Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.32 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

VŨ VĂN THIỆN

QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số

: 60 34 04 12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học,
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.

VŨ VĂN THIỆN




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG
VỀ QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

13

1.1. Các khái niệm công cụ

13

1.2. Khung lý luận quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ

17

1.3. Kinh nghiệm thế giới và trong nước

18

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN
2011-2015

24


2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và yêu cầu đối với
quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh

24

2.2. Thực trạng tổ chức quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015

33

CHƢƠNG 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHIỆM VỤ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2017
– 2020 VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐẾN NĂM 2030

58

3.1. Dự báo nhu cầu về phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng
Ninh

58
3.2. Một số giải pháp quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh

Quảng Ninh giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2030

63

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

72


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNTT:

Công nghệ thông tin

CNH-HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CN:

Công nghiệp

DASXTN:

Dự án sản xuất thử nghiệm

DVKHCN:

Dịch vụ khoa học và công nghệ

ĐTCB:

Điều tra cơ bản


GDP:

Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương -Liên Hiệp
Quốc
Tổng sản phẩm quốc nội

KH&CN:

Khoa học và công nghệ

KHXH&NV:

Khoa học xã hội và nhân văn

KHKT&CN:

Khoa học kỹ thuật và công nghệ

KT-XH:

Kinh tế-xã hội

NC&PT:

Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

NCKH:

Nghiên cứu khoa học


NN&PTNT:

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NCCB:

Nghiên cứu cơ bản

NCƯD:

Nghiên cứu ứng dụng

ESCAP:

OECD (Organization
for Economic
Cooperation and
Development):
TNHH:

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế

Trách nhiệm hữu hạn

TW:

Trung ương

TT-CN:


Tiểu thủ công nghiệp

Tr.đ:

Triệu đồng

UBND:

Ủy ban nhân dân

UNESCO (United
Nations Educational
Scientific and Cultural
Organization):

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc


DANH MỤC BẢNG
TT

Ký hiệu

Nội dung

Trang

1

Bảng 2.1


Tình hình triển khai các nhiệm vụ KH&CN cấp
tỉnh giai đoạn 2011-2015

44

2

Bảng 2.2

Cơ cấu nhiệm vụ và tài chính theo lĩnh vực
KH&CN cấp tỉnh

45

3

Bảng 2.3

Tình hình triển khai các nhiệm vụ KH&CN cấp cơ
sở giai đoạn 2011-2015

48

4

Bảng 2.4

Cơ cấu nhiệm vụ và tài chính theo lĩnh vực
KH&CN cấp cơ sở


49

DANH MỤC HÌNH VẼ
TT

Ký hiệu

Nội dung

Trang

1

Hình 2.1

Quy trình xác định danh mục nhiệm vụ
KH&CN cấp tỉnh

36

2

Hình 2.2

Quy trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN
cấp tỉnh

37


3

Hình 2.3

Quy trình đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ
KH&CN cấp tỉnh

38

4

Hình 2.4

Quy trình xác định danh mục nhiệm vụ
KH&CN cấp cơ sở

39

5

Hình 2.5

Quy trình đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ
KH&CN cấp cơ sở

41

6

Hình 2.6


Quy trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN
cấp cơ sở

42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công
nghệ, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có tính chất quyết
định sự phát triển của mỗi quốc gia. Điều này càng quan trọng đối với những quốc gia
đang phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, tiến tới xây dựng
một nền kinh tế tri thức trong tương lai như nước ta hiện nay. Trên cơ sở nhận thức sâu
sắc vị trí, vai trò, ý nghĩa chiến lược to lớn của việc ứng dụng thành tựu khoa học và
công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã đặc
biệt quan tâm đến vấn đề này. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng
của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ đã có
bước chuyển biến, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất định, đóng góp tích cực vào
sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Khoa học và
công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”. Trong các văn kiện Đại hội trước, Đảng ta
đã khẳng định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tuy nhiên, hoạt động
khoa học và công nghệ nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự trở thành động lực phát
triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và
công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả
sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ
còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được đổi
mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ chưa gắn với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý... Tại Đại hội XII, khi

thêm vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta muốn nhấn
mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học và công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa
học và công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong
thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta. “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” cũng có
nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội
cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học và công nghệ và thực hiện bằng

1


khoa học và công nghệ; khoa học và công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước
một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.
Năm năm qua, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn,
song dưới sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, đúng hướng, hiệu quả của Trung ương, Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh đã phát huy khối đại đoàn
kết, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, có nhiều giải pháp đột phá để khai thác tiềm năng,
thế mạnh, khắc phục khó khăn nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra, phấn
đấu đến năm 2020, xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ,
công nghiệp; là trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực.
Kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, quy mô và sức cạnh tranh được nâng lên rõ
rệt; tăng trưởng kinh tế đạt mức cao so với cả nước; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch
tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ; thu ngân sách luôn nằm trong nhóm 5
tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước. Bám sát mục tiêu thực hiện ba đột phá chiến lược
gắn với cơ cấu lại kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả nổi bật. Môi trường đầu tư, kinh doanh được
cải thiện rõ rệt; niềm tin của các nhà đầu tư được nâng lên. Văn hóa - xã hội được quan
tâm, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, yếu kém
cần quyết tâm khắc phục: một số chỉ tiêu của Đại hội XIV đề ra chưa đạt; kinh tế phát

triển khá nhanh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhất là
một số ngành có lợi thế lớn như du lịch, thương mại, kinh tế biển. Hệ thống kết cấu hạ
tầng đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn chưa đồng bộ. Nguồn nhân lực chất lượng
cao còn thiếu, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành. Đời sống văn hoá xã hội của nhân dân đã được cải thiện nhưng có mặt chưa tương xứng với tốc độ phát
triển kinh tế,... Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do suy
thoái kinh tế thế giới nhất là trong những năm đầu nhiệm kỳ; tình hình chính trị trong
khu vực, thời tiết, dịch bệnh diễn biến bất thường... đã tác động tiêu cực đến các ngành
sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Nhưng trực tiếp và quyết định vẫn là
nguyên nhân chủ quan: Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện của một số cấp ủy đảng; năng lực quản lý, điều hành ở một số cấp chính quyền

2


chậm được nâng cao, nhất là ở cơ sở. Nhận thức, năng lực của một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn hạn chế. Quyết tâm chính trị có mặt chưa cao, thiếu biện pháp hữu hiệu
khắc phục triệt để các hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra. Công tác phân tích, dự báo
chiến lược chưa theo kịp tình hình.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030 là xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại,
trung tâm du lịch quốc tế, là một trong những đầu tầu kinh tế của miền Bắc và cả nước
với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ, hiện đại,
giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, đảm bảo giữ gìn và bảo vệ môi trường bền vững. Giữ gìn và phát huy tốt bản sắc
dân tộc, bảo tồn và phát huy bền vững Di sản – Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ
Long và những khác biệt, đặc sắc của Vịnh Bái Tử Long; phấn đấu trở thành khu vực
phòng thủ vững chắc về quốc phòng, an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh
tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Trong những năm qua, các hoạt động khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng
Ninh được triển khai chủ động, toàn diện và đạt được kết quả nổi bật. Nghiên cứu

khoa học - Phát triển công nghệ tiếp tục được đẩy mạnh ở cả cấp nhà nước, cấp tỉnh và
được đặc biệt quan tâm ở cấp cơ sở; Kết quả nghiên cứu khoa học, ứng dụng công
nghệ bước đầu đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy đảng, chính quyền và phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế
– xã hội trên địa bàn Tỉnh. Các mô hình triển khai đều cho hiệu quả kinh tế cao; giúp
nông dân tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác, góp phần vào công cuộc
giảm nghèo; tạo điều kiện quan trọng nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn
cho cán bộ cơ sở; làm tiền đề cho công tác khuyến nông, khuyến ngư nhân rộng mô
hình ở cơ sở, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng
cường; nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong các cơ quan quản lý, nghiên cứu
giảng dạy, các doanh nghiệp tăng về số lượng và trình độ, bước đầu đáp ứng yêu cầu
phát triển ở một số lĩnh vực, ngành nghề trong điều kiện thực tiễn của đơn vị.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động khoa học và công nghệ tại tỉnh
Quảng Ninh còn một số hạn chế như:

3


- Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động đa lĩnh vực, diện rộng, đòi hỏi
có tính mới, tính tiên tiến, gắn liền với các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng, an ninh đòi hỏi người quản lý các cấp phải thường xuyên cập nhật được
thông tin tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, hoạt động cung cấp thông tin có chọn lọc còn
yếu, chưa sát với thực tiễn;
- Công tác đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất gắn liền
với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, đầu tư của xã hội. Nhà nước không thể quyết
định thay hoặc đầu tư cho doanh nghiệp, mà chỉ hỗ trợ để doanh nghiệp mạnh dạn đầu
tư. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn việc tự thực hiện nghiên cứu ứng dụng khoa học
và công nghệ của doanh nghiệp và hướng dẫn doanh nghiệp được hưởng các cơ chế,
chính sách ưu đãi khuyến khích chưa đồng bộ và thủ tục còn phức tạp, vì vậy chưa
khuyến khích doanh nghiệp thực hiện theo cách thức nghiên cứu ứng dụng khoa học

và công nghệ, mà thực hiện theo các hình thức khác thuận lợi hơn như các hợp đồng
kinh tế, dự án đầu tư thông thường.
Để đạt được những mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đặt ra, tỉnh Quảng Ninh cần tập
trung phấn đấu, sự vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp
và toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đổi mới phương thức lãnh đạo,
nâng cao hiệu quả đầu tư, đổi mới cơ chế quản lý, tạo môi trường thông thoáng trong
hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, trong đó cần chú trọng, ưu tiên trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ. Cụ thể:
Về nhân lực:
Các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố quan tâm công tác đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý khoa học và công nghệ các cấp,
hiện đại hóa, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ quản lý.
Tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích sự sáng tạo trong nhân dân, nhất là lớp
tr , đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Đẩy mạnh phong
trào thi đua lao động sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật trong các cơ sở y tế, giáo dục và đào tạo, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp. Nghiên cứu thành lập các câu lạc bộ khoa học kỹ thuật trong các cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp là nơi giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong nghiên cứu, ứng

4


dụng khoa học và công nghệ. Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động
trong tiếp nhận công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại
ngữ, công nghệ thông tin cho đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ tại các cơ sở y
tế, giáo dục.
Các doanh nghiệp nghiên cứu hình thành các bộ phận nghiên cứu và phát triển
tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác với các tổ chức khoa học và
công nghệ bên ngoài để từng bước làm chủ, thích nghi, cải tiến công nghệ nhập, tiến
tới tự chủ nghiên cứu, thiết kế công nghệ, sản phẩm mới; gắn hoạt động khoa học và

công nghệ với sản xuất và đời sống.
Về cơ sở vật chất:
Tiếp tục thực hiện Đề án tăng cường tiềm lực cho các tổ chức KH&CN trên địa
bàn tỉnh; Nâng cao năng lực phân tích, kiểm định và thử nghiệm lĩnh vực phân tích,
quan trắc môi trường, kiểm soát chất lượng các sản phẩm hàng hóa nhóm 2. Tiếp tục
triển khai Đề án nâng cao năng suất, chất lượng cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
đến năm 2020 đã được phê duyệt tại Quyết định số 480/QĐ-UBND ngày 11/7/2014 để
tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ.
Xây dựng đề án Trung tâm ươm tạo công nghệ và Doanh nghiệp KH&CN; hỗ
trợ hoạt động cho cơ sở ươm tạo công nghệ, doanh nghiệp KH&CN theo mô hình do
doanh nghiệp quản lý; Xây dựng vườn ươm khởi nghiệp về công nghệ thông tin để hỗ
trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực công nghệ thông tin.
Đầu tư kinh phí cho phát triển khoa học và công nghệ:
Dành tối thiểu 4

tổng chi thường xuyên ngân sách địa phương cho khoa học và

công nghệ; ưu tiên nguồn lực đầu tư một số lĩnh vực trọng tâm: dịch vụ du lịch, dịch
vụ thương mại, công nghệ sinh học, quản lý nhà nước, công nghệ thông tin, y tế, giáo
dục và đào tạo. Tăng cơ cấu chi cho sự nghiệp khoa học, công nghệ theo tỷ lệ bố trí
giữa nguồn vốn sự nghiệp khoa học và công nghệ/nguồn vốn đầu tư phát triển tại Quy
hoạch phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Cùng với ngân sách tỉnh, các địa phương chủ động bố trí kinh phí từ nguồn thu
ngân sách địa phương để triển khai hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn.
Phát huy hiệu quả Quỹ phát triển khoa học và công nghệ cấp tỉnh trong việc hỗ

5


trợ chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ; hoàn thiện, áp dụng ý tưởng, giải pháp

sáng tạo; làm vai trò cầu nối để hướng dẫn doanh nghiệp vay vốn Quỹ đổi mới công
nghệ quốc gia để thực hiện các dự án lớn. Các sở, ban, ngành, địa phương hướng dẫn
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quản lý thành lập Quỹ phát triển khoa học và công
nghệ để đầu tư phòng thí nghiệm, đào tạo, phát triển hoạt động khoa học và công nghệ
trong doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tăng cường bố trí kinh phí đầu tư cho phát
triển khoa học và công nghệ, đảm bảo tổng vốn đầu tư xã hội cho khoa học và công
nghệ đạt trên 2

GRDP.

Phát triển thị trường, đẩy mạnh hợp tác và mở rộng hội nhập quốc tế về khoa
học và công nghệ:
Duy trì và phát triển các sản phẩm đã được xây dựng thương hiệu. Đến năm
2020, hỗ trợ xác lập quyền sở hữu trí tuệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ trong
nước, quốc tế cho trên 300 đối tượng sở hữu công nghiệp, trong đó, tối thiểu có 5 sáng
chế, giải pháp hữu ích. Mỗi huyện, thị xã, thành phố xây dựng và phát triển thêm tối
thiểu 01 sản phẩm gắn với địa danh, loại hình dịch vụ có thế mạnh của địa phương.
Thực hiện các chương trình hợp tác trong nước và quốc tế về khoa học và công
nghệ; tạo điều kiện cho các nhà khoa học, chuyên gia, các đơn vị nghiên cứu có uy tín
(Viện nghiên cứu, tổ chức khoa học và công nghệ, trường Đại học ở Trung ương và
địa phương) trình diễn, giới thiệu sản phẩm khoa học và công nghệ mới; tham gia,
phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh. Nghiên cứu mở rộng
hợp tác đầu tư với doanh nghiệp, các tổ chức khoa học và công nghệ ở nước ngoài.
Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, giám sát về khoa học và công nghệ:
Thực hiện các cuộc thanh, kiểm tra chuyên đề hoặc đột xuất theo chỉ đạo của Bộ
Khoa học và Công nghệ và UBND tỉnh Quảng Ninh về các lĩnh vực khoa học và công
nghệ (tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa; an toàn bức xạ và hạt
nhân, sở hữu công nghiệp) đối với các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh
vực liên quan. Kiểm tra, giám sát việc ứng dụng kết quả các nhiệm vụ khoa học và

công nghệ có sử dụng vốn ngân sách.
Công tác tuyên truyền, thông tin khoa học và công nghệ:

6


Xây dựng các chuyên mục về khoa học và công nghệ trên Báo Quảng Ninh, Đài
Phát thành và Truyền hình tỉnh Quảng Ninh về các văn bản pháp luật, giới thiệu các
thành tựu khoa học và công nghệ, giải pháp, sáng tạo; tuyên truyền về công tác ứng
dụng, chuyển giao về khoa học và công nghệ.
Tổ chức các phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng tạo khoa học
và công nghệ trong các cơ quan, địa phương, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, sinh viên,
học sinh và các tầng lớp nhân dân.
Để tận dụng cơ hội hợp tác quốc tế phát triển KH&CN trong bối cảnh hội nhập
ngày càng sâu và rộng, rất cần có những chính sách quản lý khoa học hợp lý. Năm
2013, Quốc hội đã thông qua Luật KH&CN (thay thế Luật KH&CN năm 2000) để tạo
sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Những quy định về cơ chế tài chính và đầu tư
cho KH&CN cũng đã có bước thay đổi cơ bản. Về đầu tư từ NSNN cho KH&CN,
Luật KH&CN khẳng định rõ mức chi ngân sách hàng năm cho KHCN từ 2

trở lên và

tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ. Việc giao kinh
phí sẽ áp dụng cơ chế khoán, cơ chế Nhà nước đặt hàng và cơ chế Quỹ để triển khai
các nhiệm vụ khoa học công nghệ.
Do vậy, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước nói chung cũng như của tỉnh Quảng Ninh nói riêng, cần triển
khai đồng bộ nhiều giải pháp như về quản lý, nhân lực, tài chính, cơ chế, quy định
quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ,... Thiếu bất kỳ giải pháp nào cũng đồng
nghĩa với việc lĩnh vực khoa học và công nghệ của quốc gia, địa phương sẽ không phát

huy được tối đa hiệu quả. Chính vì lý do trên tác giả xin chọn vấn đề “Quản lý nhiệm
vụ khoa học và công nghệ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, việc nghiên cứu hoàn
thiện công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã được nghiên cứu rất nhiều,
ở các mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và
Công nghệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã được thành lập với nhiệm vụ chính là
nghiên cứu xây dựng các chiến lược, chính sách về phát triển khoa học và công nghệ
và quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Bên cạnh những nghiên cứu của Viện

7


Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, còn có rất nhiều các công trình
nghiên cứu nhằm đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ, quản lý nhiệm vụ khoa
học và công nghệ nói chung và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học nói riêng, như sau:
+ “Nghiên cứu cơ chế, biện pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát
triển sau nghiệm thu” – Nguyễn Lan Anh, 2004.
+ “Vấn đề gắn kết nghiên cứu với sản xuất hiện nay” – TS. Hoàng Xuân Long
(Tạp chí Cộng sản số 57 – 2004);
+ “Ứng dụng công nghệ vào sản xuất: Nghiên cứu phải theo thị trường” – TS.Vũ
Đình Nghĩa (Website ngày 13/11/2004);
+ “Nghiên cứu một số giải pháp thúc đẩy chuyển giao công nghệ ở địa phương”
– TS. Hoàng Xuân Long, 2006.
+ “Tác động của cơ chế, chính sách công đến việc khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư vào khoa học và công nghệ” – Nguyễn Việt Hoà, 2007.
- “Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách tài chính của Nhà nước đối với hoạt
động khoa học và công nghệ và hoạt động đổi mới (công nghệ )”- TS. Đặng Duy
Thịnh, Đề tài cấp bộ, Hà Nội, 2009.

- “Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương thời gian qua và
những định hướng cho thời gian tới”- TS. Hồ Ngọc Luật, Tạp chí chính sách và quản
lý KH&CN, số 1, Hà Nội, 2012.

Trong các nghiên cứu kể trên, những nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý
khoa học và công nghệ: đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực, đổi mới cơ chế tài chính, kế hoạch hóa hoạt động khoa học và công nghệ,
xây dựng thị trường khoa học và công nghệ đã được đề cập và phân tích từ các góc độ
khác nhau. Kết quả những nghiên cứu này đã từng bước làm sáng tỏ các vấn đề về
quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ và thúc đẩy quá trình đổi mới nó để đáp ứng
nhu cầu của thực tế.
Tuy nhiên đây là những nghiên cứu hoặc ở tầm vĩ mô, mang nặng tính lý thuyết
hoặc chưa có những nghiên cứu ứng dụng cụ thể về đẩy mạnh quản lý nhiệm vụ khoa

8


học và công nghệ phù hợp với điều kiện của tỉnh Quảng Ninh.
Trong thời gian qua, các nghiên cứu về đổi mới chính sách trong quản lý khoa
học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thực hiện rất hạn chế. Ở phạm vi
một địa phương, những vấn đề nghiên cứu về phương pháp luận thường ít được chú ý.
Những nghiên cứu liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ của Quảng Ninh
trong những năm gần đây có thể kể đến là:
+ “Điều tra, đánh giá và xây dựng cơ sở dữ liệu về trình độ công nghệ trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh” – Trần Mạnh Ẩm, 2006;
+ Năm 2007, tác giả Trần Văn Minh đã thực hiện luận văn thạc sỹ “Nghiên cứu
phương pháp xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ cấp tỉnh, áp dụng
cho tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006 ÷2020”;
+ Năm 2010, Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ đã chủ trì
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu chính sách hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ cho

các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế”;
+ Năm 2010, tác giả Trần Văn Minh đã chủ trì thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây
dựng Chợ công nghệ và thiết bị tỉnh Quảng Ninh trên mạng Internet”, đây cũng là một
phần trong nghiên cứu Luận văn tiến sỹ “Nghiên cứu phát triển thị trường công nghệ
cấp tỉnh, áp dụng cho tỉnh Quảng Ninh”.
Những nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở tập hợp các số liệu thực ở
Quảng Ninh, tuy nhiên nó cũng chỉ ở tầm vĩ mô hoặc chủ yếu nghiên cứu nhằm thúc
đẩy hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Những nội dung
liên quan đến hoạt động quản lý khoa học không nhiều và liên quan đến quản lý nhiệm
vụ khoa học và công nghệ lại càng ít.
Về vấn đề quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ, có thể kể đến các công trình
nghiên cứu xây dựng quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của các tỉnh,
thành phố trong cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Cao Bằng, Đà Nẵng… Những công
trình nghiên cứu này tương đối sát thực và gần gũi với hoạt động quản lý nhiệm vụ
khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng Ninh, tuy nhiên do đặc thù điều kiện tự nhiên,
kinh tế – xã hội khác nhau nên chỉ có thể là tài liệu tham khảo quý trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh

9


Quảng Ninh.
Qua những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài tỉnh đã đề cập ở
trên, có thể nói, đến nay, chưa có tác giả nào công bố các kết quả nghiên cứu về vấn đề
quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng Ninh.
Việc nghiên cứu quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ là nhiệm vụ
cấp bách và cần thiết. Ở nước ngoài, các quy định quản lý, triển khai nhiệm vụ khoa
học và công nghệ đã được chú trọng. Các nước phát triển về khoa học và công nghệ
như Mỹ, Ấn Độ, Singapor, Nhật Bản,... được coi là những nước đi tiên phong và đã
giành được nhiều thành công trong việc nghiên cứu, quản lý, ban hành và sử dụng hiệu

quả cơ chế chính sách về khoa học và công nghệ.
Ở Việt Nam, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật về
đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học vào trong các
hoạt động thực tiễn nhằm góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong đó
việc quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ là một trong những nội dung quan trọng
có tính chất quyết định đến sự thành công của các chính sách, cơ chế cũng như các
chương trình, đề án. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đang triển khai xây dựng và ban
hành các văn bản hướng dẫn để triển khai hoạt động khoa học và công nghệ theo Luật
Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Nghị định số 08 của Chính phủ.
Một số địa phương như Đà Nẵng, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hòa
Bình,... đã xây dựng những quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ để ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào đời sống và sản xuất, tạo ra những sản phẩm
mới, có giá trị kinh tế cao, đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, tại Quảng Ninh những quy định quản lý ban hành vẫn còn ở tầm vĩ
mô, chưa thực sự sát với thực tiễn, do đó việc giải quyết, hướng dẫn cũng như triển
khai thực hiện quản lý nhiệm vụ KH&CN trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn. Trong
khuôn khổ đề tài, tác giả xin lựa chọn vấn đề quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ
cấp tỉnh và cấp cơ sở có sử dụng ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ tỉnh để
nghiên cứu.

10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đề xuất một số giải pháp quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có sử dụng ngân sách từ nguồn sự nghiệp khoa học và
công nghệ tỉnh Quảng Ninh phục vụ cho phát triển khoa học và công nghệ nói riêng và
phát triển kinh tế xã hội nói chung trong giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến 2030.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Những vấn đề lý luận và thực tiễn chung về quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh
và cấp cơ sở.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ
sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến 2030.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (nghiên cứu hồi cứu giai đoạn 2011-2015 để làm
cơ sở cho việc xây dựng quy định quản lý nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2017-2020 và
định hướng đến 2030).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực tế: Khảo sát thực tế tại các địa phương và một số
đơn vị triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh và cấp cơ sở trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
- Nghiên cứu tài liệu: Các Nghị quyết và Chính sách của Đảng và Nhà nước về
KH&CN; Cơ sở dữ liệu thống kê về kinh tế, hoạt động khoa học của Việt Nam và một
số tỉnh thành cũng như Quảng Ninh về phát triển KH&CN.
- Phương pháp phân tích, so sánh.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các nhà quản lý.

11


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa các lý luận về quy định quản lý nhiệm vụ khoa

học và công nghệ phục vụ cho công tác quản lý và triển khai các nhiệm vụ khoa học
và công nghệ khác liên quan.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đối với nhà quản lý: Là tài liệu tham khảo hữu ích để các nhà quản lý cụ thể
hóa các chính sách cho việc quản lý nhiệm vụ KH&CN phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
+ Đối với người lao động: Là tài liệu tham khảo hữu ích để triển khai thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cũng như cơ chế, chính sách liên quan đến lĩnh vực
của mình, phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
7. Cơ cấu của luận văn
Toàn bộ nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương, gồm có 6 hình và
4 bảng. Cụ thể:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn chung về quản lý nhiệm vụ khoa
học và công nghệ;
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015;
- Chương 3: Đề xuất một số giải pháp quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2030.

12


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG
VỀ QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Chương này sẽ trình bày một cách có chọn lọc những vấn đề lý luận cũng như
các quy định của nhà nước về quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Đây là những
vấn đề lý thuyết cơ bản về đối tượng nghiên cứu, từ đó có thể hệ thống hóa và làm rõ
đối tượng nghiên cứu, làm cơ sở cho việc đánh giá và đề xuất các vấn đề về quản lý
nhiệm vụ KH&CN trong những chương tiếp theo.

1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khoa học và công nghệ (KH&CN)
Theo UNESCO, khoa học là một tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư
duy về các quy luật khách quan, về sự tồn tại và phát triển của chúng trên cơ sở thực tiễn.
Các lĩnh vực KH&CN bao gồm: Khoa học tự nhiên; Khoa học xã hội, Nhân văn; Khoa
học kỹ thuật và công nghệ; Khoa học Nông nghiệp; Khoa học Y dược. Theo Luật Khoa
học và Công nghệ của Việt Nam (2013), khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy
luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo ESCAP: Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và thông tin. Theo Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam (2017),
công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết có kèm hoặc không kèm công cụ, phương
tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Các thành phần công nghệ gồm các
yếu tố: Kỹ thuật (Technoware), Con người (Humanware), Thông tin (Inforware) và Tổ
chức (Organware).
1.1.2. Hoạt động khoa học và công nghệ
Theo UNESCO và OECD, hoạt động KH&CN là hoạt động có hệ thống, có liên
quan chặt chẽ đến việc tạo ra, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức KH&CN
vào đời sống, xã hội. Hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động giáo dục và đào tạo,
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT) và dịch vụ KH&CN. Theo
nghĩa hẹp hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động NC&PT và dịch vụ KH&CN.

13


1.1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Theo UNESCO và OECD, hoạt động NCKH&PTCN là tập hợp các hoạt động có
hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức bao gồm các kiến thức có liên
quan đến con người, tự nhiên và xã hội, nhằm sử dụng các kiến thức mới để để tạo ra
những áp dụng mới. Hoạt động NCKH&PTCN bao gồm hoạt động nghiên cứu khoa
học và hoạt động triển khai thực nghiệm.

Luật Khoa học và Công nghệ (2013) đưa ra quy định, hoạt động KH&CN bao
gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và
công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các
hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
1.1.4. Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH)
Theo UNESCO và OECD: NCKH có thể xác định là tập hợp toàn bộ các hoạt
động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức khoa học và nhằm áp
dụng chúng vào thực tiễn. NCKH bao gồm hai hoạt động kế tiếp nhau: Nghiên cứu cơ
bản (NCCB) và Nghiên cứu ứng dụng (NCƯD). Trong đó, NCCB có thể xác định là
bất kỳ công tác thực nghiệm hoặc lý thuyết nào được tiến hành nhằm đạt được những
kiến thức mới về các hiện tượng, thực tế quan sát được mà chưa có một NCƯD hoặc
vận dụng đặc biệt nào. NCƯD được xác định như là một nghiên cứu đầu tiên được tiến
hành nhằm đạt được những kiến thức mới nhưng chủ yếu có một mục đích hoặc một
mục tiêu thực tiễn đặc thù.
1.1.5. Hoạt động triển khai thực nghiệm (TKTN)
Theo UNESCO và OECD, triển khai thực nghiệm có thể xác định như là một
hoạt động có hệ thống nhằm vận dụng các kiến thức NCKH đạt được và/hoặc kinh
nghiệm thực tiễn có được để tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới, phương pháp tiến
hành mới, hệ thống dịch vụ mới và nhằm cơ bản hoàn thiện những gì đã hoặc đang sử
dụng hoặc sản xuất. Hoạt động triển khai thực nghiệm gồm: chế thử đầu tiên; pilốt; sản
xuất thử nghiệm,..
1.1.6. Hoạt động sản xuất thử nghiệm
Theo Luật KH&CN (2013), sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả
triển khai thực nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới

14


trước khi đưa vào sản xuất và đời sống.
1.1.7. Hoạt động phát triển công nghệ

Theo Luật KH&CN (2013), phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản
xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới.
1.1.8. Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ (DVKH&CN)
Theo UNESCO, DVKH&CN có thể được xác định như là tập hợp tất cả các hoạt
động liên quan đến hoạt động NCKH&PTCN và góp phần vào việc tạo ra, truyền bá
và áp dụng các kiến thức KH&CN.
Theo Luật KH&CN (2013), DVKH&CN là các hoạt động phục vụ nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng
dụng tri thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn.
1.1.9. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Nhiệm vụ KH&CN là những vấn đề KH&CN cần được giải quyết, được tổ chức
thực hiện dưới hình thức Đề tài, Dự án sản xuất thử nghiệm, Chương trình do một người
hoặc một nhóm người thực hiện. Mỗi hình thức có mục đích và công năng khác nhau.
Đề tài KH&CN là nhiệm vụ KH&CN có nội dung chủ yếu là hoạt động khám
phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư
duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn, bao gồm đề tài nghiên cứu cơ
bản, đề tài nghiên cứu ứng dụng, đề tài triển khai thực nghiệm hoặc kết hợp nghiên
cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm.
Dự án sản xuất thử nghiệm là nhiệm vụ KH&CN nhằm ứng dụng kết quả
NC&PT để thử nghiệm các giải pháp, phương pháp, mô hình quản lý kinh tế - xã hội
hoặc sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước
khi đưa vào sản xuất và đời sống.
Dự án KH&CN là nhiệm vụ KH&CN giải quyết các vấn đề KH&CN chủ yếu
phục vụ việc sản xuất một sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm trọng điểm, chủ lực có tác
động nâng cao trình độ công nghệ của một ngành, một lĩnh vực và có ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được triển khai dưới hình thức đề tài

15



KH&CN, dự án sản xuất thử nghiệm và dự án đầu tư KH&CN có mục tiêu, nội dung
gắn kết hữu cơ, đồng bộ và được tiến hành trong một thời gian nhất định.
Chương trình KH&CN là nhiệm vụ KH&CN có mục tiêu chung giải quyết các
vấn đề KH&CN phục vụ phát triển và ứng dụng KH&CN trung hạn hoặc dài hạn được
triển khai dưới hình thức tập hợp các đề tài KH&CN, dự án sản xuất thử nghiệm, dự
án khoa học và công nghệ.
Các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định trong Luật
khoa học và công nghệ, được tổ chức dưới hình thức chương trình, đề tài, dự án và các
hình thức khác. Tuy nhiên, hai hình thức nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà
nước thường hay được sử dụng nhất, kể cả các nhiệm vụ KH&CN thuộc chương trình
KH&CN là đề tài và dự án sản xuất thử nghiệm.
Nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước cấp tỉnh là nhiệm vụ KH&CN
đáp ứng các tiêu chí sau đây:
- Có tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi tỉnh;
- Giải quyết các vấn đề KH&CN trong phạm vi tỉnh;
- Có sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp KH&CN của tỉnh.
Nhiệm KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh phê duyệt và ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ, bao gồm:
- Chương trình khoa học và công nghệ cấp tỉnh;
- Đề tài khoa học và công nghệ cấp tỉnh;
- Dự án sản xuất thử nghiệm cấp tỉnh;
- Dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh.
1.1.10. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh
Là nhiệm vụ KH&CN giải quyết những vấn đề KH&CN của Tỉnh do UBND tỉnh
phê duyệt. [18, Điều 2].
1.1.11. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp huyện
Là nhiệm vụ KH&CN giải quyết các vấn đề KH&CN của sở, ban, ngành, tổ
chức, huyện, thị xã, thành phố (sau đây gọi tắt là ngành/ huyện) do thủ trưởng ngành/

huyện ký hợp đồng thực hiện. [18, Điều 2].

16


1.1.12. Chương trình khoa học và công nghệ
Chương trình KH&CN là nhiệm vụ KH&CN có mục tiêu chung giải quyết các
vấn đề KH&CN phục vụ phát triển và ứng dụng KH&CN trung hạn hoặc dài hạn được
triển khai dưới hình thức tập hợp các đề tài KH&CN, dự án sản xuất thử nghiệm, dự
án KH&CN. [11, Điều 3].
1.1.13. Nhân lực khoa học công nghệ
- Theo cuốn KH&CN Việt Nam 2003 và cuốn “ Cẩm nang về đo lường nguồn
nhân lực KH&CN” của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), thì nhân lực
KH&CN bao gồm những người đáp ứng được một trong những điều kiện sau đây:
1) Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và làm việc trong một ngành KH&CN;
2) Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành
KH&CN nào;
3) Chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng làm một công việc trong một lĩnh
vực KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương.
Đây chính là khái niệm nhân lực KH&CN theo nghĩa rộng. Theo đó, có thể hiểu
nhân lực KH&CN bao gồm cả những người đã tốt nghiệp đại học nhưng không làm
việc trong lĩnh vực KH&CN. Khái niệm này dường như quá rộng để thể hiện nguồn
nhân lực hoạt động KH&CN của một quốc gia.
Do vậy, các nước thường sử dụng khái niệm nhân lực nghiên cứu phát triển
(NCPT), hay còn gọi là R&D (research and development), để thể hiện lực lượng lao
động KH&CN của mình.
- Theo quan điểm của Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO), nhân lực khoa học công nghệ là tổng số nhân lực có trình độ hoặc số nhân
lực có trình độ hiện đang công tác hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động khoa học
và kỹ thuật trong một tổ chức hoặc đơn vị, và được trả lương theo quy định cho các

dịch vụ của họ. Nhóm này gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhóm
nhân viên hỗ trợ.
1.2. Khung lý luận quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1.2.1. Xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ có thể qua các phương thức sau:

17


- Dựa theo kế hoạch khoa học và công nghệ 5 năm, hằng năm của trung ương,
địa phương, từ đó các tổ chức, cá nhân có thể đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ
để triển khai.
- Dựa theo chủ đề, vấn đề nghiên cứu: chủ đề, vấn đề nghiên cứu đó có thể nằm
trong, được xác định bởi chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của địa phương,
của đất nước, từ đó lựa chọn nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù hợp.
- Thông qua các đề xuất tự do của các tổ chức, cá nhân.Ví dụ: đề xuất cho cấp ủy,
chính quyền địa phương, quỹ phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ,…
Từ đó các cơ quan quản lý, quỹ thành lập Hội đồng lựa chọn nhiệm vụ khoa học và
công nghệ phù hợp với các tiêu chí.
1.2.2. Tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Sau khi xác định nhiệm vụ, việc tiến hành các bước triển khai thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ. Các bước triển khai chính như sau:
- Phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ và cấp kinh phí triển khai thực hiện.
- Định kỳ đơn vị chủ trì, chủ nhiệm nhiệm vụ báo cáo tình hình triển khai thực
hiện nhiệm vụ về nội dung và kinh phí với cơ quan quản lý nhiệm vụ khoa học và
công nghệ, từ đó cơ quan quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ có thể phê duyệt,
cấp tiếp kinh phí để triển khai thực hiện nhiệm vụ, thay đổi hợp đồng hoặc chấm dứt
hợp đồng thực hiện nhiệm vụ.
1.2.3. Nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ là bước để đánh giá kết quả triển

khai thực hiện của một nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Đơn vị chủ trì lập báo cáo
kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, thành lập Hội đồng cơ sở đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ, sau đó nộp về cơ quan quản lý nhiệm vụ khoa học và công
nghệ. Cơ quan quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ thành lập Hội đồng đánh giá
về nội dung, tài chính của nhiệm vụ, căn cứ kết quả đánh giá cơ quan quản lý có thể
thanh lý hợp đồng, xử lý sai phạm theo quy định.
1.3. Kinh nghiệm thế giới và trong nƣớc
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của nước ngoài:
1.3.1.1. Kinh nghiệm của CHLB Đức

18


Nghiên cứu kinh nghiệm của CHLB Đức và các nước phát triển cho thấy có sự
tương đồng với các lý luận và thực tiễn quản lý nhiệm vụ KH&CN nêu trên (nội dung
và các bước tổ chức thực hiện nhiệm vụ). Tuy nhiên có sự khác biệt nhất định trong
quá trình quản lý nhiệm vụ KH&CN. Cụ thể là:
1. Tại khâu xác định nhiệm vụ, các nước này không tiến hành xác định Danh mục
các đề tài nghiên cứu trước khi thực hiện tuyển chọn hoặc giao nhiệm vụ mà tiến hành
xác định các vấn đề/chủ đề cần nghiên cứu (trong khuôn khổ một chương trình
KH&CN) trước khi thông báo rộng rãi cho các nhà khoa học và trên cơ sở đó các nhà
khoa học tự xác định các tên các đề tài nghiên cứu cho phù hợp với Vấn đề/Chủ đề
nghiên cứu đó và nộp Thuyết minh đề cương cho cơ quan quản lý KH&CN.
2. Trong Thuyết minh đề cương nghiên cứu, ngoài các chi khác, công lao
động/thù lao cho các nhà khoa học được dự toán theo người/tháng lương, không dự
toán theo chuyên đề như Việt Nam.
3. Mỗi một Vấn đề/Chủ đề nghiên cứu đều được phân bổ từ đầu một khoản kinh
phí nhất định. Các đề tài dự tuyển được Hội đồng đánh giá xếp hạng từ cao xuống thấp
và kinh phí được cấp cho các đề tài có điểm từ cao xuống thấp cho đến khi hết kinh
phí được phân bổ.

4. Khi đề tài kết thúc thì không phải bảo vệ trước Hội đồng nghiệm thu mà phải
công bố kết quả dưới dạng các công trình khoa học hoặc các bài báo khoa học để xã
hội được thụ hưởng kết quả đó, tức là mọi người (nhà khoa học, nhà chính khách, nhà
doanh nghiệp,…) có thể tiếp nhận/cận tri thức đó, vận dụng kết quả đó vào phục vụ
công việc của mình.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Kinh nghiệm nổi bật của Nhật Bản đó là tuyển chọn cá nhân và tổ chức chủ trì
thực hiện đề tài. Việc này ở Nhật được thực hiện một cách bài bản và có truyền thống
quy củ. Tùy theo loại đề tài để áp quy trình tuyển chọn.
Thứ nhất, đối với các đề tài thuộc chương trình mục tiêu, hay đề tài lớn do các
tập thể tiến hành, được tài trợ từ ngân sách đều phải thông qua tuyển chọn. Hai cơ
quan lớn thực hiện tài trợ cho nghiên cứu từ ngân sách chính phủ ở Nhật Bản là Bộ
Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, KH&CN (MEXT) và Quỹ Khuyến khích phát triển

19


KH&CN Nhật Bản (Japan Society for Promotion of Science and Technology-JSPS).
Các đề xuất đề tài thuộc chương trình (kế hoạch 6 năm) được nộp cho bộ phận
quản lý (nơi cấp tiền, thường là Bộ MEXT hoặc Hội Khuyến khích khoa học của Nhật
- JSPS). Có hội đồng khoa học theo nhiệm kỳ 2 năm. Hội đồng này có trách nhiệm
phản biện và tuyển chọn đề xuất, theo quy định chung của Nhật Bản (JSPS). Tùy từng
lĩnh vực của đề tài để cử người trong Hội đồng phản biện và xét duyệt đề xuất nghiên
cứu. Hội đồng chấm điểm để lấy kết quả tuyển chọn. Đối với những lĩnh vực chuyên
sâu, hội đồng có thể mời chuyên gia bên ngoài Hội đồng tư vấn phản biện nhưng
không có quyền bỏ phiếu, cho điểm.
Thứ hai, đối với đề tài cá nhân loại này được thực hiện chủ yếu trong trường đại
học. cá nhân tự đăng ký, nộp đề xuất (đề cương) trong đó có giải trình sự cần thiết
nghiên cứu, nội dung, cách thức tiến hành, tiến độ, dự kiến công bố (ở đâu) và nhu cầu
kinh phí. Trường tổng hợp các đề xuất và xét chọn. Việc công bố trên tạp chí nổi tiếng

hay hội nghị cấp cao được đánh giá cao khi xem xét đề xuất nghiên cứu. Trình độ của
người nghiên cứu khác nhau cũng được đánh giá khác nhau. Gần đây, một tiêu chí để
xem xét trong xét chọn đó là đề xuất nghiên cứu gắn với nhu cầu xã hội. Các sản
phẩm của đề tài để xem xét trong xét chọn thường là ấn phẩm, đăng tải, công bố kết
quả tại hội nghị.
1.3.1.3. Kinh nghiệm Trung Quốc
Quản lý đề tài ở Trung Quốc gồm 3 giai đoạn: giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai
đoạn kết thúc. Giai đoạn đầu gồm: lập kế hoạch, nộp đơn, rà soát và thẩm định của
chuyên gia, thẩm định tài chính và phê duyệt đơn xin tài trợ. Giai đoạn giữa gồm rà soát
hàng năm, quản lý và giám sát tài chính. Giai đoạn cuối chủ yếu là đánh giá, rà soát cuối
cùng gồm: tổ chức hội thảo, đánh giá của chuyên gia (thông qua trực tiếp trao đổi hoặc
gửi nhận xét phản biện); xuất bản kết quả nghiên cứu chính và quyết toán.
Các đề tài nghiên cứu khi kết thúc được đánh giá trên hai phương diện: thứ nhất,
tiêu chí chất lượng khoa học của cộng đồng nghiên cứu trong lĩnh vực của đề tài như:
mức độ về tính mới, khám phá, độ chín, sâu sắc, giá trị học thuật và các tác động xã
hội mong đợi. Phương diện thứ hai, mục tiêu mong đợi và đáp ứng mong muốn của
người sử dụng đã thỏa thuận trong hợp đồng nghiên cứu.

20


×