khác giữa 2 nghiệm thức đều
như nhau.
Giống được sử dụng: kháng rầy nâu trung bình.
Mật độ sạ : 120-150 kg/ha
Phân bón: 90 kg N - 40 kg P2O5 - 30 kg K2O
Theo dõi đánh giá mô hình
Điều tra ngẫu nhiên 5 khung 40 x 50 cm/khung. Điểm điều tra cách hàng bìa ít nhất 2 mét
Theo dõi ghi nhận mật số rầy nâu còn sống và số rầy nâu nấm ký sinh trước phun và sau
phun 7,14 và 21 ngày sau mỗi lần phun.
Điều tra lúa bị nhiễm bệnh vàng lùn- lùn xoắn lá.
Điều tra mật số thiên địch
Ghi nhận diễn biến thời tiết trong vụ, chú trọng thời tiết trước và sau khi phun nấm (nhiệt
độ, ẩm độ, mưa…).
Theo dõi thêm 1 số loài sâu hại và thiên địch bị nấm ký sinh: sâu cuốn lá nhỏ, sâu keo

(phương pháp giống như theo dõi rầy nâu).
Số liệu được thu tập trên 30 ruộng của nông dân thực hiện mô hình trên ruộng có phun nấm
Ma và ruộng không phun nấm làm đối chứng
Thu thập các số liệu kỹ thuật áp dụng, đầu tư và thu nhập của mô hình và đối chứng.
Phân tích thống kê đánh giá hiệu quả phòng trừ rầy nâu bằng nấm xanh, so sánh kết quả
giửa mô hình và đối chứng về hiệu quả phòng trừ và hiệu quả kinh tế.
Nội dung 3: Hội thảo đầu bờ đánh giá kết quả tại các điểm và tổ chức cho nhiều nơi
tham quan nhân rộng mô hình.
Tại mỗi điểm thực hiện mô hình sẽ tổ chức 1 hội thảo đầu bờ vào cuối vụ hoặc khi phun đạt
hiệu quả để giới thiệu cho các nông dân trong vùng, có khoảng 100 nông dân tham dự.
Nội dung 4: Tổ chức tổng kết, đánh giá hiệu quả của mô hình và hướng nhân rộng
mô hình

CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
3.1 Sản xuất chế phẩm (Ma)
Quy trình sản xuất chế phẩm nấm xanh Metarhizium anisopliae đã được PGs. Ts.
10


Trần Văn Hai và nhóm nghiên cứu Bộ môn Bảo vệ Thực Vật, Khoa Nông Nghiệp và Sinh
học Ứng Dụng, Trường Đại Học Cần Thơ chuyển giao cho CBKT của chi cục BVTV tỉnh
nhằm đào tạo kỹ thuật nuôi cấy nấm xanh, từ đó triển khai đến các huyện. Chi cục BVTV
đã cử 05 CBKT để tiếp nhận quy trình và đã đạt kết quả tốt.
3.2 Tập huấn cho cán bộ kỹ thuật cơ sở và nông dân
Dự án đã tổ chức tổng số 20 lớp tập huấn cho cán bộ kỹ thuật và nông dân sản xuất
nấm Metarhizum anisopliae tại nông hộ ở 4 huyện, 1 Thành Phố, 1 Thị Xã do Chi cục Bảo
vệ thực vật kết hợp với PGS. Ts Trần Văn Hai và chuyên viên kỹ thuật - bộ môn Bảo vệ
thực vật - trường Đại Học Cần Thơ chuyển giao quy trình sản xuất chế phẩm nấm xanh tại
các huyện Phụng Hiệp, Châu Thành A, Long Mỹ, Vị Thủy, Thành Phố Vị Thanh, Thị Xã
Ngã Bảy. Thực hiện trong 2 vụ lúa Đông xuân 2010 – 2011 và Hè Thu 2011, với tổng số

nông dân tham dự là 600, đạt 100% so với kế hoạch đề ra.
Đã xây dựng được 20 mô hình (15ha/mô hình) ứng dụng chế phẩm nấm xanh tại tỉnh
Hậu Giang, đạt 100% so với kế hoạch đề ra
Đã sản xuất 1.821,5 kg chế phẩm để cung cấp cho người dân trong và ngoài dự án
thực hiện phun xịt 364,3 ha, vượt 121,4%.
3.3 Mô hình đánh giá hiệu lực của chế phẩm nấm xanh
3.3.1 Mô hình đánh giá hiệu lực của chế phẩm nấm xanh tại các huyện Long Mỹ,
Châu Thành A, Vị Thủy, Phụng Hiệp, Thành phố Vị Thanh được thực hiện ở vụ
Đông Xuân 2010 – 2011 (phun nấm xanh 2 lần/vụ)
Nhìn chung mô hình sử dụng chế phẩm nấm xanh (Ma) để quản lý rầy nâu vụ Đông
Xuân cho thấy: Ở thời điểm trước khi phun mật số rầy nâu ruộng phun nấm xanh 1276
con/m2 thấp hơn so với ruộng đối chứng 1332 con/m 2 nhưng đến thời điểm 14 ngày sau
khi phun lần 1 mật số rầy nâu ở cả hai ruộng đều tăng lên 1432 con/m 2 và 1053 con/m2.
Diễn biến bất thường này là do có đợt rầy di trú làm mật số loài gây hại này tăng lên. Tuy
nhiên ở các lần lấy chỉ tiêu sau mật số rầy nâu cả hai ruộng đều giảm, mật số rầy nâu ở
ruộng phun nấm xanh 105 con/m2 thấp hơn so với ruộng đối chứng 436 con/m2. Chế
phẩm nấm xanh (Ma) dùng để quản lý rầy nâu có hiệu lực trung bình chậm ở 7 ngày sau
phun lần 1 là 22,43% đạt cao nhất 71,81% ở thời điểm 14 ngày sau phun lần 2.
3.3.2 Mô hình đánh giá hiệu lực trung bình của chế phẩm nấm xanh được thực hiện
tại các huyện Long Mỹ, Châu Thành A, Vị Thủy, Phụng Hiệp, Thị Xã Ngã Bảy trong
vụ Hè Thu 2011 (phun nấm xanh 2 lần/vụ)
Nhìn chung mô hình sử dụng chế phẩm nấm xanh (Ma) để quản lý rầy nâu vụ Hè
Thu cho thấy: Ở thời điểm trước khi phun mật số rầy nâu ruộng phun nấm xanh 1198
con/m2 cao hơn so với ruộng đối chứng 1038 con/m2. Tuy nhiên ở các lần lấy chỉ tiêu sau
ở 14 ngày sau phun lần 2 mật số rầy nâu cả hai ruộng đều giảm, mật số rầy nâu ở ruộng
phun nấm xanh 170 con/m2 thấp hơn so với ruộng đối chứng 325 con/m2. Chế phẩm sinh
học nấm xanh (Ma) dùng để quản lý rầy nâu có hiệu lực trung bình chậm ở 7 ngày sau
phun lần 1 là 16,83% đạt cao nhất 59,16% ở thời điểm 14 ngày sau phun lần 2.

11



3.4 Mô hình đánh giá hiệu quả của nấm xanh kiểm soát rầy nâu trên diện rộng vụ
Đông Xuân 2010 – 2011 và vụ Hè Thu 2011 (15 ha/mô hình)
Kết quả đánh giá hiệu quả của chế phẩm nấm xanh trên diện rộng ở các mô hình trên
các huyện cho thấy, do áp lực rầy không quá cao nên việc xử lý nấm xanh mang lại kết quả
rất khả quan và có nhiều mô hình còn kiểm soát mật số rầy nâu tốt hơn so với ruộng đối
chứng, qua đó đã chứng minh được ưu điểm của chế phẩm sinh học nấm xanh so với
thuốc hóa học là hiệu quả kéo dài, giúp giảm bớt chi phí cho thuốc bảo vệ thực vật cũng
như công lao động.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nấm xanh sẽ góp phần bảo vệ hệ sinh thái cây trồng ngày
cành phong phú hơn, mật số thiên địch nhiều hơn ruộng đối chứng, từ đó hạn chế sự phát
triển dịch hại, chủ yếu rầy nâu, năng suất lúa cuối vụ bình quân đạt 7,1 tấn/ha (vụ Đông
Xuân 2010 – 2011) và 5,5 tấn/ha (vụ Hè Thu 2011) .
Kết quả 08 mô hình ở vụ Đông Xuân 2010-2011 cho thấy được nấm xanh có hiệu quả
đối với rầy nâu làm cho mật số rầy nâu giảm xuống. Từ kết quả này có thể mang lại tính khả
thi của chế phẩm nấm xanh khi áp dụng trong mô hình quản lý rầy nâu tổng hợp nhằm hạn
chế tối đa nhất việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Hiệu quả kinh tế sản xuất lúa do ứng
dụng kỹ thuật: 3 giảm 3 tăng kết hợp 1 phải 5 giảm, giảm số lần phun thuốc BVTV, đặc
biệt là thuốc trừ sâu rầy từ đó giảm chi phí thuốc trừ sâu, trung bình chi phí đầu tư về
thuốc bảo vệ thực vật cho mô hình (ứng dụng chế phẩm (Ma)) đã giảm
428.000đ/ha so với đối chứng (sử dụng thuốc hóa học và phun định kỳ). Vì vậy, trung
bình chi phí đầu tư cho mô hình đã giảm là 659.000đ/ha so với đối chứng mặt khác
không gây ô nhiễm cho con người và vật nuôi.
Kết quả của 12 mô hình phun nấm xanh vụ hè thu 2011 cho thấy cũng như vụ Đông
Xuân 2010-2011 nấm xanh được bà con nông dân sử dụng phun xịt hai lần, tuy nhiên nhìn
chung cho thấy ở các mô hình này áp lực rầy nâu không cao nên khi sử dụng chế phẩm nấm
xanh từ đầu đến cuối vụ không có hiện tượng rầy bị gối lứa hay cháy rầy cục bộ. Mặt khác,
chi phí đầu tư về thuốc BVTV cho mô hình (ứng dụng chế phẩm (Ma)) đã giảm
586.000đ/ha so với đối chứng (sử dụng thuốc hóa học và phun định kỳ). Do mô hình

ứng dụng chế phẩm nấm xanh có số lần phun ít hơn so với đối chứng, nên chi phí về
công lao động ở mô hình cũng giảm hơn so với đối chứng. Vì vậy, trung bình chi phí
đầu tư cho mô hình đã giảm là 1.692.000đ/ha so với đối chứng.
3.5 Hội thảo đầu bờ đánh giá kết quả tại các điểm và tổ chức cho nhiều nơi tham
quan nhân rộng mô hình.
Dự án đã tổ chức 20 cuộc hội thảo đầu bờ với 2.000 lượt người từ 20 xã của 4
huyện, 1 Thành phố, 1 Thị xã tham dự tại các điểm mô hình trình diễn “Xây dựng mô
hình ứng dụng sản xuất nấm xanh Metarhizium anisopliae (Ma) trong điều kiện nông hộ để
quản lý tổng hợp rầy nâu hại lúa góp phần phát triển nông nghiệp bền vững tại Hậu Giang.
Dự án tổ chức được 01 cuộc hội thảo khoa học cuối kỳ với sự tham sự của hơn 100 đại
biểu được chọn ra từ những nông dân tham gia sản xuất nấm. Ngoài ra còn có các cơ quan

12


bạn như Chi cục BVTV Cần Thơ, Kiên Giang, Sở KHCN tỉnh HG, Trường ĐHCT,…cùng
tham dự lắng nghe báo cáo kết quả thực hiện dự án.
Dự án còn được đón tiếp các đơn vị bạn đến tham quan học hỏi tổ chức dự án như
Bình Thuận, Biên Hòa,…
3.6 Hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án
3.6.1 Hiệu quả về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ
Kết quả của dự án sẽ bổ sung thêm những tư liệu khoa học về biện pháp phòng trừ
rầy nâu hại lúa bằng chế phẩm sinh học ở tỉnh Hậu Giang nói riêng và Đồng bằng sông
Cửu Long nói chung.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật về kỹ thuật nuôi cấy nấm xanh, nâng cao
năng lực tiếp cận và quản lý nhóm nông dân, tăng cường liên kết trong phòng chống rầy
nâu trong cộng đồng.
3.6.2 Hiệu quả về kinh tế
Áp dụng quy trình “nuôi cấy nấm xanh tại nông hộ và ứng dụng chế phẩm nấm xanh
để phòng trừ rầy nâu hại lúa” vào việc sản xuất lúa sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế cho người

sản xuất do:
- Giảm chi phí sử dụng thuốc trừ rầy hại lúa, cây lúa khỏe góp phần hạn chế một số
loại dịch hại khác.
- Quản lý rầy nâu từ đầu góp phần giúp nông dân nâng cao năng suất lúa, tăng chất
lượng gạo, hạ giá thành sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, ổn định an sinh xã hội.
3.6.3 Hiệu quả về xã hội
Dự án góp phần nâng cao kiến thức và sự hiểu biết của cán bộ kỹ thuật và nông dân
về các kỹ thuật trong quy trình “nuôi cấy nấm xanh tại nông hộ và ứng dụng chế phẩm
nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa”. Đặc biệt giúp cho nông dân nâng cao trình độ
hiểu biết về kỹ năng sản xuất và sử dụng thuốc sinh học, phương pháp sản xuất lương thực
an toàn, tăng sức cạnh tranh về chất lượng nông sản và ý thức bảo vệ môi trường.
- Áp dụng quy trình “Ứng dụng chế phẩm nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa” sẽ
làm chậm quá trình bộc phát tính kháng thuốc của rầy nâu do ít hoặc không sử dụng thuốc
hóa học; cải thiện việc phòng trừ rầy nâu, do gia tăng sự phong phú và đa dạng của thiên
địch; an toàn đối với người trực tiếp sử dụng thuốc; giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, sẽ
giảm ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, môi trường và hệ sinh thái.
- Đây là biện pháp tốt nhất cho các cánh đồng mẫu ứng dụng quản lý rầy nâu,
nông dân ngày càng gắn kết hơn trong tổ chức quản lý sản xuất, cùng thảo luận và
bàn bạc các giải pháp kỹ thuật, lịch thời vụ trước khi xuống giống. Thắt chặt tình
làng nghĩa xóm, cải thiện đời sống tinh thần trong cộng đồng nông thôn.
3.6.4 Liên kết sản xuất và đời sống
- Nâng cao nhận thức về phương pháp quản lý rầy nâu cho nông dân. Từ đó, giúp
nông dân hạn chế phun xịt thuốc BVTV, bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, giảm chi phí y tế
và tăng chất lượng cuộc sống.

13


- Giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận, giúp nông dân cải thiện đời sống và cải thiện
sức khỏe để tái sản xuất.

- Hình thành vùng liên kết sản xuất, phục vụ cho yêu cầu tổ chức sản xuất gắn
kết với tiêu thụ hàng hóa.
3.7 Đánh giá thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án
3.7.1 Thuận lợi
- Được sự quan tâm hỗ trợ của Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng
Nông nghiệp huyện Châu Thành A, Phụng Hiệp, Vị Thủy, Phòng Kinh tế huyện Long Mỹ,
Thành Phố Vị Thanh, Thị xã Ngã Bảy, sự phối hợp của các ban ngành chức năng có liên
quan trong việc triển khai thực hiện dự án.
- Sự phối hợp, hỗ trợ nhiệt tình của Đài phát thanh truyền hình tỉnh Hậu Giang, báo
chí Hậu Giang đã liên tục thông tin, tuyên truyền kết quả của dự án rộng rãi đến bà con
nông dân trồng lúa trên địa bàn tỉnh.
- Khi bắt đầu triển khai dự án, ban chủ nhiệm đã tổ chức phân công, chủ động xây
dựng và triển khai kế hoạch để dự án đạt chất lượng, đúng tiến độ.
- Mục tiêu của dự án giải quyết đúng nhu cầu cần thiết của nông dân sản xuất lúa,
nên được sự hợp tác, ủng hộ nhiệt tình và ứng dụng rộng rãi của nông dân trong vùng dự
án và những vùng lân cận.
- Quy trình “nuôi cấy nấm xanh tại nông hộ và ứng dụng chế phẩm nấm xanh để
phòng trừ rầy nâu hại lúa” thực hiện đơn giản, dễ ứng dụng, mang tính thuyết phục cao đối
với nông dân,... là cơ sở bổ sung vào quy trình sản xuất lúa theo hướng an toàn, bền vững
của tỉnh Hậu Giang.
3.7.2 Khó khăn
- Sự phát triển của nấm xanh Metarhizium anisopliae phụ thuộc vào điều kiện môi
trường: nhiệt độ, ẩm độ,… Do đó, nếu điều kiện môi trường không thích hợp thì tỷ lệ nấm
ký sinh sẽ không cao, làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng trừ.
- Thời điểm rầy nâu bộc phát trên lúa thường trùng vào giai đoạn cây lúa bị các dịch
bệnh khác tấn công, khi đó phải phun các loại thuốc BVTV trừ nấm bệnh. Điều này có thể
làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng trừ của chế phẩm sinh học nấm xanh.
- Do tâm lý chung của nông dân là muốn hiệu quả phòng trừ nhanh, mà nấm xanh là
chế phẩm sinh học, do đó hiệu lực hơi chậm. Điều này làm cho một số nông dân chưa
mạnh dạn sử dụng.

- Khi thực hiện cần có sự hợp tác giữa các nông hộ nên đôi lúc cũng gặp khó khăn
trong triển khai.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
* KẾT LUẬN

14


Dự án đã thực hiện tốt, nghiêm túc, đáp ứng được những mục tiêu, nội dung và kế
hoạch đã đề ra trong bản đề cương, cụ thể như sau:
- Trong thời gian thực hiện dự án, Chi cục BVTV cùng với bà con nông dân đã
sản xuất được 1.821,5 kg chế phẩm (Ma) với chất lượng là 7,8 x 108 đến 4,6 x 109 bào
tử/g chế phẩm (vượt kế hoạch so với đề cương là 321,5 kg) phục vụ cho các thí
nghiệm và các mô hình ứng dụng chế phẩm trừ rầy nâu hại lúa tại Hậu Giang.
- Xây dựng được 20 mô hình trình diễn “Ứng dụng chế phẩm trừ sâu sinh học (Ma)
để quản lý rầy nâu hại lúa” tại Hậu Giang với diện tích là 364,3 ha (vượt kế hoạch so với
đề cương là 64,3 ha).
- Đã tổ chức được 20 lớp tập huấn và 20 cuộc hội thảo tham quan học tập kinh
nghiệm cho nông dân tại 4 huyện Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thủy, Châu Thành A,
Thành Phố Vị Thanh và Thị xã Ngã Bảy về: IPM trên cây lúa; sâu hại cây lúa và biện
pháp phòng trừ. Đặc biệt, quy trình kỹ thuật và kỹ năng sử dụng chế phẩm sinh học
(Ma) trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây lúa, phương pháp sản xuất nông
sản an toàn và ý thức bảo vệ môi trường cũng được chuyển giao cho nông dân có kết
quả tốt, thể hiện qua việc thực hiện các mô hình.
- Kết quả 20 mô hình trình diễn “Xây dựng mô hình ứng dụng sản xuất nấm xanh
Metarhizium anisopliae (Ma) trong điều kiện nông hộ để quản lý tổng hợp rầy nâu hại lúa
góp phần phát triển nông nghiệp bền vững tại Hậu Giang” cho thấy khi ứng dụng chế phẩm
trừ sâu sinh học (Ma) để quản lý rầy nâu ở ruộng mô hình luôn thấp hơn so với vườn đối
chứng. Các mô hình trình diễn đều phát triển tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người

nông dân.
- Khi so sánh hiệu quả kinh tế giữa mô hình trình diễn (ứng dụng chế phẩm (Ma))
với ruộng đối chứng của nông dân (sử dụng thuốc hóa học và phun định kỳ) tại các điểm
thực hiện mô hình thì kết quả cho thấy là Mô hình Ứng dụng chế phẩm (Ma) trừ rầy nâu
hại lúa đã giảm chi phí thuốc BVTV là 2.719.000 đ/ha so với đối chứng trong vụ Đông
Xuân 2010 – 2011 và trong vu Hè Thu 2012 đã cho lợi nhuận cao hơn đối chứng là
2.202.000 đ/ha.
- Chế phẩm sinh học từ vi nấm (Ma) không gây ảnh hưởng xấu tới hệ thiên địch của
sâu hại cây lúa.

* ĐỀ NGHỊ
- Nhà nước cần có chính sách đầu tư, tập huấn kỹ thuật rộng rải cho người trồng lúa
biết lợi ít của mô hình này.
- Ngành nông nghiệp các địa phương cần tăng cường phổ biến và nhân rộng mô hình
“Xây dựng mô hình ứng dụng sản xuất nấm xanh Metarhizium anisopliae (Ma) trong điều
kiện nông hộ để quản lý tổng hợp rầy nâu hại lúa góp phần phát triển nông nghiệp bền vững
tại Hậu Giang” với quy mô cộng đồng, cùng áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến và thân

15


thiện với môi trường nhằm hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu, đồng thời hạ giá thành sản
xuất và tăng phẩm chất nông sản.
DANH SÁCH SINH VIÊN, HỌC VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
TỐT NGHIỆP CÓ LIÊN QUAN ĐẾN DỰ ÁN
1. Phạm Hoàng Ân, 2011. Khảo sát hiệu lực của chế phẩm nấm xanh Metarhizium
anisopliae sorokin (Ma) đối với rầy nâu Nilaparvata lugens Stal, sâu cuốn lá nhỏ
Cnaphalocrocis medinalis Guenée, bọ xít hôi Leptocorisa acuta Thunberg tại Huyện Vị
Thủy, tỉnh Hậu Giang. Luận văn thạc sỹ ngành Bảo Vệ Thực Vật.
GIẢI THƯỞNG ĐẠT ĐƯỢC LIÊN QUAN ĐẾN DỰ ÁN

Dự án đạt giải nhì hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 năm 2010 – 2011

16



×