CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Mã số:……………….
Kính gửi: Hội Đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm cấp tỉnh.
Tác giả sáng kiến: LÊ THỊ THỦY
Đơn vị: Trường tiểu học Tân Hội.
Các đồng tác giả: Không
I. Đề nghị xét công nhận sáng kiến: “ Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở
học sinh lớp 4”
Lĩnh vực áp dụng Chuyên môn: Tiếng Việt
II. Mô tả giải pháp:
1.Tình trạng giải pháp đã biết
Các giải pháp đã đề xuất và vận dụng nhằm khắc phục lỗi chính tả ở học sinh lớp
4 là: luyện phát âm, phân tích và so sánh, giải nghĩa từ, ghi nhớ mẹo luật chính tả, làm
các bài tập chính tả.
Các giải pháp mà tôi nghiên cứu trong đề tài này trong quá trình thực hiện có
những ưu và khuyết điểm sau:
* Ưu điểm: Trong thời gian vừa qua cũng như hiện nay, việc áp dụng các biện
pháp trong đề tài đã làm cho kết quả khắc phục lỗi chính tả của học sinh có tiến bộ rõ
rệt. Học sinh ngày càng yêu thích môn chính tả. Những giải pháp bản thân đưa ra được
sự đồng tình, ủng hộ của đồng nghiệp cũng như lãnh đạo nhà trường.
* Khuyết điểm: Sáng kiến này chỉ mới áp dụng trong phạm vi tại đơn vị, chưa
nhân rộng ra các đơn vị khác.
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
a. Mục đích của giải pháp
Bản thân đã tiến hành thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra
một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở học sinh lớp 4, giúp các em mạnh dạn, tự tin
1
hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng
tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Giúp học sinh học tốt các phân môn của
Tiếng Việt và các môn học khác. Rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn
thận, tinh thần trách nhiệm với công việc, óc thẩm mĩ. Cụ thể:
Giáo viên luyện cho học sinh phát âm nhằm rèn cho học sinh thói quen nói đúng,
nghe phát âm và viết chính tả đúng. Biện pháp phân tích và so sánh nhằm nhấn mạnh
những điểm khác nhau giữa các tiếng và từ để tránh lẫn lộn. Trong giờ chính tả giáo
viên còn vận dụng biện pháp giải nghĩa từ để học sinh hiểu nghĩa mà viết đúng. Một
giải pháp hữu hiệu để khắc phục lỗi là ghi nhớ mẹo luật chính tả vì các hiện tượng
chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ. Song song với các biện pháp trên,
biện pháp làm các bài tập chính tả cũng nhằm giúp học sinh làm quen với việc sử dụng
từ trong văn cảnh cụ thể.
b. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp so với giải pháp đã, đang
được áp dụng
Ở đề tài này, tôi đã thống kê những lỗi học sinh hay mắc phải, phân loại lỗi và
đưa ra một số mẹo viết chính tả, cấo tạo âm tiết, vỏ ngữ âm của từ, những hiểu biết về
chữ cái, dấu thanh, quan hệ giữa âm và chữ, phân biệt sự sai lệch của hệ thống âm địa
phương với âm chuẩn để học sinh dễ nhớ và viết đúng hơn.
c. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp
*Luyện phát âm
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho học
sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi
âm – âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.Việc rèn phát âm không chỉ thực hiện trong tiết Tập
đọc mà được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như
Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn,…
Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói lắp…) giáo viên
lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng
phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được.
*Phân tích và so sánh
2
Những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh
với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “buồng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “ buồn”, giáo viên
yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- buồng = b + uông + thanh huyền
- buồn = b + uôn + thanh huyền
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng buồng có âm cuối là “ng”, tiếng buồn có
âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết các em sẽ không viết sai.
*Giải nghĩa từ
Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ thường
được thực hiện trong các tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn…nhưng nó cũng
là việc làm rất cần thiết trong giờ Chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó
dựa và phát âm hay phân biệt cấu tạo tiếng.
Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc
chú giải, đặt câu ( nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ
đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,…
Ví dụ: Phân biệt bổng và bỗng
+ Giải nghĩa từ bổng: Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu nghĩa của tiếng bổng
(bay lên cao một cách nhẹ nhàng); tìm từ có chứa tiéng bổng ( bay bổng…).
+ Giải nghĩa từ bỗng: Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu nghĩa của tiếng bỗng
(một sự việc xảy ra một cách bất ngờ, đột ngột không đoán trước được); tìm từ có chứa
tiếng bỗng ( bỗng đâu, bỗng xuất hiện,…).
Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải
nghĩa từ.
*Ghi nhớ mẹo luật chính tả
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng
loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách hữu hiệu. Ngay từ
lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh
chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên còn có thể cung cấp
một số mẹo luật khác như:
3
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s: sả, si, sồi, sứ, sung , sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu,
sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa,… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu,
săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô,…
+ Luật bổng – trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh hay dấu của hai yếu tố
ở cùng một hệ bổng ( ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm ( huyền/ ngã/nặng). Để nhớ được hai
nhóm này, giáo viên chỉ cần cho học sinh thuộc hai câu thơ:
Em huyền mang nặng, ngã đau
Anh ngang, sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Bổng
Ngang + hỏi: nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ,…
Sắc + hỏi: nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ,…
Hỏi + hỏi: lỏng lẻo, thỏ thẻ, hởn hển, thủ thỉ, rủ rỉ,…
Trầm
Huyền + ngã: sẵn sàng, lững lờ, vồn vã,…
Nặng + ngã: nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
Ngã + ngã: dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo,…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: gập ghềnh, khấp
khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh,
bấp bênh, công kênh, …
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng,
loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng
ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng
keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng đùng, thùng thùng,
bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch,…
4
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
*Làm các bài tập chính tả
Giáo viên đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận
dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau
mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để học sinh ghi nhớ.
- Bài tập trắc nghiệm:
* Khoanh tròn vào chữ cái trước chữ viết đúng chính tả:
a. hướng dẩn
b. hướng dẫn
c. buồn chuối
d. buồng chuối
e. uốn lượng
g. uống lượng
* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô
trống trước những chữ viết sai chính tả:
ruộng vường
ruộng vườn
cây thước
cây thướt
nằm ngũ
nằm ngủ
trong thấy
trông thấy
* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng
chính tả:
A
B
bênh
trong
bên
vực
chải
chảy
nước
tóc
- Bài tập chọn lựa chọn
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong truyện vui sau:
Tìm chỗ ngồi
Rạp đang chiếu phim thì một bà đứng dậy len qua hàng ghế ra ngoài. Lát
(sau/xau), bà trở lại và hỏi ông đầu hàng ghế ( rằng/ rằn):
- Thưa ông! Phải (chăng/chăn) lúc ra ngoài tôi vô ý giẫm vào chân ông?
5
-
Vâng, nhưng ( sin/ xin) bà đừng ( băng khoăng/băn khoăn), tôi không
(sao/xao)!
-
Dạ không! Tôi chỉ muốn hỏi để (sem/xem) tôi có tìm đúng hàng ghế của
mình không.
Truyện vui nước ngoài
* Xếp các từ ngữ sau đây thành hai cột ( từ ngữ viết đúng chính tả, từ ngữ viết sai
chính tả):
a) sắp sếp, sáng sủa, sản sinh, tinh sảo, bổ xung, sinh động
b) thân thiếc, thời tiết, công việc, nhiệc tình, chiết cành, mải miết
Từ viết đúng chính tả
Từ viết sai chính tả
…………..
………………
- Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:
an/ang: Mấy chú ng… con d.... hàng ng… lạch bạch đi kiếm mồi.
Lá bàng đang đỏ ngọn cây,
Sếu gi… m… lạnh đang bay ng… trời.
Tố Hữu
Mẹ rằng : Quê mẹ, Bảo Ninh
ên/ênh:
M… mông sóng biển, l… đ… mạn thuyền.
Sớm chiều, nước xuống triều l…
Cực thân từ thuở mới l… chín mười
Tố Hữu
in/inh: lung …
thầm …
giữ…
lặng…
bình…
học…
nhường…
gia…
rung …
thông…
* Điền tiếng láy thích hợp và chỗ trống:
Dáng tre vươn mộc …., màu tre tươi nhũn…. Rồi tre lớn lên, cứng …, dẻo …,
vững chắc.
6
- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, có tiếng chứa
phụ âm đầu hoặc dấu thanh theo yêu cầu,…
* Tìm các từ láy:
a) Có tiếng chức âm s:
M: suôn sẻ
Có tiếng chứa âm x:
M: xôn xao
b) Có tiếng chức thanh hỏi:
M: nhanh nhảu
Có tiếng chứa thanh ngã:
M: mãi mãi
* Tìm các từ chứa tiếng có vần ươn/ ương, có nghĩa như sau:
- Cố gắng tiến lên để đạt tới mức cao hơn, tốt đẹp hơn.
- Tạo ra trong trí óc hình ảnh những cái không có ở trước mắt hoặc chưa từng có.
* Tìm những tiếng bắt đầu bằng r/d/gi diền vào chỗ trống:
Đánh dấu mạn thuyền
Xưa có người đi thuyền, kiếm … bên hông, chẳng may làm kiếm … xuống
nước. Anh ta liền đánh… vào mạn thuyền chỗ rơi. Người trên thuyền thấy lạ bèn hỏi:
- Bác làm … thế ạ?
-
Tôi đánh … chỗ kiếm…. Khi nào thuyền cập bến, cứ theo chỗ đánh … mà
mò, thể nào cũng tìm thấy kiếm.
Truyện cười dân gian
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
- Trái nghĩa với thật thà:
- Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:
- Cây trồng để làm đẹp:
- Khung gỗ để dệt vải:
- Bài tập phân biệt:
* Đặt câu để phân biệt các cặp từ sau:
nổi- nỗi
đổ- đỗ
thuở- thở
biếc- biết
7
- Bài tập giải câu đố:
Chim gì luyện tựa con thoi
Báo mùa xuân đẹp giữa trời say sưa.
( Là con gì?)
Để nguyên vằng vặc trời đêm
Thêm sắc- màu phấn cùng em tới trường.
( Là chữ gì?)
Ngoài các biện pháp nêu trên, tôi còn rèn chính tả cho học sinh qua các môn học
khác. Khi chấm bài ở các môn khác, tôi cũng sửa lỗi thật kĩ và chính xác. Động viên
học sinh đến thư viện, giới thiệu sách hướng dẫn viết chính tả. Học sinh đọc nhiều,
hiểu nhiều nên ít sai lỗi chính tả hơn.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi tuy phạm vi và đối tượng nghiên cứu
còn hạn hẹp nhưng những kinh nghiệm mà bản thân tôi đề xuất đã được áp dụng ở lớp
tôi chủ nhiệm và bước đầu mang lại kết quả khả quan. Các biện pháp mà tôi đưa ra còn
có thể áp dụng được trong phạm vi cả tổ. Đề tài này còn có thể áp dụng cho các khối
lớp khác trong trường. Rộng hơn nữa, có thể vận dụng các biện pháp này cho các
trường lân cận có điều kiện, cơ sở vật chất giống trường tôi. Ngoài ra với sáng kiến
kinh nghiệm này giáo viên có thể áp dụng cho tất cả các niên học.
4. Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp.
Tôi đã áp dụng các biện pháp nêu trong sáng kiến kinh nghiệm và nhận thấy học
sinh có tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít
mắc lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9, 10 lỗi thì nay còn 3, 4 lỗi, những
em trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi… Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi
đã hình thành cho học sinh của tôi kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Trong đó các em được
đặc biệt chú ý tới kĩ năng viết ( có kết hợp với kĩ năng nghe). Ở đề tài này, học sinh
còn được cung cấp một số kiến thức về chữ viết như: cấu tạo chữ, vị trí dấu thanh, quy
tắc chính tả…Ngoài ra, thông qua việc thực hiện đề tài, học sinh còn được rèn luyện
các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, thay thế, bổ sung , so sánh, khát quát
8
hóa…, học sinh được cung cấp những hiểu biết sơ giản về văn học, văn hóa Việt Nam.
Từ đó các em còn được bồi dưỡng lòng yêu cái đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lòng tốt,
sự công bằng, góp phần hình thành lòng yêu mến tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Nếu sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng liên tục ở khối
lớp 1 đến khối lớp 5 thì tôi chắc chắn rằng hiệu quả sẽ rất cao. Hy vọng những biện
pháp tôi đưa ra sẽ được áp dụng ở các đơn vị lân cận có thực trạng và cơ sở vật chất
giống trường tôi.
Thống kê điểm chính tả năm học 2011-2012:
Sĩ số
Khảo sát chất lượng đầu năm
Trên trung bình
24
Cuối năm học
Dưới trung bình
Trên trung bình
Dưới trung bình
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
15
62,5%
9
37,5%
22
91,7%
2
8,3%
5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: Không.
6. Tài liệu kèm theo: Không có.
Tôi cam đoan những điều khai trong đơn là đúng sự thật.
Tân Hội, ngày 15 tháng 05 năm 2012
Người làm đơn
Lê Thị Thủy
9
Phần mở đầu
I. Bối cảnh của đề tài
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ
năng sử dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc , viết) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam và của
nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt.
Chữ viết là hệ thống kí hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và có quy tắc,
quy định riêng. Muốn viết đúng chính tả Tiếng Việt, ta phải tuân theo những quy định,
quy tắc đã xác lập. Phân môn chính tả có nhiệm vụ cơ bản là giúp học sinh nắm vững
quy tắc chính tả, hình thành kĩ năng chính tả. Ngoài ra, phân môn chính tả còn có
nhiệm vụ rèn cho học sinh một số phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, chính xác; bồi
dưỡng cho học sinh lòng yêu quý tiếng Việt và chữ viết của tiếng Việt.
Trong những năm qua, các em học sinh ở trường tôi còn viết sai nhiều lỗi chính tả.
Trước bối cảnh đó, tôi quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi và tìm ra một số giải
pháp giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả.
II. Lý do chọn đề tài
Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết sai hơn
10 lỗi ở một bài chính tả khoảng 60 chữ. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi không thể hiểu
các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả. Điều này ảnh
hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác,
hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè, nhút nhát. Vì vậy, để
hạn chế tình trạng viết sai chính tả tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp khắc phục lỗi
chính tả ở học sinh lớp 4” nhằm giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết
đúng chính tả: viết đúng chữ ghi âm đầu, âm chính, âm cuối, viết dấu thanh đúng vị trí,
tiến tới viết đẹp, viết nhanh.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đề tài này chỉ thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra môt số biện
pháp khắc phục. Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 41.
10
IV. Mục đích nghiên cứu
Tôi đã tiến hành thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra “Một số
biện pháp khắc phục lỗi chính tả ở học sinh lớp 4”, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn
khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo
phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Giúp học sinh học tốt các phân môn của Tiếng
Việt và các môn học khác. Rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, tinh
thần trách nhiệm với công việc, óc thẩm mĩ.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Ở đề tài này, tôi đã thống kê những lỗi học sinh hay mắc phải, phân loại lỗi và đưa
ra một số mẹo viết chính tả, cấo tạo âm tiết, vỏ ngữ âm của từ, những hiểu biết về chữ
cái, dấu thanh, quan hệ giữa âm và chữ, phân biệt sự sai lệch của hệ thống âm địa
phương với âm chuẩn để học sinh dễ nhớ và viết đúng hơn.
Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận
Tiếng Việt được gọi là một ngôn ngữ, là tiếng nói của người Việt, (còn gọi là
người Kinh) đồng thời cũng là một ngôn ngữ của quốc gia Việt Nam.
Chính tả là phép viết đúng, là lối viết hợp với chuẩn, là hệ thống quy tắc về cách
viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm
tên riêng tiếng nước ngoài…Chính tả là những quy ước của xã hội trong ngôn ngữ
nhằm làm cho người viết và cho người đọc hiểu thống nhất nội dung của văn bản.
Hiện nay, chất lượng giáo dục là mối lo toan của toàn xã hội. Muốn nâng cao chất
lượng giáo dục trước hết học sinh phải biết đọc, biết viết và nhất là tình trạng viết sai
chính tả của học sinh hiện nay. Để học sinh viết đúng chính tả không phải là chuyện
đơn giản. Từ thực tế này, là một giáo viên dạy lớp, tôi tự thấy mình phải làm sao để
giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả.
II. Thực trạng của việc rèn chính tả ở lớp 4 hiện nay
1. Thuận lợi
Đa số học sinh đọc đúng, ít bị ảnh hưởng của phương ngữ. Học sinh hăng hái, tích
cực hơn khi được hướng dẫn những quy tắc để giảm bớt lỗi chính tả. Thư viện trường
có nhiều sách hướng dẫn cách viết đúng chính tả. Bản thân được sự quan tâm,
11
động viên của lãnh đạo nhà trường.
2. Khó khăn
Phụ huynh phần lớn không quan tâm đến việc học của con em nói chung và việc
rèn chính tả nói riêng. Do các em mắc lỗi nhiều từ những năm học trước nên việc rèn
chính tả đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và công sức. Qua việc chấm tập, giảng dạy
học sinh ở lớp, tôi có thống kê một số lỗi như sau:
* Về thanh điệu
- Tiếng Việt có 6 thanh điệu ( ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh
không phân biệt được 3 thanh hỏi, ngã, sắc. Tuy có 3 thanh nhưng số lượng tiếng mang
thanh này không ít và rất phổ biến – kể cả những người có trình độ văn hóa cao.
Ví dụ: sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lấn lộn,…
* Về âm đầu
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ d/gi: đám dỗ, gia giẻ ,…
+ r/g: cá gô, cố rắng,…
+ c/k: céo cờ,…
+ g/gh: con gẹ, gê sợ,…
+ ng/ngh: ngỉ ngơi, nge nhạc,…
+ s/x: cây xả, sinh sắn,…
-
Trong các lỗi này, lỗi về g/gh, s/x, ng/ngh đối với lớp tôi chủ nhiệm là
phổ biến hơn cả.
* Về âm chính
- Học sinh thường lẫn lộn chữ ghi âm chính trong các âm sau đây:
+ i/iê/ê: diệu dàng, thiêu hoa, …
+ o/ô: con ông, ong bà, óng khói,…
+ ơ/ư/ươ: bứu cổ, con hưu, thở nhỏ, hơi thuở, hơ vòi,…
+ u/ uô: đui gà, luối huối
* Về âm cuối
-
Học sinh thường lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc,…
12
+ ăn/ ăng: vầng trăn, con trăng, cố gắn, gắng bó,…
+ ân/âng: dân tặng, nhà tần, khẩng khoản,…
+ en/eng: cái kẻn, leng lỏi
+ ươn/ương: khu vường, sường đồi, …
+ iên/iêng: trống chiên, nổi tiến,…
+ uôn/uông: buông làng, rau muốn, căn buồn,…
+ âc/ât: bật tam cấp, lậc đậc,…
+ iêc/iêt: xanh biết, tha thiếc, thương tiết,…
+ uôc/uôt: con chuộc, thuột bài, …
+ uc/ut: nhúc nhát, giờ phúc, hạnh phút,…
+ ưt/ưc: bánh mức, lọ mựt, khô mựt,…
+ ên/ênh: lên khên, chên vên
+ in/inh: xin xắn, mắt kín, nhà inh,…
+ êt/êch: cộc tết, chênh chết,…
* Về viết hoa danh từ riêng
- Học sinh thường viết sai hoặc không viết hoa những tiếng cần phải viết hoa:
+ Tên riêng người, địa lí Việt Nam: Lê văn tám, Ba vì, sông cửu long,…
+ Tên người, địa lí nước ngoài: ác – boa, anbe anhtanh,…
+ Một số danh từ dùng với nghĩa đặc biệt: ngày quốc tế phụ nữ, nhà nước, …
* Nguyên nhân mắc lỗi
- Về thanh điệu
Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt được 2
thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam không có thanh
ngã. Mặc khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu rất phổ
biến. Một số học sinh miền Nam thường hay lẫn lộn 2 thanh hỏi, ngã với nhau.
- Về âm đầu
Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu d/gi, r/g,
g/gh, ng/ngh , s/x. Mặt khác, người miền nam còn lẫn lộn v và d. Ngoài ra trong quy
ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng c/k/qu…) dĩ
nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh tiểu học (nhất
13
là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn.
- Về âm chính
Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
+ Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ được
ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi / ie, ươ, uô / lại được ghi bằng
dạng iê, yê, ia.ya, ươ, uô, ua ( bia - khuya, biên - tuyến, lửa - lương, mua – muôn ) ;
âm đệm lại được ghi bằng 2 con chữ u và o ( ví dụ: huệ, hoa).
+ Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam Bộ đối
với các âm chính trong hầu hết các vần trên.
- Về âm cuối
Người miền Nam chúng ta phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối
n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối
i/u lại được ghi bằng 4 con chữ i/y ( trong: lai/lay), u/o ( trong: sau/sao) do đó lỗi về
âm cuối là lỗi thường mắc phải và khó khắc phục đối với học sinh miền Nam.
- Quy tắc về viết hoa danh từ riêng
Học sinh thường mắc lỗi này khi viết tên riêng chỉ người và tên riêng nước ngoài
và một số danh từ đặc biệt ( Nhà nước , Quốc tế, Trung thu,…). Học sinh lớp tôi chủ
nhiệm có khoảng ¼ số em mắc lỗi này, nhất là những học sinh yếu không được giáo
viên nhắc nhở khi đang viết bài chính tả.
III. Các biện pháp đã tiến hành khắc phục lỗi chính tả cho học sinh
1. Luyện phát âm
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho học
sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi
âm – âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.Việc rèn phát âm không chỉ thực hiện trong tiết Tập
đọc mà được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như
Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn,…
Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói lắp…) giáo viên
lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng
phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được.
2. Phân tích và so sánh
14
Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so
sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi
nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “buồng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “ buồn”, giáo viên
yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- buồng = b + uông + thanh huyền
- buồn = b + uôn + thanh huyền
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng buồng có âm cuối là “ng”, tiếng buồn có âm
cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết các em sẽ không viết sai.
3. Giải nghĩa từ
Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ thường
được thực hiện trong các tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn…nhưng nó cũng
là việc làm rất cần thiết trong giờ Chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó
dựa và phát âm hay phân biệt cấu tạo tiếng.
Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc
chú giải, đặt câu ( nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ
đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,…
Ví dụ: Phân biệt bổng và bỗng
+ Giải nghĩa từ bổng: Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu nghĩa của tiếng bổng
(bay lên cao một cách nhẹ nhàng); tìm từ có chứa tiéng bổng ( bay bổng…).
+ Giải nghĩa từ bỗng: Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu nghĩa của tiếng bỗng
(một sự việc xảy ra một cách bất ngờ, đột ngột không đoán trước được); tìm từ có chứa
tiếng bỗng ( bỗng đâu, bỗng xuất hiện,…).
Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải
nghĩa từ.
4. Ghi nhớ mẹo luật chính tả
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng
loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách hữu hiệu. Ngay từ
lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh
chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên còn có thể cung cấp
15
một số mẹo luật khác như:
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s: sả, si, sồi, sứ, sung , sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu,
sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa,… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu,
săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô,…
+ Luật bổng – trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh hay dấu của hai yếu tố
ở cùng một hệ bổng ( ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm ( huyền/ ngã/nặng). Để nhớ được hai
nhóm này, giáo viên chỉ cần cho học sinh thuộc hai câu thơ:
Em huyền mang nặng, ngã đau
Anh ngang, sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Bổng
Ngang + hỏi: nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ,…
Sắc + hỏi: nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ,…
Hỏi + hỏi: lỏng lẻo, thỏ thẻ, hởn hển, thủ thỉ, rủ rỉ,…
Trầm
Huyền + ngã: sẵn sàng, lững lờ, vồn vã,…
Nặng + ngã: nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
Ngã + ngã: dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo,…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: gập ghềnh, khấp
khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh,
bấp bênh, công kênh, …
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng,
loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng
ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng
keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng đùng, thùng thùng,
bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch,…
16
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu
chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
5. Làm các bài tập chính tả
Giáo viên đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận
dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau
mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để học sinh ghi nhớ.
- Bài tập trắc nghiệm:
* Khoanh tròn vào chữ cái trước chữ viết đúng chính tả:
a. hướng dẩn
b. hướng dẫn
c. buồn chuối
d. buồng chuối
e. uốn lượng
g. uống lượng
* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô
trống trước những chữ viết sai chính tả:
ruộng vường
ruộng vườn
cây thước
cây thướt
nằm ngũ
nằm ngủ
trong thấy
trông thấy
* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng
chính tả:
A
B
bênh
trong
bên
vực
chải
chảy
nước
tóc
- Bài tập chọn lựa chọn
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong truyện vui sau:
Tìm chỗ ngồi
Rạp đang chiếu phim thì một bà đứng dậy len qua hàng ghế ra ngoài. Lát
(sau/xau), bà trở lại và hỏi ông đầu hàng ghế ( rằng/ rằn):
- Thưa ông! Phải (chăng/chăn) lúc ra ngoài tôi vô ý giẫm vào chân ông?
17
-
Vâng, nhưng ( sin/ xin) bà đừng ( băng khoăng/băn khoăn), tôi không
(sao/xao)!
-
Dạ không! Tôi chỉ muốn hỏi để (sem/xem) tôi có tìm đúng hàng ghế của
mình không.
Truyện vui nước ngoài
* Xếp các từ ngữ sau đây thành hai cột ( từ ngữ viết đúng chính tả, từ ngữ viết sai
chính tả):
c) sắp sếp, sáng sủa, sản sinh, tinh sảo, bổ xung, sinh động
d) thân thiếc, thời tiết, công việc, nhiệc tình, chiết cành, mải miết
Từ viết đúng chính tả
Từ viết sai chính tả
…………..
………………
- Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:
an/ang: Mấy chú ng… con d.... hàng ng… lạch bạch đi kiếm mồi.
Lá bàng đang đỏ ngọn cây,
Sếu gi… m… lạnh đang bay ng… trời.
Tố Hữu
Mẹ rằng : Quê mẹ, Bảo Ninh
ên/ênh:
M… mông sóng biển, l… đ… mạn thuyền.
Sớm chiều, nước xuống triều l…
Cực thân từ thuở mới l… chín mười
Tố Hữu
in/inh: lung …
thầm …
giữ…
lặng…
bình…
học…
nhường…
gia…
rung …
thông…
* Điền tiếng láy thích hợp và chỗ trống:
Dáng tre vươn mộc …., màu tre tươi nhũn…. Rồi tre lớn lên, cứng …, dẻo …,
vững chắc.
18
- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, có tiếng chưa
phụ âm đầu hoặc dấu thanh theo yêu cầu,…
* Tìm các từ láy:
a) Có tiếng chức âm s:
M: suôn sẻ
Có tiếng chứa âm x:
M: xôn xao
b) Có tiếng chức thanh hỏi:
M: nhanh nhảu
Có tiếng chứa thanh ngã:
M: mãi mãi
* Tìm các từ chứa tiếng có vần ươn/ ương, có nghĩa như sau:
- Cố gắng tiến lên để đạt tới mức cao hơn, tốt đẹp hơn.
- Tạo ra trong trí óc hình ảnh những cái không có ở trước mắt hoặc chưa từng có.
* Tìm những tiếng bắt đầu bằng r/d/gi diền vào chỗ trống:
Đánh dấu mạn thuyền
Xưa có người đi thuyền, kiếm … bên hông, chẳng may làm kiếm … xuống
nước. Anh ta liền đánh… vào mạn thuyền chỗ rơi. Người trên thuyền thấy lạ bèn hỏi:
- Bác làm … thế ạ?
-
Tôi đánh … chỗ kiếm…. Khi nào thuyền cập bến, cứ theo chỗ đánh … mà
mò, thể nào cũng tìm thấy kiếm.
Truyện cười dân gian
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
- Trái nghĩa với thật thà:
- Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:
- Cây trồng để làm đẹp:
- Khung gỗ để dệt vải:
- Bài tập phân biệt:
* Đặt câu để phân biệt các cặp từ sau:
nổi- nỗi
đổ- đỗ
thuở- thở
biếc- biết
19
- Bài tập giải câu đố:
Chim gì luyện tựa con thoi
Báo mùa xuân đẹp giữa trời say sưa.
( Là con gì?)
Để nguyên vằng vặc trời đêm
Thêm sắc- màu phấn cùng em tới trường.
( Là chữ gì?)
Ngoài các biện pháp nêu trên, tôi còn rèn chính tả cho học sinh qua các môn học
khác. Khi chấm bài ở các môn khác, tôi cũng sửa lỗi thật kĩ và chính xác. Động viên
học sinh đến thư viện, giới thiệu sách hướng dẫn viết chính tả. Học sinh đọc nhiều,
hiểu nhiều nên ít sai lỗi chính tả hơn.
IV.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh
có tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc
lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9, 10 lỗi thì nay còn 3, 4 lỗi, những em
trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi…Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức
khiêm tốn và việc giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả là một quá trình lâu dài song tôi
vẫn cảm thấy vui vì công việc mình làm bước đầu có hiệu quả.
Thống kê điểm chính tả năm học 2011-2012:
Sĩ số
Khảo sát chất lượng đầu năm
Trên trung bình
24
Cuối học kì I
Dưới trung bình
Trên trung bình
Dưới trung bình
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
15
62,5%
9
37,5%
22
91,7%
2
8,3%
Phần kết luận
I.Những bài học kinh nghiệm
- Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra các
biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy học Tiếng
Việt. Nhưng không chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có
hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi giáo viên
20
phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong
vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải và
tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kì. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn
nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
- Ngay từ khi các em mới bắt đầu làm quen với Tiếng Việt, giáo viên nên hướng
dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ
quốc ngữ… tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,… từ đó phát hiện ra
những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa
chữa, uốn nắn.
- “ Ở đâu có thầy giỏi, ở đó có trò giỏi”. Vì vậy người giáo viên cần phải không
ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Có nắm chắc
kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi một cách có
hiệu quả.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi đã hình thành cho học sinh của tôi kĩ năng
sử dụng tiếng Việt. Trong đó các em được đặc biệt chú ý tới kĩ năng viết ( có kết hợp
với kĩ năng nghe). Ở đề tài này, học sinh còn được cung cấp một số kiến thức về chữ
viết như: cấu tạo chữ, vị trí dấu thanh, quy tắc chính tả…Ngoài ra, thông qua việc thực
hiện đề tài, học sinh còn được rèn luyện các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp,
thay thế, bổ sung , so sánh, khát quát hóa…, học sinh được cung cấp những hiểu biết
sơ giản về văn học, văn hóa Việt Nam. Từ đó các em còn được bồi dưỡng lòng yêu cái
đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lòng tốt, sự công bằng, góp phần hình thành lòng yêu
mến tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
III. Khả năng ứng dụng triển khai
Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi tuy phạm vi và đối tượng nghiên cứu còn
hạn hẹp nhưng những kinh nghiệm mà bản thân tôi đề xuất đã được áp dụng ở lớp tôi
chủ nhiệm và bước đầu mang lại kết quả khả quan. Các biện pháp mà tôi đưa ra còn có
thể áp dụng được trong phạm vi cả tổ. Đề tài này còn có thể áp dụng cho các khối lớp
khác trong trường. Rộng hơn nữa, có thể vận dụng các biện pháp này cho các trường
21
lân cận có điều kiện, cơ sở vật chất giống trường tôi. Ngoài ra với sáng kiến kinh
nghiệm này giáo viên có thể áp dụng cho tất cả các niên học.
IX.Kiến nghị đề xuất: Không
22
Tài liệu tham khảo
1. Ths. Lê Thị Ngọc Luyên, 2009, Tiếng Việt thực hành, Nhà xuất bản Đà Nẵng,
52 trang.
2. Lê Phương Nga - Đặng Kim Nga, 2007, Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu
học, Nhà xuất bản Đại học sư phạm- Nhà xuất bản Giáo dục, 296 trang.
3. GS. Hoàng Phê, 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà nẵng, 1221 trang.
4. Hoàng Văn Thung – Đỗ Xuân Thảo, 2001, Dạy học Chính tả ở Tiểu học, Nhà
xuất bản Giáo dục, 144 trang.
5. Nguyễn Minh Thuyết, 2005, SGK TV4, Nhà xuất bản Giáo dục.
23
MỤC LỤC
Phần mở đầu
I.
II.
III.
IV.
V.
Bối cảnh của đề tài
Lý do chọn đề tài
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
trang 1
trang 1
trang 1
trang 2
trang 2
Phần nội dung
I.
II.
III.
IV.
Cơ sở lý luận
Thực trạng của việc rèn chính tả ở lớp 4 hiện nay
Các biện pháp đã tiến hành khắc phục lỗi chính tả cho học sinh
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
III. Khả năng ứng dụng triển khai
IV. Kiến nghị đề xuất
24
trang 2
trang 2
trang 5
trang 11
trang 11
trang 12
trang 12
trang 13