Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN Văn - TV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.57 KB, 15 trang )

PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG VÀ SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY – HỌC NGỮ VĂN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Trong công cuộc đổi mới toàn diện quá trình dạy học, môn Ngữ
văn có một vò trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của
trường Trung học cơ sở : góp phần hình thành những con người có trình
độ học vấn phổ thông chuẩn bò cho họ ra đời hoặc tiếp tục học ở bậc cao
hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý
trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu Chủ Nghóa Xã Hội, hướng
tới những tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn
trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm thù, ghét cái xấu, cái ác. Đó là
những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo,
bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trò chân, thiện, mỹ trong nghệ
thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử
dụng Tiếng việt như một công cụ để giao tiếp ; cùng với quá trình đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập
giúp học sinh phương pháp tự học, thực chất là tự tìm kiếm và giải quyết
vấn đề, thực hiện các nhiệm vụ nhận thức một cách có hiệu quả nhất.
Bên cạnh thành quả tốt đẹp nhờ một tinh thần trách nhiệm cao và
phương pháp dạy học tiến bộ thích hợp vẫn còn tồn tại một cách dạy có
nhiều điểm cần bàn, chính cách dạy này đã góp một phần không nhỏ
làm cho học sinh chán nản học môn Ngữ văn và nhìn chung kết quả học
sinh học môn Ngữ văn có chiều hướng sút kém, việc học của học sinh
càng trở nên phó thác, chỉ biết đến lớp nhiều khi không biết hôm nay
học bài gì, chuẩn bò như thế nào,(trừ một số học sinh có ý thức tự giác
chủ động ). Qua kinh nghiệm ít ỏi từ thực tế dạy học cho thấy cần có
một động cơ, một biện pháp nào đó để giúp học sinh phát huy vai trò
tích cực, chủ động và sáng tạo của mình vào học môn Ngữ văn, nhằm
khắc phục tình trạng trên, góp phần tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh để đem lại hiệu quả như mong muốn.
1


II. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Học sinh trường THCS Nguyễn Viết Xuân
- Qua hai năm thực dạy trên lớp 7E năm học 2005 – 2006 và lớp 8E năm
học 2006 – 2007.
III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN :
1. Nhìn lại một vài cách dạy môn ngữ văn :
Nói như trên cũng do quá trình dạy học chỉ chú trọng thời gian dạy
học trên lớp, đến mức có lúc có người cho rằng hoạt động của thầy trò
trên lớp là quyết đònh tất cả chất lượng dạy học Ngữ văn. Vì chú trọng
như thế nên giáo viên đã hầu như không đầu tư thích đáng công sức, thời
gian vào việc hướng dẫn học sinh học ở nhà, chuẩn bò trước ở nhà … còn
học sinh do vậy cũng không dành thì giờ vào việc tìm hiểu bài trùc khi
đến lớp và ôn luyện củng cố phát triển kết quả học tập trên lớp thích
đáng.
Hoạt động của thầy và trò trên lớp thường tập trung theo một qui
trình thầy nói, đọc và ghi lên bảng, trò nghe nhìn và cố nhặt cho được
một số câu chữ của thầy ghi vào vở, nhiều khi để nhấn mạnh ý mình và
cũng thể theo ý nguyện học sinh, giáo viên đã không ngần ngại nói đi
nói lại như đọc chậm từng đoạn, phần bài giảng của mình để học sinh
nghe rõ, chép cho đủ. Về sau, lúc kiểm tra học sinh cố học thuộc bài đã
ghi, rồi chép từng đoạn bài ghi ấy theo một đoạn văn nói hay một đoạn
bài văn viết để giáo viên chấm điểm và giáo viên nhận ra dấu vết suy tư
cảm nhận diễn đạt của mình thật rõ qua các giờ trả bài của học sinh,
nhưng ít ai lấy làm phiền lòng mà thường tán thành ngay thậm chí còn
cho điểm cao đối với học sinh đã lặp lại ý mình một cách suông sẻ nữa.
Cũng chính vì thế nhiều giáo viên và học sinh hầu như không quan tâm
gì đến hoạt động ngoại khoá vốn có khả năng kích thích hứng thú dạy
học cho cả thầy và trò và cũng có lợi thế trong việc mở rộng kiến thức
cho học sinh. Kết quả chung cũng là kết quả cao nhất mà cách dạy này
đạt được là tạo một loạt bài nói viết của học sinh có nhiều điểm giống

nhau về nội dung, cách trình bày lập luận dẫn dắt, và cố nhiên giống
2
cả về cách cảm nhận suy nghó đối với từng chi tiết cụ thể. Rõ ràng với
cách dạy nặng yếu tố chủ quan, tính chất phiên bản trong việc cảm thụ
văn chương của từng học sinh đã không có được nữa ( ngoại trừ một số
học sinh có năng khiếu và học giỏi văn). Người dạy không hề thấy rằng
trong các em đang nghe mình kia tuy còn bé thơ thật nhưng dù ít dù
nhiều các em đã có một vốn liếng văn chương chữ nghóa riêng, các em
đang nghe mình với tất cả sự thành kính và tất cả cái vốn liếng ấy và
mỗi em bên cạnh phần khác nhau nhất đònh cũng đang có sự hình dung
rất riêng về từng nhân vật, từng chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm, cũng
đang có những liên tưởng thật khác nhau về số ngôn từ, hình ảnh, nhòp
điệu, cấu trúc ngôn ngữ tác phẩm, các đơn vò kiến thức đang được giáo
viên giảng bình. Chúng ta lâu nay không biết hay là quên đi sự thực như
vậy còn học sinh thì cũng tự coi việc nói theo sao cho trơn tru là đủ, là
hay mà không tự cho rằng khi đến với một áng văn hay một đơn vò kiến
thức … mình cần và có thể có cách tiếp cận ra sao, mình nên thâm nhập
mổ xẻ để hiểu kỹ về nó như thế nào và lúc trình bày ý kiến của mình về
nó thì cần nói theo cách riêng nào cho đúng nhất, hay nhất như mình
hằng nghó. Đó cũng là nhược điểm của cách dạy không thấy không phát
huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo vốn có của học sinh.
2. Ý nghóa của việc phát huy vai trò tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh :
Do tính chất đặc thù của môn Ngữ văn, nguyên tắc phát huy chủ
thể học sinh càng có tầm quan trọng đặc biệt. Học văn đối với học sinh
là thưởng thức và khám phá, trước hết là thưởng thức tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ. Tiếp nhận cảm thụ tác phẩm nghệ thuật không thể thiếu
được. Nhận thức lí tính, tư duy lý luận, nhưng đó không phải là chủ yếu ;
sự tiếp nhận nghệ thuật diễn ra chủ yếu bằng những rung động tự nhiên
tươi mát của tâm hồn bằng xúc động tình cảm. Đó là sự tiếp nhận mang

đậm tính chủ quan và màu sắc cá nhân. Có thể nói thưởng thức, cảm thụ
nghệ thuật là hoạt động không thể làm thay không thể áp đặt. Vì vậy chỉ
có phát huy đầy đủ vai trò tích cực của chủ thể học sinh mới là con
3
đường đúng đắn nhất để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học ngữ văn.
Mặt khác còn phải hiểu rằng tác phẩm văn chương tuy miêu tả và thể
hiện cuộc sống toàn vẹn và sinh động nhưng vẫn còn nhiều “ điểm mơ
hồ ” chưa rõ. Người đọc phải quan sát, tri giác để làm nổi lên những nét
mơ hồ, khôi phục những chỗ bò bỏ lửng, nhận ra mối liên hệ của những
phần xa nhau ý thức được sự chi phối, tác động của chỉnh thể đối với các
bộ phận. Điều này thể hiện rõ trong việc đọc tác phẩm thơ trữ tình, nhất
là thơ cổ. Còn như trong tác phẩm tự sự, ví dụ như trong truyện ngắn
“ Lão Hạc ” của Nam Cao, những lời nhận xét thoáng qua của vợ ông
Giáo, của ông Giáo, của Binh Tư nếu đọc qua tưởng như không có quan
hệ gì đến thái độ, tình cảm, cách nhìn, cách đánh giá con người của tác
giả qua tính cách, số phận của lão Hạc. Có bài thơ bài ca dao trữ tình rõ
ràng có một tiếng nói nhưng không rõ là lời của ai và nói gì. Tính chất
đặc biệt đó của hiện tượng nghệ thuật ngôn từ đòi hỏi người đọc người
thưởng thức, khám phá phải chủ động tích cực, phải huy động vốn sống
vốn kinh nghiệm, tri thức văn học nghệ thuật phải nỗ lực tư duy tập
trung xúc cảm rung động để bổ sung làm cho tác phẩm hiện lên một
cách đầy đặn hoàn chỉnh. Vì vậy, chỉ có phát huy tính tích cực chủ động
của chủ thể học sinh việc dạy học ngữ văn mới có hiệu quả chất lượng.
3. Một số phương thức cần và có thể làm theo để thực hiện phát huy vai
trò tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh
Để thực hiện tư tưởng dạy học tập trung vào người học, phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, các biện pháp dạy
học tích cực được vận dụng là thực hành giao tiếp, phân tích ngôn ngữ,
thảo luận, giải quyết vấn đề. Cùng với các hình thức tổ chức học tập :
học theo lớp, học theo nhóm, học cá nhân. Hình thức học theo nhóm tạo

nhiều điều kiện cho học sinh hợp tác, học hỏi nhau trong quá trình tìm
hiểu, vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Tuy nhiên khi sử dụng
các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cần tránh khuynh hướng
tuyệt đối hoá một vài phương pháp hoặc một hình thức tổ chức dạy học.
4
Cần vận dụng linh hoạt một số phương pháp, hình thức dạy học trong
mỗi bài học để khơi dậy được niềm hứng thú học tập ở học sinh.
Trên cơ sở tập hợp tình hình đối tượng học sinh nhiều lớp được
dạy như lớp 7E, 7D, 8D năm học 2005 – 2006 và lớp 7D, 7C, 8E năm
2006 – 2007 sau đây chỉ xin nêu một số phương thức thực hiện :
a) Trong quá trình giảng dạy trên lớp :
Giáo viên luôn có ý thức và biện pháp khơi dậy, nuôi dưỡng tính tự
giác chủ động, niềm say mê hứng khởi và nhiệt tình sáng tạo trong
khám phá kiến thức mới. Vai trò chủ thể học sinh chỉ được phát huy khi
học sinh được đặt trong sự đối diện với tác phẩm, với những yêu cầu cần
đạt tới và khả năng có thể đạt tới. Vì vậy việc cá thể hoá chủ thể học
sinh trong quá trình dạy học chính khoá cũng như trong hoạt động ngoại
khoá có ý nghóa lớn.
Trong quá trình thực hiện bài dạy nhất là khâu tổ chức dạy học trên
lớp, giáo viên hình thành ở học sinh những kiến thức công cụ, những
hiểu biết và phương pháp để cảm thụ, phân tích để chiếm lónh tác phẩm
văn chương hay một đơn vò kiến thức. Chủ thể học sinh sẽ không được
phát huy nếu các em thấy bất lực trước đối tượng hoặc là đối tượng trở
thành xa lạ, vô cảm đối với các em. Để tránh tình trạng ấy, thông qua
hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm giáo viên phải từng bước hình thành ở học
sinh những khái niệm lý luận sơ giản nhưng cần thiết, đồng thời bước
đầu giúp các em có phương pháp và kỹ năng tiếp nhận tác phẩm. Bởi
cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung dạy văn nói riêng là rèn
luyện bộ óc, là rèn luyện phương pháp suy nghó, phương pháp vận dụng
kiến thức của mình. Để chủ thể học sinh được phát huy đầy đủ trong

suốt quá trình cảm nhận suy ngẫm tác phẩm, giáo viên càng phải phát
huy vai trò chủ đạo của mình, phải khẳng đònh rằng cùng hệ thống câu
hỏi để dẫn dắt học sinh những đoạn văn hoặc cả bài văn ngân vang lên
qua giọng đọc diễn cảm của giáo viên, những câu giảng những lời bình
thấm thía của thầy khi cần thiết, những hệ thống, khái quát của thầy về
những kiến thức học sinh đã tìm hiều phát hiện… không những không vi
5
phạm nguyên tắc phát huy chủ thể học sinh mà ngược lại còn có tác
dụng khơi sâu cảm thụ, kích thích nỗ lực trí tuệ và óc sáng tạo của các
em trong giờ văn – điều cơ bản vẫn là trình độ và tài năng sư phạm của
giáo viên
b) Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bò bài ở nhà :
Qua thực tế giảng dạy cho thấy khâu chuẩn bò bài ở nhà của học
sinh thường rất bò coi nhẹ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học
sinh. Trước hết cần coi đây là một công việc tuy không thực mới lạ
nhưng thực ra, hướng dẫn sao cho đúng mức nếu giáo viên không suy
ngẫm cẩn thận, mấy phút còn lại của giờ học giáo viên tiến hành vội vã,
chiếu lệ, dặn học sinh soạn những câu hỏi sách giáo khoa. Việc chuẩn bò
của học sinh thường không ăn khớp hoặc không liên quan gì mấy đến
hoạt động của thầy và trò trên lớp. Ở đây có vấn đề nhận thức về ý
nghóa và nội dung của việc học sinh chuẩn bò ở nhà. Chuẩn bò ở nhà là
bước tập dượt cho sự cảm thụ trên lớp sâu sắc hơn. Bằng kinh nghiệm
sống và kinh nghiệm văn học của bản thân, học sinh trực tiếp đi vào thế
giới tác phẩm trên cơ sở đó, giáo viên sẽ khơi sâu phát triển những ấn
tượng đúng đắn và loại trừ những cảm xúc và những suy nghó ban đầu
còn chủ quan lệch lạc. Việc chuẩn bò ở nhà của học sinh có nhiều mặt
đa dạng : có thể là tập đọc tìm hiểu từ ngữ khó ( điển cố ) suy nghó về
một chi tiết nghệ thuật, một kiến thức cụ thể cần thiết có liên quan đến
việc tiếp nhận tác phẩm … nhưng nội dung chủ yếu vẫn là nhằm khơi
dậy hứng thú học sinh đối với tác phẩm và đònh hướng học sinh vào

những vấn đề then chốt của tác phẩm mà giáo viên sẽ hướng dẫn học
sinh đi sâu phát hiện trên lớp. Câu hỏi chuẩn bò tuyệt đối không tuỳ tiện
mỗi câu hỏi vừa có tác dụng khơi dậy hứng thú vừa đi vào thế giới trọng
tâm cảm hứng của tác giả, vừa có tác dụng chuẩn bò cho hoạt động giáo
viên và học sinh. Đến lớp giáo viên phải kiểm tra việc chuẩn bò ở nhà,
đây không những chỉ là công việc thường lệ của nhà giáo trước khi bắt
tay vào giảng dạy một tác phẩm mới, đây còn là bước cần thiết tạo tâm
thế chủ động, tạo tiền đề tâm lý cần có cho học sinh để thâm nhập bài
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×