Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2004
56
trao đổi ý kiến
Có phải Phật giáo Đại Thừa l
Blamôn giáo?
Hong Liên Tâm(*)
ần đây, có ngời nói rằng, Phật
tụng các vị thần, nh thần lửa, thần
giáo Đại Thừa l Blamôn giáo,
núi, thần sông Phần lớn ca tụng
l t ma ngoại đạo. Thật ra, lời nói ny
những vẻ đẹp huy hong, tng bừng
không có gì mới lạ, nó đã có từ thời
v mầu nhiệm của cuộc sống trong
xa, khi Phật giáo đang trong thời kì
vũ trụ. Ton thể bộ kinh gồm bốn
phát triển. Tuy nhiên, nhằm tránh sự
tạng: 1. Rig Veda: thi tụng cái biết, 2.
hoang mang cho những ngời mới
Yajur Veda: nghi thức tế tự, 3. Sma
bớc chân vo đạo Phật v cho những
Veda: ca vịnh thần chú v 4. Atharva
phật tử không có nhiều thì giờ nghiên
Veda: triển khai ý nghĩa ba bộ kinh
cứu về sự khác biệt giữa hai tôn giáo
kia. T tởng chủ yếu của Vệ Đ
nên chúng tôi viết bi dới đây. Chúng
đợc biến đổi từ đa thần
tôi không có ý so sánh hai tôn giáo lớn
thần, từ nhất thần sang lãnh vực
của nhân loại, vì việc lm ny l của
triết học qua ba thời đại: Vệ Đ
các học giả, m chúng tôi chỉ đa ra
Thiên th (Veda), Phạm Thiên th
vi điểm khác biệt quan yếu có tính
(Brahmana)
cách nền tảng giữa đạo Phật nói
(Upanishad).
G
chung, Phật giáo Đại Thừa nói riêng
so với Blamôn giáo.
v
áo
qua nhất
Nghĩa
th
Theo thời gian, t tởng Vệ Đ đã
đạt tới quan niệm một Đấng Thợng
Blamôn giáo (Brahmanism) hay
Đế hữu ngã sáng tạo vũ trụ v một
còn gọi l ấn Độ giáo (Hinduism) l
bản thể tuyệt đối vô ngã lm cội
một tôn giáo lớn ở ấn Độ có từ trên
nguồn chung cho vũ trụ. Tuy nhiên,
1.000 năm trớc khi Phật giáo ra đời.
trên đại thể, kinh Vệ Đ vẫn thiên
Kinh Vệ Đ (Veda) đợc xem nh l
trọng
cội gốc của Blamôn giáo v l suối
Thợng Đế hữu ngã hơn.
nguồn của nền văn minh ấn. Trong
kinh có những bản thánh ca để ca
về
quan
niệm
một
Đấng
*. Nhà nghiên cứu Phật học, Chủ nhiệm Website
Th viện Hoa Sen, Hoa Kỳ.
Hoàng Liên Tâm. Có phải Phật giáo Đại Thừa
57
Thời Vệ Đ Thiên th, dân chúng
Thiên hay Đại ngã), thì Tự ngã của
sùng bái cúng tế để cầu xin sự trợ
con ngời vẫn còn phải luân hồi
giúp của các thần linh, hình thức
trong vòng sinh tử. Họ chủ trơng
phần chính thuộc về đa thần giáo.
"Brahman-Atman đồng nhất" v con
Sang thời kì Phạm Thiên th, tín đồ
ngời giải thoát l con ngời ho
chán việc tế lễ v thờ tự nhiều thần,
đồng vo bản thể của vũ trụ. Tiểu ngã
nên tuyển lọc lại vi vị thần quan
ho đồng với Đại ngã vô biên trong
trọng để phụng thờ, sau thờ một thần
một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu.
l Đấng Phạm Thiên (Brahma), vị
Trên địa hạt xã hội, dân chúng ấn
thần tối cao ton năng, siêu việt,
Độ hồi đó đợc phân chia thnh bốn
sáng tạo ra vạn vật vũ trụ. Thế l đối
đẳng cấp: 1. Hng Tăng lữ thuộc
tợng tín ngỡng của đa phần dân
đẳng cấp Blamôn (Brahmana), 2.
ấn Độ chuyển từ đa thần giáo sang
Vua chúa thuộc đẳng cấp Sát Đế Lị,
nhất thần giáo. Đến thời kì áo Nghĩa
3. Thơng nhân, nông phu v thợ
th, sự thờ phụng không chỉ giới
thuyền
hạn trong nghi thức tế tự, m bao
(Vaisya) v 4. Tiện dân bần cùng
gồm môn triết học cao siêu.
thuộc đẳng cấp Thủ Đ La (Sdra).
thuộc
đẳng
cấp
Phệ
Xá
Hệ thống đẳng cấp ny theo chế độ
áo Nghĩa th l những bộ kinh
cha truyền con nối. Ngời khác đẳng
luận đợc các giáo sĩ Blamôn trớc
cấp không đợc cới nhau, không
tác nhằm khai triển nền giáo lí Vệ
đợc cùng nhau hnh lễ tế tự v
Đ trên phơng diện triết học. Trong
không đợc ăn chung bn. Đẳng cấp
khi các kinh Vệ Đ chú trọng về
Thủ Đ La l đẳng cấp cùng đinh bị
nghi thức thờ phụng thì áo Nghĩa
khinh miệt v bị hnh hạ, nên đời
th muốn tìm hiểu thêm về Tự ngã
đời lm nô lệ phục vụ cho ba đẳng
v tự thể của con ngời, v mối liên
cấp trên. Đẳng cấp ny bị khinh bỉ
hệ của chúng với bản thể tuyệt đối
đến nỗi một ngời Thủ Đ La đến
của vũ trụ vạn vật. Nội dung căn bản
gần một giếng nớc, thời giếng nớc
của áo Nghĩa th cho rằng, con
ấy xem nh đã trở thnh dơ bẩn,
ngời, cũng nh mọi chúng sinh, đều
không dùng đợc cho ba đẳng cấp
có một tự thể bất sinh, bất diệt,
trên v ngời Thủ Đ La no vi
thờng tịch v vô trụ nh Bản thể
phạm tội ấy có thể bị ném đá cho đến
tuyệt đối, thờng đợc gọi l Atman
chết. Chính sự kì thị ny đã tạo ra
hay Tiểu ngã (một linh hồn bất diệt).
một tổ chức xã hội cực kì bất công.
Khi Tự ngã của con ngời hay của
Cho đến cuối thế kỉ VI trớc Tây lịch,
chúng sinh cha ho nhập với Bản
đẳng cấp Blamôn hon ton ngự trị
thể tuyệt đối (Brahman, Đấng Phạm
trên ton thể dân chúng ấn. Họ hợp
57
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2004
58
nhất quyền lực chính trị vo quyền
nguồn gốc sinh ra vô minh, m vô
lực tôn giáo, đặt thêm nhiều nghi lễ
minh l đầu mối của luân hồi sinh tử
tế tự phiền toái để trói buộc dân
v khổ đau của con ngời.
chúng nhằm củng cố giai cấp thống
trị. Thời kì ny có nhiều luận chấp
về Tự ngã v nảy sinh nhiều phe
phái, từ những luận chấp về quá khứ,
về tơng lai, cho đến luận chấp về
hiện tại Niết Bn. Tất cả các luận
chấp ny đều dựa vo sự xúc đối
phân biệt của sáu giác quan (mắt, tai,
mũi, lỡi, thân v ý thức)(1).
Trong khung cảnh ấy, nền giáo lí
đạo Phật ra đời nh một luồng gió
mới, một cuộc cách mạng giải phóng
Một điểm khác biệt nữa ở mặt hiện
tợng xã hội rất dễ nhận thấy, đó l
Phật giáo chủ trơng bình đẳng
đẳng cấp, bình đẳng giữa con ngời
có máu cùng đỏ v nớc mắt cùng
mặn. Bình đẳng không chỉ thể hiện
trong việc giao tiếp xã hội m còn
thể hiện trong tâm của mỗi ngời.
Trong thời Đức Phật còn tại thế, hai
sự thnh công rõ nét nhất tại ấn Độ
l sự bãi bỏ chế độ đẳng cấp v sự
thiết lập Giáo hội Tỳkheoni.
con ngời ra khỏi tình trạng bất
công h khắc về đẳng cấp xã hội,
thoát khỏi ngục tù nô lệ t tởng,
khỏi những nghi lễ tế tự phiền toái
của hng giáo sĩ độc tôn Blamôn.
Còn về nội dung giáo lí thì có nhiều
điểm dị biệt với Blamôn giáo, nh
trong khi kinh Vệ Đ còn ca ngợi vẻ
huy hong, tng bừng v mầu nhiệm
của cuộc sống thì Đức Phật, trong
giáo lí Tứ Đế, Ngi nói rằng cuộc đời
l bể khổ. Lời tuyên bố ny l cơ sở
xuất phát nền giáo lí đạo Phật. Song,
điểm khác biệt độc đáo l giáo lí Vô
ngã của Phật tơng phản với giáo lí
Dù bất cứ một bộ phái hay tông
phái Phật giáo no từ trớc cho đến
nay cũng đều phải thừa nhận đó l
hai nét nền tảng khác biệt giữa Phật
giáo v Blamôn giáo. Chính vì hai
điểm khác biệt ny m có một số tín
đồ v đạo sĩ Blamôn giáo cho đến
nay vẫn xem Phật giáo nh l thù
nghịch, cho rằng chính Đức Thế Tôn
đã đả phá tôn giáo của họ, đã lm
đảo lộn truyền thống tôn ti trật tự
xã hội của họ. Chúng tôi sẽ lần lợt
giải thích chi tiết dới đây, đặc biệt
trong lĩnh vực t tởng v giáo lí:
Ngã của Vệ Đ. Đây l điểm khác
Trong suốt chiều di lịch sử của
biệt quan yếu có tính cách nền tảng
Phật giáo, tính cách đồng nhất trong
giữa Phật giáo v Blamôn giáo. Một
khác biệt l một đặc tính nổi bật.
đằng chủ trơng các thuyết liên hệ
Mặc dù các nh Phật giáo Nguyên
đến Ngã, một đằng chủ trơng hết
thảy các pháp l Vô ngã, v cho rằng
phải phá chấp ngã, vì chấp ngã l
1. Thích Minh Châu. Kinh Trờng Bộ I, Kinh Phạm
Võng. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr.
11-91.
Hoàng Liên Tâm. Có phải Phật giáo Đại Thừa
59
Thuỷ v Phật giáo Đại Thừa không
lí ny m sự thật tuyệt đối mới
đồng quan điểm với nhau về một số
chứng đạt v vì vậy đợc chấp nhận
vấn đề, nhng cả hai đều công nhận
trong giáo lí của các nh Đại Thừa"(5).
Vô ngã v Duyên khởi l giáo lí nền
Một lần, sau khi nghe về Duyên
tảng của đạo Phật, l giáo lí chung
khởi, thầy A Nan tha: "Bạch Đức
cho tất cả các bộ phái hay tông phái
Thế Tôn, lí Duyên khởi hay quá m
Phật giáo.
cũng thật đơn giản, dễ hiểu". Phật
Vô ngã l một trong ba thnh
nói: "Thầy đừng nghĩ nh vậy, lí
phần của Tam Pháp ấn, chỉ định tính
Duyên khởi rất sâu sắc v nhiệm
cách đích thực giáo pháp của Phật,
mầu. Thầy cha hiểu đợc hết đâu.
không thể nhầm lẫn giáo pháp ngoại
Ngời no thấy đợc tính Duyên
đạo. Tam Pháp ấn theo Phật giáo
khởi tức l thấy đợc Nh Lai. Câu
Đại Thừa l Vô thờng, Vô ngã v
nói đó phải học thuộc lòng. Tất cả
Niết Bn(2). Nhng theo Phật giáo
giáo lí của đạo Phật đều lấy lí Duyên
Nguyên Thuỷ l Vô thờng, Khổ v
khởi lm nền tảng(6).
Nếu đi vo phân tích giáo lí, thì từ
Vô ngã.
Vô ngã cũng l Duyên khởi vì Vô
nguyên lí Duyên khởi chúng ta thấy
ngã l Duyên sinh biểu thị ở mặt
rõ Vô ngã tính của các pháp. Vô
hiện tợng v Duyên sinh l Vô ngã
ngã không phải l một thuyết triết
biểu thị ở mặt thể tính. Sự kiện ny
lí siêu hình m l một toa thuốc trị
đợc biểu thị bằng mối quan hệ y tha
liệu tâm linh có giá trị vô song.
(paratantra), nh sóng l hiện thân
Muốn đợc giải thoát con ngời cần
của nớc, v nớc l thể tính của
phải phá Chấp ngã bằng cách thực
sóng. Chính vì thế, cả Phật giáo
hnh. Đạo Phật l con đờng trí tuệ
Nguyên Thuỷ lẫn Phật giáo Đại
2. Thích Minh Châu. Kinh tạng Bắc tông, Kinh Tạp
A Hàm. Số 262, quyển10 và Đại Trí Độ Luận của Bồ
tát Long Thọ sáng tác vào thế kỉ thứ 2 sau Công
nguyên, cũng nói rất rõ rằng Tam Pháp ấn là Vô
thờng, Vô ngã và Niết Bàn.
3. Thích Minh Châu. Kinh Trung Bộ I. Số 28 Đại
Kinh Dụ Dấu Chân Voi, tr. 422, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam 1992; Tơng Ưng Bộ III, tr. 144
và Tiểu Bộ Kinh I, tr. 48.
4. Kinh Tơng Bộ II, Kinh Tơng Ưng Nhân Duyên.
Bản dịch của Hoà thợng Thích Minh Châu, Tu th
Phật học Vạn Hạnh 1982, tr. 5.
5. Nalinaksha Dutt. Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu
Thừa. Bản dịch của Hoà thợng Thích Minh Châu,
Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 80.
6. Thích Nhất Hạnh. Trái tim của Bụt. Lá Bối 1999,
tr. 27.
Thừa đều đồng ý rằng: "Ai thấy đợc
lí Duyên khởi, ngời ấy thấy đợc
Pháp; Ai thấy đợc Pháp, ngời ấy
thấy đợc lí Duyên khởi"(3). Chính
Đức Phật nói rằng, Ngi v các Đức
Phật thời quá khứ đều chứng ngộ Vô
Thợng Bồ Đề từ giáo lí Duyên
khởi(4). V chính Bồ tát Long Thọ
cũng nói rằng: "Nếu không có Tứ đế
v Duyên khởi, thời không có Phật,
Pháp v Tăng, vì chính nhờ hai giáo
59
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2004
60
của nhận thức Vô ngã v thực hnh
trên căn bản ngã tính đều đã đợc
Vô ngã. Thực hnh bằng cách Chân
phủ nhận tận gốc rễ v các vấn đề
không hoá ý thức. Trong Kinh Trung
siêu hình bn về nguồn gốc tự thể
Bộ (Majjihima Nikaya III), Đức Phật
của các hiện hữu đều đợc xem l lí
dạy các đệ tử của Ngi cách thực
luận đối với nguyên lí Duyên khởi.
hnh bằng phơng pháp Chân không
Tuy vậy vẫn có ngời cho rằng, Phật
hoá ý thức một cách từ từ. Phải, đạo
giáo Đại Thừa m sự ra đời của Tánh
Phật l đạo thực hnh, nếu con ngời
Không luận của Bồ tát Long Thọ với
muốn giải thoát ra khỏi luân hồi
học thuyết Nhất thiết pháp Không
khổ đau, thì phải triệt để phá chấp,
không phải l đạo Phật m l đạo
phá chấp Tiểu ngã cũng nh phá
Blamôn.
luôn cả thnh trì cuối cùng của
rằng, học thuyết Nhất thiết pháp
Blamôn giáo gọi l Đại ngã, hay l
Không không có t tởng áo Nghĩa
cái gì đi nữa v cuối cùng phải phá
th của Blamôn giáo. Nó đợc khai
luôn cả cái ý niệm phá đó nữa. Ho
sinh từ hệ Bát Nhã, thuộc kinh tạng
thợng Thích Minh Châu, trong một
Đại Thừa phát sinh từ Đại Chúng Bộ,
bi diễn giải tại Viện Đại học Vạn
xuất hiện đầu tiên tại miền nam ấn,
Hạnh cho rằng: Khi Đức Phật mở ra
trung tâm truyền bá Phật giáo Đại
con đờng giải thoát bằng việc phá
Thừa. Nhng thực chất dòng triết
chấp, phá bỏ tất cả mọi cố chấp v phá
học ny vốn đã đợc thai nghén từ
bỏ ngay việc cố chấp vo chính đạo
trong kinh bộ Nguyên thuỷ Nikaya
Phật, Đức Phật chỉ muốn cho con
trên nền móng cơ bản của những
ngời ý thức tối hậu rằng chính Thực
giáo lí Duyên khởi, Vô ngã v Vô
tại hay Thực thể cũng l biểu tợng
cuối cùng m con ngời phải phá huỷ,
(7)
để đợc giải phóng ton triệt. .
Nh trên đã trình by, chúng ta
Không!
Phải
nói
ngay
thờng(8).
Đợc biết, trong quá trình phát
triển t tởng Phật giáo, trong môi
trờng biện biệt phân tranh của xã
thấy rõ rằng, Vô ngã-Duyên sinh l
hội ấn thời đó, kẻ nói có, ngời nói
sự khác biệt nền tảng giữa đạo Phật
không, kẻ nói vừa có lẫn vừa không,
nói chung v Phật giáo Đại Thừa
kẻ nói chẳng có lại chẳng không; Bồ
nói riêng so với Blamôn giáo. Một
tát Long Thọ đã tái cấu trúc nguyên
đằng chủ trơng các thuyết liên hệ
lí Trung Đạo trên nền tảng phủ định
đến Chấp ngã v Ngã sở, một đằng
triệt để: Nhất thiết pháp Không tức
chủ trơng hết thảy các pháp l Vô
ngã. Với nguyên lí Duyên khởi, sáu
mơi hai luận chấp về Ngã v Ngã
sở của Blamôn giáo đợc thiết lập
7. Thích Minh Châu. Tôn giáo phải là con đờng
giải thoát cho Việt Nam và thế giới. T tởng Vạn
Hạnh. Số I (8-67), tr. 368.
8. Thích Tâm Thiện. Lịch sử t tởng và triết học
Tánh Không. Nxb Tp. Hồ Chí Minh 1999, tr. 14.
Hoàng Liên Tâm. Có phải Phật giáo Đại Thừa
61
Hết thảy các pháp l Không bằng
(amanusirati) khi họ đã đạt pháp
tám cái Không; nhằm phá huỷ tất cả
hon thiện(10). Pháp hon thiện ở đây
kiến chấp sai lầm hay mọi định kiến
đợc hiểu l Chân không. Ngoi ra,
về có, không, sinh, diệt, v.v "Không"
trong cả hai hệ kinh tạng tiếng Pali
ở đây không có nghĩa l "không có gì
v tiếng Hán đều có hai bộ kinh nói
hết" hay l "h vô" m l không có
về Không: Kinh Tiểu Không (Pali)(11),
thật nh ta đã nhận thức hay không
Kinh Đại Không (Pali)(12), Kinh Tiểu
có thật theo cái thực tớng của nó.
Không (Hán)(13), Kinh Đại Không
Không ở đây cũng l Trung Đạo, nó
(Hán)(14) đều trình by khá rõ rng
không dẫn tới có hay không, không
nghĩa chữ Không.
dẫn tới chấp nhận hay phủ nhận.
Điểm thiết yếu trong nền triết học
Trung Đạo ở đây không phải l
Tánh Không của Bồ tát Long Thọ l
trung đạo, theo nghĩa ở ngoi hai
muốn minh giải về Bản thể tuyệt đối,
cực đoan m l con đờng dẫn đến
điều m xa kia Phật ít muốn giải
Niết Bn, "con đờng huỷ diệt mọi
by. "Việc triển khai giáo lí của phái
con đờng, via negativa, con đờng
Đại Thừa có lẽ cũng không trái với ý
tự huỷ diệt"(9).
muốn của Đức Thích Ca, vì ở thời
Niết Bn l Chân không, l Bản
Đức Thích Ca, dân trí còn thấp kém,
thể tuyệt đối bất sinh bất diệt nh
nên có lẽ Đức Thích Ca đã không
trong Bát Nhã Tâm Kinh nói: "Thị
muốn lí giải những vấn đề siêu hình.
ch pháp không tớng, bất sinh bất
Tới thế kỉ thứ nhất sau Tây lịch, dân
diệt" nghĩa l tớng Chân không của
các pháp (tức các hiện tợng) không
sinh không diệt.
Thật ra, Trung Đạo của Đức Phật
v Trung Đạo trong Trung Quán
Luận của Bồ tát Long Thọ tuy có
khác nhau ở chỗ Trung Quán Luận l
một hệ thống luận lí, nhng không
vì thế m Trung Quán Luận của Bồ
tát Long Thọ khác biệt hay chống
trái với giáo lí đạo Phật Nguyên
Thủy. Quả l nh vậy, trong Kinh
Pháp Cú có nói: "Tu sĩ đạt tới Chân
không (snya), tâm linh tịch tịnh
(santacitta), họ đạt đợc một niềm
hoan
lạc
không
thuộc
trần
thế
61
9. Phạm Công Thiện. Hố thẳm t tởng. An Tiêm,
Sài Gòn, tái bản lần 2, tr. 167.
10. Thích Minh Châu. Kinh Pháp Cú. Thiền viện
Vạn Hạnh 1996, tr. 202. Nguyên văn chữ Pali và chữ
Việt nh sau:
Sunnagaram pavitthasa / Bớc vào ngôi nhà trống,
Santacittassa bhikkuno / Tỳkheo tâm an tịnh,
Amanusi rati hoti / Thọ hởng vui siêu nhân,
Samma dhamman vipassato / Tịnh quán theo
chánh pháp.
11. Kinh Trung Bộ III. Bản dịch của Hoà thợng
Thích Minh Châu, Số 121 Kinh Tiểu Không, tr. 291299 (Pali Tạng).
12. Kinh Trung Bộ III. Bản dịch của Hoà thợng
Thích Minh Châu, Số 122 Kinh Đại Không, tr. 301315 (Pali Tạng).
13. Kinh Trung A Hàm, Tiểu Không Kinh. Số 190,
Đại I, 736c. Bản dịch của Hoà thợng Thích Thiện
Siêu (Hán Tạng).
14. Kinh Trung A Hàm, Đại Không Kinh. Số 191,
Đại I, 738a. Bản dịch của Hoà thợng Thích Thiện
Siêu (Hán Tạng).
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2004
62
trí đã mở mang hơn, lại thêm các
đại dơng bao la, còn các Tự thể
tông phái Blamôn đều nảy nở, nền
chúng sinh nh những ln sóng.
giáo lí Phật cần phải triển khai mới
Nớc của đại dơng tức l cái bản
có thể tồn tại đợc"(15). Ngoi ra,
chất phẳng lặng thờng tịnh, vô
việc minh giải của Bồ tát Long Thọ
sinh vô trụ của Bản thể. Sóng chỉ l
cũng không ngoi quan điểm chính
một thực tại tơng đối sinh diệt có
thống của Đức Phật Thích Ca từng
tính cách huyễn ảo. Sóng chỉ l nớc
nhấn mạnh về con đờng trung đạo
nhấp nhô rồi lại trở về đại dơng.
v nguyên lí Duyên khởi. Long Thọ
Chính điều mô tả ny m về sau một
cho rằng, tất cả các pháp trên thế
số ngời cho đó l quan điểm của
gian ny đều nơng tựa lẫn nhau để
Blamôn giáo. Tuy nhiên, xét cho kĩ,
m sinh khởi. Về bản thể tuyệt đối,
chúng ta thấy rằng, đó l thuyết "vạn
Long Thọ nói rằng, không thể lí giải
vật đồng nhất thể" vốn hm chứa
theo những quan niệm của thế gian
trong kinh Vệ Đ v cũng l quan
đợc vì nó l bất khả thuyết bởi
niệm của áo Nghĩa th (Upanishad),
ngôn ngữ. Nó ngoi phạm trù tứ cú
thờng đợc gọi l Adwaita, tức Phi
của thế gian, nên chỉ tạm gọi l
Nhị nguyên môn, nghĩa l không có
Chân không. Chân không cũng còn
hai. Nguyệt Khê Thiền s cho rằng:
đợc gọi l Niết Bn.
"Đại Thừa Khởi Tín Luận lấy nớc dụ
Tởng cũng cần ghi chú thêm ở
đây l trớc Bồ tát Long Thọ 100
năm có Bồ tát Mã Minh ra đời vo
thế kỉ thứ nhất sau Tây lịch, tức vo
cao điểm của thời kì phân phái trong
Phật giáo v cũng vo thời điểm
thịnh hnh của Blamôn giáo. Mã
Minh theo Đại Chúng Bộ tức phái
cấp tiến, đã trớc tác thiên trờng ca
bất hủ về cuộc đời Phật Thích Ca,
thần thánh hoá Ngi l con ngời vũ
trụ. Về địa hạt triết học, Mã Minh
trớc tác bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận,
trong đó Mã Minh mô tả về Tự thể v
Bản thể tuyệt đối (hay Chân nh) v
sự liên hệ giữa chúng với nhau qua
ví dụ sóng v nớc trong biển cả đại
dơng. Bản thể tuyệt đối nh l nớc
cho Chân nh, lấy sóng dụ cho sanh
diệt, ấy l sai lầm", v nói: "tác giả
Đại Thừa Khởi Tín Luận l ngoại
đạo mợn danh ngi Mã Minh để
truyền bá". Nguyệt Khê giải thích:
"Chân nh l bản thể Phật tánh, sanh
diệt l tác dụng vọng tởng của bộ
não, hai thứ chẳng dính dáng với
nhau, Chân nh l nh nh bất động,
chẳng có biến đổi, chẳng khởi vọng
niệm, nếu Chân nh hay khởi vọng
niệm sanh diệt nh nớc nổi ln
sóng thì Chân nh cũng có sanh diệt
luân hồi, chẳng phải bản thể cùng
tột của Phật tánh. Kinh Lăng Gi
15. Nghiêm Xuân Hồng. Biện chứng giải thoát trong
t tởng ấn Độ. ấn quán Hy Mã Lạp Sơn, Sài Gòn,
1966.
Hoàng Liên Tâm. Có phải Phật giáo Đại Thừa
63
dùng nớc biển dụ cho thức thứ tám,
bất cứ nguyên lí tối cao no ngoi
ln sóng dụ cho thức thứ bảy mới
nguyên lí Duyên khởi.
(16)
đúng với chính lí"
.
Thật
ra,
Blamôn
giáo
có
rất
Trong khi Tiểu ngã của Blamôn
nhiều tông phái v quan niệm giải
giáo tìm cách giải thoát bằng cách
thoát của họ cũng có nhiều dị biệt
ho đồng vo Đại ngã, thì ngời
khác nhau. Gần thời đại chúng ta, họ
Phật giáo giải thoát bằng cách chân
có sáu tông phái chính với Nguyên
không hoá tất cả mọi khái niệm, mọi
từ luận, Luân lí luận, Số luận, Nhị
t tởng chấp ngã v đam mê, xem
nguyên luận, Nhất nguyên luận v
chính mình l không, vạn sự vạn
Phi Nhị nguyên luận. Trong số đó có
hữu l không để đạt Chân không,
phái Vedanta, một hệ phái đợc xem
trong đó không còn có phân biệt chủ
l chính thống hơn hết của Blamôn
thể với khách thể, không còn có ý
giáo. Phái ny còn gọi l Phi Nhị
thức với vô thức, không còn có hữu
pháp môn, nghĩa l không có hai
hay vô, m chỉ còn tuyệt đối Chân
(Adwaita), cũng hm nghĩa vạn vật
không. Chân không ở đây cần hiểu l
đồng nhất thể. Đối với giáo lí Phật
Chân không Diệu hữu. Đối với Phật
giáo, l phi nhất, phi nhị, phi hữu,
giáo, tất cả những ý niệm chủ -
phi vô, phi sắc, phi không, phi đa
khách, sắc - không, Niết Bn - sinh
nguyên, phi thiểu nguyên. Nói nh
tử, hữu - vô, nhị nguyên - nhất
thế không có nghĩa l phủ nhận tất
nguyên, thờng - đoạn, đều chỉ l
cả, m theo Trung Quán Luận: "Nói
những vọng chấp đối đãi. Trong sự
phủ định nhằm khẳng định, khẳng
giải thoát ny, không thể nói tới việc
định một "chân trời" không bao giờ
ho đồng hay ho nhập đợc, vì
hiện
hữu
trong
tơng
quan
đối
muốn ho đồng hay ho nhập phải
đãi"
đòi hỏi sự hiện diện của hai hữu thể
"ngôn ngữ đạo đoạn tâm hnh ý diệt".
hay ngã thể m trạng thái Chân
Mọi t tởng Chấp ngã, Tiểu ngã lẫn
không hay Niết Bn lại chính l
Đại ngã đều bị quét sạch, kể cả công
trạng thái trong đó mọi t tởng,
cụ quét cũng bị quét.
(17)
mọi ý niệm bao gồm ý niệm về chấp
. Điều ny cũng chính l
Ngay cả đến giáo lí của Phật
ngã v ngã sở đều tịch diệt. Cách
giảng dạy chỉ l phơng tiện nh
giải thoát của Blamôn giáo cha
thể xem l giải thoát đợc vì vẫn còn
con đò đa ngời qua sông. Khi đã
Ngã, dù l Đại ngã.
16. Nguyệt Khuê Thiền s. (Việt dịch, Thích Duy
Lực). Cội nguồn Truyền thừa và Phơng pháp Tu trì
của Thiền Tông. Từ Ân Đờng 1991, tr. 79.
17. Thích Tâm Thiện. Lịch sử t tởng và triết học
Tánh Không. Sđd, tr. 122.
Phật giáo không chủ trơng có
hay không có Thợng Đế, không chủ
trơng có hay không có Đại ngã hay
63
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2004
64
đến đợc bến đò thì bỏ đò v ngời
lạnh l băng, khi tan chảy l nớc.
đa đò, tức Phật, cũng phải bỏ v phải
Có một điều khó hiểu. Nếu chúng ta
bỏ luôn cả cái vọng chấp gọi l bến đò
nói băng v nớc l hai vật giống
nữa mới có thể đạt tới cái m sách vở
nhau. Đâu phải thế phải không? Nếu
gọi l Niết Bn, Chân Nh.
chúng ta đi mua băng (nớc đá),
Đối với Phật giáo, không có vấn
chúng ta sẽ không nhận nớc lã
đề nhập Niết Bn hay trở thnh Niết
(water), do đó không phải tơng
Bn. Bởi vì có nhập, có vo hay có
đồng. Nhng chúng ta không thể nói
trở thnh l có đối đãi, còn trong
rằng băng v nớc không giống
vòng nhị nguyên tơng đối. Niết Bn
nhau, bởi vì ngoi nớc không có
hay Chân Nh siêu việt tất cả nên
băng, cả hai không phải dị biệt.
ngời ta nói Nh Lai tịnh diệt hay
Băng v nớc không phải đồng cũng
Nh Lai Niết Bn thế thôi. Niết Bn
không phải dị. Sự tơng quan giữa
chính l Chân không v Chân không
Phật v chúng sinh (hay giữa Niết
chính l Niết Bn. Vậy thử hỏi, Niết
Bn v thế gian, cũng thế)(18).
Bn v thế gian, hay Phật v chúng
Vì bi viết có giới hạn nên chúng
sinh l hai hay một? Theo chủ thuyết
tôi chỉ có thể trình by vi điểm
Bất
thì
khác biệt quan yếu có tính cách nền
không có hai (Adwaita), Tiểu ngã
tảng giữa đạo Phật v đạo Blamôn.
ho nhập với Đại ngã thnh một,
Đó l tính chất bình đẳng v nguyên
không có gì khác biệt. Nhng đối với
lí Duyên khởi của đạo Phật. Dù bất
Phật giáo, Long Thọ Bồ tát nói rằng:
cứ một bộ phái hay tông phái Phật
"Niết Bn v thế gian không có gì sai
giáo no từ trớc đây cho đến ngy
biệt. Niết Bn v thế gian chúng
nay cũng đều phải thừa nhận đó l
không hai, không khác". Đây l một
những nét nền tảng khác biệt giữa
điểm khó hiểu v dễ gây ngộ nhận,
Phật giáo v Blamôn giáo. Vậy
nhng Thiền s Bạch ẩn đã cho một
những ai cho rằng Phật giáo Đại
ví dụ rất dễ hiểu về sự nhất tính
Thừa l Blamôn giáo quả l một
giữa Phật v chúng sanh hay Niết
điều không tởng./.
nhị
của
Vệ
Đ
Vedanta
Bn v thế gian. Ông viện dẫn "băng
(ice), m bản chất l nớc. Ngoi
nớc không thể có băng. Khi đông
18. Ama Kuki Sessan. Bạch ẩn Thiền Định Ca. (Việt
dịch, Bạch Hạc). Viên Chiếu 1988, tr. 67.