Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Đổi mới quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.46 KB, 111 trang )


1
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU 4
ĐẶT VẤN ĐỀ 5
1. Lý do chọn đề tài: 5
2. Lịch sử nghiên cứu: 6
3. Mục tiêu nghiên cứu: 8
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: 8
5. Câu hỏi nghiên cứu: 8
6. Giả thuyết nghiên cứu: 8
7. Phương pháp nghiên cứu: 10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ KH&CN VÀ HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGÀNH BHXH 11
1.1. Một số khái niệm chung về nhiệm vụ KH&CN. 11
1.1.1. Khoa học. 11
1.1.2. Nhiệm vụ KH&CN: 13
1.1.3. Hoạt động KH&CN. 14
1.1.4. Hoạt động khoa học của ngành BHXH Việt Nam. 14
1.1.5. Quản lý khoa học (quản lý nhà nước và quản lý cấp cơ sở) 15
1.1.6. Nghiên cứu khoa học. 17
1.1.7. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển 18
1.1.8. Ứng dụng khoa học. 19
1.1.9. Hiệu quả hoạt động KH&CN 19
1.2. Các quy định về hoạt động khoa học trong ngành BHXH. 21
1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học về lĩnh vực BHXH, BHYT 22
1.3.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học về BHXH 23
1.3.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học về BHYT 24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KH&CN CỦA
NGÀNH BHXH VIỆT NAM 27


2.1. Công tác quản lý và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học của ngành BHXH.
27
2.1.1. Môi trường pháp lý trong quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học 27
2.1.2. Tổ chức thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học: 28
2.2. Thực trạng thực hiện công tác nghiên cứu khoa học 42
2.2.1. Nghiên cứu khoa học mang tính lý luận 42
2.2. 2. Nghiên cứu khoa học mang tính ứng dụng. 43

2
2.2.3. Liên kết nghiên cứu giữa các đơn vị trong và ngoài ngành BHXH . 47
2.4. Thực trạng ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học 51
2.4.1. Cung cấp luận cứ để xây dựng văn bản pháp quy, văn bản tổ chức thực
hiện: 51
2.4.2. Ứng dụng trong thực tiễn hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của ngành 52
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KH&CN
CỦA NGÀNH BHXH VIỆT NAM 54
3.1. Những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN ngành BHXH
Việt Nam. 54
3.1.1. Cơ sở pháp lý 54
3.1.2. Nhân lực KH&CN 58
3.1.3. Tổ chức hoạt động KH&CN 60
3.1.4. Nguồn kinh phí 61
3.1.5. Thông tin KH&CN 61
3.2. Một số giải pháp hỗ trợ. 62
3.2.1. Đổi mới về định hướng nghiên cứu và xét duyệt các đề tài nghiên cứu 62
3.2.2. Đổi mới công tác quản lý và nghiên cứu khoa học 65
3.2.3. Đổi mới công tác ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học 68
3.2.4. Đổi mới công tác đào tạo nâng cao năng lực cán bộ quản lý và nghiên cứu
khoa học. 69
3.2.5. Đổi mới công tác hợp tác nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước 70

KẾT LUẬN 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC 76


3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH - Bảo hiểm xã hội
BHYT - Bảo hiểm y tế
HQ - Hiệu quả
HQKT - Hiệu quả kinh tế
ILO - Tổ chức Lao động quốc tế
KH&CN - Khoa học và công nghệ
NCKH - Nghiên cứu khoa học
TNLĐ-BNN - Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
WHO - Tổ chức Y thế thế giới
WB - Ngân hàng thế giới

4
DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1. Tổng hợp ý kiến tại phiếu phỏng vấn về công tác nghiên cứu
khoa học ngành BHXH.
Bảng 2.2. Số lượng tham gia NCKH ở các Ban chuyên môn từ năm 1996
đến 2010.
Bảng 2.3. BHXH các tỉnh, thành phố đã tham gia NCKH từ năm 1996
đến 2010.
Bảng 2.4. Kinh phí dành cho quản lý và nghiên cứu khoa học
Bảng 2.5. Thống kê một số ứng dụng kết quả nghiên cứu trong xây dựng

văn bản
Bảng 2.6. Thống kê một số ứng dụng kết quả nghiên cứu trong hoạt động
nghiệp vụ của ngành.

5
ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài:
Ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập năm 1995 trên cơ sở tổ
chức lại các đơn vị thực hiện chính sách BHXH của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính. Ngay từ đầu
những ngày mới thành lập, Lãnh đạo BHXH Việt Nam đã rất quan tâm đến công
tác khoa học. Sau khi có Quyết định số 1147/QĐ-KH ngày 1 tháng 6 năm 1996
của Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học -
Công nghệ) về việc công nhận BHXH Việt Nam là đầu mối kế hoạch khoa học
công nghệ, BHXH Việt Nam đã tổ chức ngay các hoạt động khoa học. Lãnh đạo
BHXH Việt Nam đã xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
ngành, nhằm cung cấp những luận cứ khoa học để hoàn thiện chính sách, chế độ
BHXH, BHYT. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu khoa học còn giúp cho
ngành BHXH Việt Nam tìm ra được những phương pháp quản lý và tổ chức
thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, BHYT có hiệu quả cao, bảo đảm quyền
lợi của người lao động tham gia BHXH, BHYT góp phần đảm bảo an sinh xã
hội.
Từ năm 1996 đến nay, BHXH Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu một số
lượng lớn đề tài, chuyên đề khoa học. Qui trình quản lý, tổ chức nghiên cứu
được tiến hành khá chặt chẽ, khoa học theo qui định của Bộ Khoa học Công
nghệ. Hầu hết các đề tài đều được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm đúng tiến độ
thời gian theo qui định. Tính đến hết năm 2009, BHXH Việt Nam đã tổ chức
nghiệm thu được trên 150 đề tài, chuyên đề khoa học (đề tài cấp nhà nước, cấp
ngành và cấp viện). Trong đó có một số các đề tài nghiên cứu về lý luận BHXH,

còn lại chủ yếu là các đề tài ứng dụng và phân theo các lĩnh vực chuyên môn
như: quản lý quĩ; quản lý thu; chi; thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT

6
và các lĩnh vực khác. Công tác tổ chức nghiệm thu được tiến hành khá chặt chẽ,
nghiêm túc, khách quan, cơ bản phản ánh đúng chất lượng nghiên cứu. Các đề
tài, chuyên đề sau khi được nghiệm thu đã được in thành kỷ yếu, nộp lưu trữ tại
Trung tâm Thông tin tư liệu, Bộ Khoa học - Công nghệ. Một số kiến nghị, giải
pháp rút ra từ các đề tài, chuyên đề đã được ứng dụng vào thực tế công tác
chuyên môn của ngành và mang lại những hiệu quả nhất định.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như đã nêu trên, trong thực tế hoạt
động khoa học của ngành vẫn còn nhiều hạn chế về quản lý nghiên cứu, năng
lực nghiên cứu, nguồn cán bộ nghiên cứu, cơ chế khuyến khích, cơ chế phối hợp
với các đơn vị trong và ngoài ngành, hợp tác quốc tế và triển khai ứng dụng kết
quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn.
Mặt khác, các đề tài chủ yếu được thực hiện bởi các cán bộ ở cơ quan
Trung ương, trong khi tại BHXH địa phương, số cán bộ có khả năng nghiên cứu
cũng rất nhiều, hơn nữa do thường xuyên phải tiếp xúc, giải quyết các chế độ
nên cán bộ trực tiếp làm nghiệp vụ dễ phát hiện những bất cập, vướng mắc trong
chính sách và tổ chức thực hiện. Nếu được tập huấn về công tác nghiên cứu
khoa học, những vướng mắc trong chính sách và tổ chức thực hiện có thể được
nghiên cứu giải quyết thông qua các đề tài, đề án. Mặt khác, từ công tác nghiên
cứu khoa học sẽ đào tạo tại chỗ lực lượng cán bộ nghiên cứu, tạo nguồn nhân
lực cho hoạt động khoa học nói riêng và phát triển hoạt động khoa học của
ngành nói chung.
Từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu là: "Đổi mới quản
lý nhiệm vụ khoa học & công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoa
học & công nghệ ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu:
Mặc dù thực hiện hoạt động KH&CN từ năm 1996 đến nay, nhưng trên

thực tế nhưng công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghiên cứu lý luận về

7
BHXH, BHYT và những bất cập trong chính sách và tổ chức thực hiện nhưng
công trình nghiên cứu về công tác khoa học ở ngành BHXH chỉ có 1 chuyên đề
cấp ngành được nghiên cứu năm 2003. Thời gian này chưa sáp nhập BHYT Việt
Nam vào BHXH Việt Nam. Nên chuyên đề này mới chỉ đề cập đến công tác
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực BHXH. Một số công trình nghiên cứu có
liên quan:
- Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2020, năm 1999, TS. Nguyễn Huy Ban, nguyên Tổng giám đốc BHXH
Việt Nam.
- Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học ngành
BHXH Việt Nam, năm 2003, TS. Bùi Văn Hồng, nguyên Phó Viện trưởng Viện
khoa học BHXH.
- Cơ sở khoa học để xây dựng qui trình đào tạo phát triển ngồn nhân lực
ngành BHXH Việt Nam, năm 2003, ThS. Trần Xuân Vinh, nguyên Hiệu trưởng
trường Đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ và đào tạo đội
ngũ cán bộ ngành BHXH Việt Nam, năm 2003, TS. Nguyễn Kim Thái, nguyên
Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ BHXH Việt Nam.
- Xây dựng chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020,
năm 2006, TS. Dương Xuân Triệu, Viện trưởng Viện khoa học BHXH Việt
Nam.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ nghiệp vụ BHXH cấp
quận, huyện, năm 2007, ThS. Trần Xuân Vinh, nguyên Hiệu trưởng trường Đào
tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH.
- Xây dựng khung chương trình và biên soạn giáo trình đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ cho các nhóm cán bộ, công chức ngành BHXH, năm 2009, ThS. Lưu
Viết Tĩnh, Hiệu trưởng trường Đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH.


8
3. Mục tiêu nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý, nghiên cứu và ứng dụng các kết
quả nghiên cứu khoa học của ngành BHXH Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động KH&CN,
như chất lượng nghiên cứu khoa học và khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu
vào thực tiễn.
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học & công
nghệ của ngành BHXH Việt Nam (hoạt động quản lý và nghiên cứu khoa học
trong ngành BHXH)
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Hoạt động quản lý và nghiên cứu khoa học ngành BHXH từ năm 1996
đến nay.
- Các quy định và tổ chức thực hiện trong quản lý và nghiên cứu khoa học
của ngành BHXH.
5. Câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng thực hiện nhiệm vụ KH&CN ngành BHXH Việt Nam như
thế nào (Giới hạn trong công tác quản lý, nghiên cứu và ứng dụng khoa học
ngành BHXH Việt Nam)?
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động khoa học & công
nghệ ngành BHXH Việt Nam
- Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học & công nghệ
ngành BHXH Việt Nam.
6. Giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết 1: Đánh giá hoạt động khoa học theo nhiệm vụ KH&CN
của ngành BHXH Việt Nam có những mặt ưu điểm và hạn chế, nguyên
nhân chủ yếu là:

9

- Nguồn cán bộ nghiên cứu: tập trung chủ yếu vào đội ngũ lãnh đạo ở cấp
Trung ương và tỉnh, thành phố lớn, số chuyên viên làm nghiên cứu ít, cấp quận
huyện càng ít hơn.
- Năng lực nghiên cứu: Hạn chế vì cán bộ nghiên cứu không được hướng
dẫn kỹ năng nghiên cứu khoa học, cách phát hiện và giải quyết vấn đề phiến
diện, chỉ mang tính chuyên môn, nghiệp vụ, chưa mang ý nghĩa khoa học.
- Cơ chế phối hợp: Ngành BHXH Việt Nam có liên quan mật thiết với Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế về chức năng nhiệm vụ nhưng cơ
chế phối hợp chưa có hoặc chưa rõ ràng. Có những công trình khoa học cần có
sự phối hợp giữa các bên để kết quả nghiên cứu khách quan và tránh trùng lặp.
Nhưng việc phối hợp này không được thực hiện thường xuyên, đôi khi chỉ là sự
phối hợp cá nhân mà không phải là sự liên kết chính thống giữa các cơ quan
chức năng.
- Cơ chế khuyến khích: chưa có, hoặc thể hiện không rõ ràng trong qui
định của ngành, chưa thực sự có sự tôn vinh trong hoạt động nghiên cứu khoa
học.
- Qui trình quản lý nghiên cứu: chưa đầy đủ, tính pháp lý chưa cao, giải
quyết công việc chưa thực sự hiệu quả.
- Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học: chưa được chủ động trong
việc hợp tác quốc tế, tìm nguồn tài trợ cho nghiên cứu khoa học.
- Công tác ứng dụng kết quả nghiên cứu: Chưa có qui trình cho việc ứng
dụng. Các kết quả nghiên cứu phần lớn được lưu giữ làm tài liệu nghiên cứu.
Một số ít những kết quả nghiên cứu được thể chế thành những văn bản hướng
dẫn nghiệp vụ của ngành.
Giải thuyết 2: Để nâng cao chất lượng hoạt động khoa học & công
nghệ ngành BHXH Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:

10
- Đổi mới công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN
+ Xây dựng qui trình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, qui định rõ

các bước trong nghiên cứu khoa học.
+ Xây dựng qui trình trong công tác ứng dụng kết quả nghiên cứu.
- Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động KH&CN ngành:
+ Xây dựng tài liệu tập huấn công tác nghiên cứu khoa học.
+ Tổ chức tập huấn cho cán bộ làm công tác quản lý, nghiên cứu.
- Giải pháp hợp tác trong hoạt động khoa học với các tổ chức trong và
ngoài nước.
7. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu các văn bản, tài liệu quy định, hướng dẫn hoạt động khoa
học nói chung và của ngành BHXH Việt Nam.
- Tổng hợp hoạt động khoa học trong toàn ngành BHXH từ trung ương
đến 64 tỉnh, thành phố từ năm 1996 đến nay.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá.
- Phỏng vấn chuyên gia.

11
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ KH&CN VÀ HOẠT
ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGÀNH BHXH
1.1. Một số khái niệm chung về nhiệm vụ KH&CN.
1.1.1. Khoa học.
Chúng ta hãy cùng xem xét khái niệm “khoa học” từ các nguồn tư liệu khác
nhau.
Từ điển Larousse (2002) của Pháp định nghĩa: “Khoa học là một tập hợp tri
thức đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm về các sự kiện, sự vật và hiện tượng
tuân theo một quy luật xác định " [14, trg 1] .
Từ điển Triết học của Liên Xô (bản tiếng Việt, 1975) định nghĩa: “Khoa học
là lĩnh vực hoạt động nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên,
xã hội và tư duy bao gồm tất cả những điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất
này” [14, trg 1].
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1986) định nghĩa: “Khoa học là

lĩnh vực hoạt động của con người, có chức năng xử lý và hệ thống hóa về mặt lý
thuyết các tri thức khách quan”, “Là một trong những hình thái ý thức xã hội, bao
gồm trong đó cả những hoạt động nhằm thu nhận các kiến thức mới, và cả những
kết quả của các hoạt động đó” [14, trg 1].
Từ điển MacMillan English Dictionary for Advanced Learners (2006) định
nghĩa: “Khoa học là một hoạt động nghiên cứu và kiến thức về thế giới vật lý và
hành vi của nó, dựa trên các thực nghiệm và các sự kiện được kiểm chứng và được
tổ chức thành hệ thống”. Tiếp theo định nghĩa này, trong từ điển MacMillan tách ra
hai từ mục: (1) Khoa học là một lĩnh vực nghiên cứu (an area of study) sử dụng các
phương pháp khoa học, và (2) Khoa học là một chủ đề nghiên cứu (a subject),
chẳng hạn, vật lý học, hóa học [14, trg 1].
Từ điển Cobuild Learner’s Dictionary (2001) định nghĩa: “Khoa học là một
study về giới tự nhiên và hành vi của giới tự nhiên”, đồng thời cũng đưa ra định

12
nghĩa thứ hai: “Khoa học là những tri thức đạt được từ công việc nghiên cứu”. Còn
study thì được định nghĩa là một “activities of studying”, nghĩa là một loại hoạt
động [14, trg 1].
Từ điển Hutchinson Dictionary of Ideas (1994) định nghĩa: Khoa học là
“any systematic field of study”, nghĩa là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống và
“nhằm sản xuất ra (to produce) các tri thức” [14, trg 1].
Từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện (1994) định nghĩa: “Khoa học là
một thiết chế xã hội” (Nguyễn Khắc Viện gọi là thể chế xã hội). Định nghĩa này
dựa trên nghiên cứu của một nhà nghiên cứu lịch sử khoa học người Mỹ, D.J. Price
từ năm 1972, [14, trg 1].
Qua các từ điển được tra cứu, chúng ta thấy, về cơ bản có 4 định nghĩa về
khoa học dựa trên 4 cách tiếp cận sau:
Khoa học là hệ thống tri thức.
Khoa học là hoạt động sản xuất tri thức.
Khoa học là hình thái ý thức xã hội.

Khoa học là thiết chế xã hội.
Cả 4 khái niệm này đều có chỗ đứng trong tư duy và hành động của cộng
đồng những người làm nghiên cứu và quản lý khoa học. Tuy nhiên, Điều 2 của
Luật khoa học & công nghệ định nghĩa: “Khoa học là hệ thống tri thức về các
hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”. Hệ thống tri thức
được phân biệt là tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy quan hoạt động sống
hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và con người với
thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý
thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri
thức kinh nghiệm không ngừng được sử dụng và phát triển trong hoạt động thực

13
tế. Tuy nhiên tri thức kinh nghiệm chưa thực sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy
hết được thuộc tính và mói quan hệ bên trong của sự vật. Vì vậy tri thức kinh
nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết và giới hạn nhất định, nhưng tri thức
kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống
nhờ hoạt động NCKH, các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng
phương pháp khoa học. Không giống tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học
dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự
kiện xảy ra ngẫu nhiên trong các hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa
học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học như: triết
học, sử học, kinh tế học, toán học
1.1.2. Nhiệm vụ KH&CN:
Hoạt động KH&CN có các nhiệm vụ sau đây:
- Vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra
đường lối, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc

phòng, an ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con người
mới Việt Nam; kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hoá, khoa học
của thế giới;
- Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ các công nghệ tiên
tiến, công nghệ cao, các phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân; dự báo
kịp thời, phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai;
- Tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng
dụng có hiệu quả các công nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh
cao; phát triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong

14
khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển
các ngành công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng các thành
tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ về quản lý khoa hoc tại Nghị
định số 96/2010/NĐ-CP và tại Thông tư số 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có
nêu một số điểm trong điều 22 đã nêu nhiệm vụ KH&CN của các Viện là:
- Triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, chuyển giao kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phục vụ đào tạo, phát triển kinh tế
xã hội, an ninh và Quốc phòng.
- Tham gia đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, gắn hoạt động khoa học
công nghệ với đào tạo thực tế và hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3. Hoạt động KH&CN.
Theo Luật KH&CN: hoạt động KH&CN bao gồm NCKH, nghiên cứu phát
triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN .
1.1.4. Hoạt động khoa học của ngành BHXH Việt Nam.
(Theo Quy chế về hoạt động khoa học trong ngành BHXH Việt Nam ban

hành kèm Quyết định số 4869/QĐ-BHXH ngày 28 tháng 10 năm 2008 của
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam): Là các hoạt động khoa học có nội dung liên
quan đến chiến lược phát triển ngành BHXH và triển khai tổ chức thực hiện các
chính sách chế độ BHXH, BHYT, BH thất nghiệp. Các hoạt động này bao gồm:
- Nghiên cứu khoa học;
- Thống kê khoa học;
- Thông tin khoa học,;
- Hội thảo khoa học,
- Các dịch vụ KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, các dịch vụ tư vấn, phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học, công nghệ và
kinh nghiệm thực tiễn và các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ;

15
- Triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học;
- Trao đổi, học tập kinh nghiệm và phối hợp nghiên cứu khoa học với nước
ngoài.
- Các hoạt động khoa học khác.
1.1.5. Quản lý khoa học (quản lý nhà nước và quản lý cấp cơ sở)
Nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo Luật KH&CN
Nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ bao gồm:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch,
nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về khoa học và
công nghệ;
- Tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ;
- Tổ chức, hướng dẫn đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ,
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ;
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ;
- Quy định việc đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng và công bố kết quả nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ; chức vụ khoa học; giải thưởng khoa học và công

nghệ và các hình thức ghi nhận công lao về khoa học và công nghệ của tổ chức, cá
nhân;
- Tổ chức, quản lý công tác thẩm định khoa học và công nghệ;
- Tổ chức, chỉ đạo công tác thống kê, thông tin khoa học và công nghệ;
- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ về khoa học và công nghệ;
- Tổ chức, quản lý hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công nghệ; giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động khoa học và công nghệ; xử lý
các vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ.

16
Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Hằng năm Chính phủ báo cáo với Quốc hội về việc thực hiện các chính sách,
biện pháp để phát triển khoa học và công nghệ; việc sử dụng ngân sách nhà nước
đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; kết quả hoạt động khoa học và công nghệ.
- Bộ Khoa học, và Công nghệ chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực
hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý
nhà nước về khoa học và công nghệ theo sự phân công của Chính phủ.
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện
thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
- Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Quản lý cấp cơ sở: Tại các Sở KH&CN, các Viện nghiên cứu, các Vụ KH&CN
thông thường Phòng Quản lý Khoa học là bộ phận thực hiện công tác quản lý
hoạt động khoa học của cơ quan và có các niệm vụ chức năng cơ bản sau:
- Chức năng, nhiệm vụ:

+ Chức năng: Tham mưu, giúp lãnh đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước đối với các hoạt động khoa học của ngành.
+ Nhiệm vụ: Xây dựng và đề nghị lãnh đạo ban hành các cơ chế, chính sách,
biện pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, sử dụng hiệu quả tiềm lực và
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ.
Tổ chức tuyển chọn, xét chọn, kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hoạt động ứng dụng, công bố, phối hợp tuyên
truyền kết quả nghiên cứu khoa học, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
và các hoạt động khác; quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm

17
của thành phố; phối hợp triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp
nhà nước các tại địa phương.
Phối hợp với các cơ quan cấp dưới tại địa phương và các cơ quan liên quan đề
xuất danh mục các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước có tính liên
ngành, liên vùng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đề xuất các dự
án đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của địa phương và tổ chức
thực hiện sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành của địa phương và các cơ quan liên
quan tổ chức thực hiện cơ cấu vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, vốn sự
nghiệp khoa học và công nghệ được phân bổ.
Đề xuất thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ cấp thành phố theo quy
định của Luật Khoa học và công nghệ, hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Làm Thư ký Hội đồng khoa học và công nghệ cấp Bộ, cấp Nhà nước và cấp viện
khi cần.
1.1.6. Nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử
nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức đạt được từ các thí nghiệm
NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và
xã hội để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị

hơn.
Định nghĩa nghiên cứu khoa học theo Luật KH&CN: Nghiên cứu khoa học
là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, qui luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. NCKH bao
gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Nghiên cứu cơ bản (hay là nghiên cứu nền tảng –fundamental, hoặc nghiên
cứu thuần túy-pure) được thực hiện bởi sự tò mò hoặc đam mê của nhà khoa học
để trả lời những câu hỏi khoa học. Động lực để thôi thúc họ là mở rộng kiến thức

18
chứ không phải là kiếm lợi nhuận, do đó không có một lợi nhuận kinh tế nào từ kết
quả của nghiên cứu cơ bản.
Nghiên cứu ứng dụng được tiến hành để giải quyết các vấn đề thực tế của
thế giới đương đại, không phải chỉ là hiểu để mà hiểu (kiến thức vị kiến thức). Có
thể nói một cách khác rằng kết quả của các nhà nghiên cứu ứng dụng là để cải
thiện cuộc sống con người
Nghiên cứu triển khai (NCTK) là giai đoạn nghiên cứu có gắn với việc
hình thành công nghệ và được hiểu là giai đoạn nghiên cứu nhằm sáng tạo ra sản
phẩm mới, công nghệ mới (Prototype). NCTK bao gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Sáng tạo sản phẩm mẫu, trong đó vận dụng các tri thức khoa
học, là kết quả của giai đoạn “NCKH” để hình thành, sáng tạo ra các hình mẫu mới
(Prototype). Hình mẫu này bản thân nó có thể là một sản phẩm tiêu dùng theo đúng
nghĩa của từ này hay là một công nghệ để chế tạo ra sản phẩm tiêu dùng. Trong
giai đoạn này, người ta sơ bộ hình thành thiết kế và quy trình công nghệ chế tạo ra
hình mẫu mới đó.
Giai đoạn 2: Giai đoạn làm pilot hay còn gọi là sản xuất pilot. Trong giai đoạn
này, người ta thực hiện các nội dung: Hoàn thiện thiết kế, hoàn thiện công nghệ
chế tạo hình mẫu; sản xuất (không trên dây chuyền công nghệ chính thức có tính
công nghiệp) một số lượng nhỏ các hình mẫu và đưa các sản phẩm này vào hoạt
động thực tiễn nhằm khẳng định lại tính năng của sản phẩm hay công nghệ mới

như tính ổn định; kiểm tra các chỉ tiêu kỹ thuật của công nghệ, của sản phẩm…;
kiểm tra các chỉ tiêu khác như tính kinh tế, tác động đến môi trường, ảnh hưởng
đến văn hóa, xã hội,…
1.1.7. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển

19
Các tổ chức nghiên cứu và phát triển được tổ chức dưới các hình thức: viện
nghiên cứu và phát triển, trung tâm nghiên cứu và phát triển, phòng thí nghiệm,
trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và cơ sở nghiên cứu và phát
triển khác.
Căn cứ vào mục tiêu, quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động, các tổ chức nghiên
cứu và phát triển được phân thành:
- Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia;
- Tổ chức nghiên cứu và phát triển của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp bộ); tổ chức
nghiên cứu và phát triển của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp tỉnh); tổ chức nghiên cứu và phát
triển của cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương;
- Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở.
1.1.8. Ứng dụng khoa học.
- Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới;
Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm
để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới
trước khi đưa vào sản xuất và đời sống;
1.1.9. Hiệu quả hoạt động KH&CN
Khái niệm hiệu quả
Theo từ điển tiếng Việt (1997), hiệu quả: kết quả như yêu cầu của việc làm
[17, trg 508]. Theo từ điển bách khoa Việt Nam (1995), hiệu quả (HQ): kết quả

mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới; nó nội dung
khác nhau ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sản xuất, HQ có nghĩa là hiệu suất,
năng suất. Trong kinh doanh, HQ là lãi suất lao động. Trong sản xuất HQ được

20
đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc
là bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong 1 đơn vị thời gian [16, trg 627].
Trong xã hội học, một hiện tượng, một sự việc có hiệu quả xã hội, tức là có
tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội, đối với sự phát triển của lĩnh vực đó.
Hiệu quả của một cuộc điều tra xã hội học là kết quả tối ưu đạt được so với mục
tiêu của cuộc điều tra đó.
Hiệu quả kinh tế (HQKT): chỉ tiêu biểu hiện kết quả của hoạt động sản xuất,
nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh, phản ánh tương quan
giữa kết quả đạ được so với hao phí lao động, vật t ư, tài chính. Là chỉ tiêu phản
ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất - kinh doanh, nhằm đạt
được hiệu quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu. Tuỳ theo mục đích có thể đánh
giá HQKT bằng những chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao động, lợi nhuận so với
vốn, thời gian thu hồi vốn Chỉ tiêu tổng hợp thường được dùng nhất là doanh lợi
thu được so với số vốn bỏ ra. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, chỉ tiêu HQKT
là tỉ trọng thu nhập quốc dân trong tổng sản phẩm xã hội. Trong nhiều trường hợp,
để phân tích các vấn đề kinh tế có quan hệ chặt chẽ với các vẫn đề xã hội, khi tính
HQKT, phải coi trọng hiệu quả về mặt xã hội (như tạo thêm việc làm, giảm thất
nghiệp, tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố sự đoàn kết
dân tộc, các tầng lớp nhân dân và sự công bằng xã hội), từ đó có khái niệm hiệu
quả kinh tế - xã hội.
Từ các khái niệm HQ nói chung, HQKT nêu trên có thể khái quát hiệu quả
hoạt động KH&CN ngành BHXH.
Hiệu quả KH&CN ngành BHXH là các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động
KH&CN BHXH như: chất lượng nghiên cứu, mức độ vận dụng vào thực tế.
Chất lượng nghiên cứu thể hiện ở mức độ hoàn thành, kết quả đánh giá của hội

đồng nghiệm thu, thời gian và kinh phí thực hiện nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu
của ngành BHXH thường được tiến hành trong 1, 2 năm, kinh phí từ 35 đến 100

21
triệu đồng. Hội đồng nghiệm thu đánh giá kết quả từ xuất sắc, khá, đạt và không
đạt. Việc chi đúng, chi đủ, kịp thời luôn là phương châm của hoạt động tài chính.
Trong nghiên cứu khoa học cần phải đảm bảo: việc phân bổ kinh phí phải
đúng trọng điểm, phù hợp nội dung nghiên cứu, đảm bảo cho tiến độ nghiên cứu.
Nếu khối lượng công việc như nhau, kết quả đạt được như nhau thì đề tài nào tốn ít
kinh phí thì đề tài đó có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Tiến độ nghiên cứu phải đảm bảo theo đúng dự toán vì nếu kéo dài quá thời
gian nghiên thì số liệu không cập nhật, tính thời sự không còn, ảnh hưởng đến chất
lượng nhiên cứu.
Kết quả nghiên cứu được ứng dụng trong thực tế là một trong 2 chỉ tiêu để
đánh giá hiệu quả của đề tài. Hầu hết các đề tài của BHXH là phản ánh thực tế và
mục tiêu là giải quyết những vướng mắc trong hoạt động nghiệp vụ của ngành. Vì
vậy sau khi nghiệm thu, các đề tài phải được vận dụng vào thực tế thì mới thể hiện
rõ hiểu quả của nghiên cứu. Đề tài nào có nhiều nội dung được vận dụng trong
thực tế thì hiệu quả càng cao. Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học là nâng cao
tính thực tiễn của đề tài, có nhiều kiến nghị, giải pháp được áp dụng trong thực tế.
từ các tiêu chí để đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học trong ngành BHXH,
nhóm nghiên cứu chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp đổi mới nhằm nâng
cao hiệu quả trong hoạt động khoa học & công nghệ ngành BHXH Việt Nam.
1.2. Các quy định về hoạt động khoa học trong ngành BHXH.
Để thuận lợi cho việc quản lý hoạt động khoa học của ngành BHXH Việt
Nam, căn cứ Quyết định số 1147/QĐ-KH ngày 01 tháng 06 năm 1996 của Bộ
trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường (Nay là Bộ Khoa học và Công
nghệ) về việc công nhận Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đầu mối kế hoạch khoa học
và công nghệ;
Hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay được điều chỉnh bởi Luật Khoa

học và Công nghệ số 21/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000. Luật có VIII
Chương 59 Điều.

22
Căn cứ vào Luật KH&CN, các Nghị định, Thông tư qui định về tài chính
trong quản lý và nghiên cứu khoa học của Bộ KH&CN, Bộ Tài chính;
Căn cứ Quyết định số 41/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 3 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
Căn cứ Quyết định số 4843/QĐ-BHXH ngày 17 tháng 10 năm 2008 của
Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học Bảo hiểm xã hội;
Theo đề nghị của Viện trưởng Viện Khoa học bảo hiểm xã hội và Trưởng
ban Kế hoạch – Tài chính, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam đã ban hành hai văn
bản về quản lý hoạt động khoa học của ngành BHXH Việt Nam:
- Quyết định số 4869/QĐ-BHXH ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Tổng
Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành Quy chế hoạt động khoa
học trong ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
- Quyết định số 823/QĐ-BHXH ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Tổng Giám
đốc BHXH Việt Nam về việc ban hành Qui chế hoạt động của Hội đồng khoa học
ngành BHXH Việt Nam.
Mặc dù còn nhiều chỗ chưa thật hợp lý nhưng các Quyết định này đã quy định
tương đối chi tiết một số vấn đề liên quan đến công tác quản lý hoạt động khoa học
ngành gồm các vấn đề như: Quản lý khoa học; Nghiên cứu khoa học; Ứng dụng
kết quả nghiên cứu
1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học về lĩnh vực BHXH, BHYT
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là lĩnh vực hoạt động liên quan đến người
lao động, nên trong quá trình phát triển xã hội thì hoạt động bảo hiểm xã hội phải
luôn thay đổi để thích ứng với nhu cầu phát triển xã hội với mục đích bảo vệ quyền
lợi cho người lao động. Từ khi thành lập ngành BHXH Việt Nam Chính phủ đã có
những văn bản qui phạm điều chỉnh về chính sách và tổ chức thực hiện BHXH,

BHYT qua từng thời kỳ khác nhau. Nghị định 12/CP ngày 26 ngày 1 năm 1995 của

23
Thủ tướng chính phủ ban hành Điều lệ về BHXH. Sau nhiều lần sửa đổi, chính
sách BHXH và tổ chức thực hiện được điều chỉnh bằng Luật BHXH, chính thức có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2007. Trong lĩnh vực BHYT các Nghị định quy
định về thực hiện BHYT là Nghị định 299/NĐ-HĐBT ngày 15 tháng 8 năm 1992,
Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 1998, Nghị định số 63/2005/NĐ-
CP ngày 16 tháng 5 năm 2005 ban hành điều lệ BHYT và từ 01 tháng 7 năm 2009
Luật BHYT chính thức có hiệu lực thi hành. Mỗi văn bản khi đi vào cuộc sống đều
nảy sinh những điều bất cập, công tác nghiên cứu của ngành BHXH góp phần
trong việc phát hiện, mổ xẻ, phân tích và tìm hướng giải quyết những vướng mắc
trong quá trình đưa chính chính sách cuộc sống. Tuy nhiên trong hoạt động bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế có những đặc thù nghiên cứu riêng biệt, do vậy khi tổ
chức thực hiện nghiên cứu cần phân biệt rõ nội dung cơ bản cần nghiên cứu của
BHXH và BHYT để có phương hướng tổ chức nghiên cứu cho phù hợp.
1.3.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học về BHXH
Tính đến hết năm 2010 số lao động tham gia BHXH bắt buộc là 9.4 triệu
người. Công tác giải quyết chế độ chính sách BHXH từ năm 2007 đến hết năm
2010 là gần 17.3 triệu lượt người. Trong đó người hưởng hàng tháng là 0,5 triệu
người, người hưởng BHXH 1 lần là 1,8 triệu người và 15 triệu lượt người hưởng
trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức. Riêng năm 2010, tổng thu BHXH là 80.115
tỷ đồng, tổng số chi BHXH là 61.084,9 tỷ đồng. Đây là những con số chung nhất
trong lĩnh vực BHXH. Từ những con số này chúng ta thấy được khối lượng công
việc trong thực hiện chính sách BHXH.
Các chế độ BHXH được chia thành hai loại: các chế độ BHXH dài hạn và
các chế độ bảo hiểm ngắn hạn. Căn cứ vào tính chất này tổ chức nghiên cứu theo
hai hướng sau:
- Nghiên cứu các chế độ ngắn hạn: Nghiên cứu chính sách và quá trình tổ
chức thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, thất nghiệp, nghỉ dưỡng sức. Đối với


24
chế độ ngắn hạn, Việc tính toán cân đối thu chi có thể tính toán trong năm tài khóa,
do đó việc tổng hợp số liệu trong năm là rất cần thiết.
- Nghiên cứu chế độ dài hạn: Nghiên cứu chính sách và quá trình tổ chức
thực hiện các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Chế độ
dài hạn liên quan đến công tác thống kê và xử lý số liệu không chỉ trong một năm.
Việc nghiên cứu chế độ BHXH dài hạn cần có tầm nhìn chiến lược về quá trình
phát triển kinh tế, mức tăng trưởng GDP, tăng lương tối thiểu, chính sách thay đổi
tuổi nghỉ hưu, yếu tố về tuổi thọ, ảnh hưởng của xã hội đến người lao động có
những nghiên cứu tầm chiến lược, kế hoạch dài hạn và nghiên cứu dự báo nhằm
mục đích đảm bảo cân đối quĩ, đảm bảo trật tự chính trị, xã hội.
- Quĩ BHXH là một quĩ tài chính lớn (thu năm 2010 là 80.115 tỷ đồng cộng
thêm với phần kết dư của các năm trước) nên vấn đề đầu tư tăng trưởng quĩ cũng là
một trong những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu đầu tư để quĩ tăng trưởng tốt, nhưng
phải an toàn đảm bảo an toàn chính trị, xã hội. Hiện nay Quỹ BHXH là nguồn quỹ
tài chính lớn nhưng hạng mục đầu tư do Chính phủ quy định, 50% cho Chính phủ
vay và 50% cho các Ngân hàng Nhà nước vay, tính an toàn cao nhưng hiệu quả
đầu tư không cao.
Nghiên cứu những bất cập trong chính sách, trong tổ chức thực hiện các chế
độ BHXH để có những kiến nghị phù hợp, kịp thời với các cấp có thẩm quyền để
điều chỉnh Luật, văn bản dưới luật cho phù hợp tình hình thực tế.
1.3.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học về BHYT
Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2011, cả nước có gần 54 triệu người được cấp
thẻ BHYT trong đó có trên 8 triệu trẻ em dưới 6 tuổi, hơn 13 triệu người nghèo.
Tổng số thu BHYT năm 2010 là 25.531 tỷ đồng, với số chi là 19.002 tỷ đồng. Tổ
chức nghiên cứu BHYT thực tế là nghiên cứu chế độ ngắn hạn, tuy nhiên việc
nghiên cứu BHYT có một số đặc thù sau:
- Phụ thuộc vào việc cung cấp dịch vụ của ngành y tế nên hoạt động BHYT
khó cân đối thu chi và khó đảm bảo nâng cao dich vụ BHYT cho người tham


25
gia nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với ngành y tế. Cùng một bệnh nhưng
ở các bệnh viện tuyến khác nhau mức thanh toán khác nhau, bệnh viện cùng
tuyến ở các tỉnh khác nhau cũng khác nhau. Tỉnh giữ cân đối được quĩ, tỉnh
âm quĩ lớn
- Phương thức thanh toán theo phí dịch vụ hiện nay gây nhiều tranh cãi trong
việc ảnh hưởng đến cân đối quĩ, gây tình trạng bệnh viện cho bệnh nhân làm
nhiều xét nghiệm không thiết, gây tình trạng lạm dụng quĩ BHYT, mất cân
đối quĩ. Tập trung nghiên cứu phương thức thanh tóan mới phù hợp với từng
tuyến kỹ thuật, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT và cân đối quĩ.
- Cơ cấu chi phí trong chi phí BHYT, thuốc là lớn nhất, chiếm 65% tổng số
chi phí nên việc quản lý giá thuốc cũng là một vấn đề nóng, nhạy cảm đặt ra
cho ngành BHXH.
- Mối quan hệ trong lĩnh vực BHYT bao gồm 3 bên: cơ quan BHYT, người
tham gia BHYT và những cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng với cơ quan
BHYT để khám chữa bệnh cho người tham gia BHYT. Việc cung ứng các
dịch vụ khám chữa bệnh của cơ quan thực hiện BHYT với người lao động
thông qua hệ thống cơ sở y tế, nên việc thực hiện BHYT tốt hay xấu phụ
thuộc rất nhiều vào thái độ của các bác sỹ, nhân viên của các cơ sở y tế với
người đến khám chữa bệnh. Trong thực tế, có nhân viên y tế đã có những
thái độ không đúng mực với bệnh nhân có thẻ BHYT đã làm cho người bệnh
hiểu sai về chính sách BHYT và có những ác cảm với việc tham gia BHYT.
Qua một số cuộc điều tra tại một số tỉnh, thành phố, người tham gia BHYT
có rất nhiều bức xúc về thái độ của nhân viên y tế khi khám chữa bệnh, phân
biệt đối xử giữa bệnh nhân BHYT và bệnh nhân trả tiền dịch vụ. Người có
thẻ BHYT không dùng hoặc không dám dùng thẻ vì sợ ảnh hưởng đến việc
điều trị sức khoẻ của mình. Điều này mất đi tính nhân văn, chia sẻ cộng
đồng của chính sách BHYT.

×