Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Công nghệ thông tin ngay nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.75 KB, 15 trang )

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
1. Vai trò của CNTT&TT (ICT)
a) Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng dụng
trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như công dụng của
máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính toàn cầu (Internet) đem lại
những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được. Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường
nghe nói đến thuật ngữ CNTT&Truyền thông (ICT) thay vì CNTT (IT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email mà nó là
kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri thức nhân loại, có
thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng
máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong đó cũng có gần như các hoạt động
của thế giới thực: thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực
tuyến (game online), các diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân
điện tử (blogger),…
b) Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại
Tuy gọi là thế giới ảo nhưng nó đem lại lợi ích thực sự cho những người tham gia, thậm
chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế giới thật. Ví dụ những cá nhân tham
gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thông qua máy tính nối mạng để buôn bán trao đổi
và có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Học sinh có thể tham gia các hệ thống học trực tuyến
trên mạng mà không phải tốn một đồng học phí, mà kiến thức thu được còn nhiều hơn là theo
lớp học thật. Một học sinh ở Hà Nội có thể thông qua một hệ thống học trực tuyến để theo học
một thầy giáo ở tận TP HCM. Một thầy giáo có thể dạy cùng một lúc hàng vạn học sinh.
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ với
nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời sống và công
việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát, có thể chia sẽ các bài viết
về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc phụ huynh trên cả nước có thể chia
sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim,
các bài giảng và giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc
giảng dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những
kiến thức về học tập và thi cử.


c) Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật
Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ ra có nhiều ưu
điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới phẳng” (tên một cuốn sách
nổi tiếng của Thomas L.Friedman đã được dịch sang tiếng Việt) nơi mà tất cả mọi người tham
gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát, không phân biệt vị trí địa lý, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị xã
hội. Trong thế giới này, các hoạt động có thể diễn ra vô cùng lớn mạnh với hàng triệu người
tham gia. Các kết quả mà thế giới ảo đạt được có thể không bao giờ làm được trong thế giới
thật (ví dụ xây dựng thư viện trực tuyến khổng lồ hoặc các công cụ tìm kiếm tri thức toàn cầu).
Chi phí để vận hành thế giới ảo này hầu như không đáng kể so với thế giới thật, ví dụ
thương mại điện tử sẽ không cần phải có cửa hàng, kho bãi, không cần nhân viên tiếp thị phải
đi khắp nơi, học trực tuyến không cần trường học, lớp học, đồ dùng dạy học, v.v... hay các
diễn đàn hội thảo không cần hội trường, chi phí đi lại ăn ở cho các đại biểu v.v...
Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không thể thay thế,
mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó đang phát triển mạnh mẽ và ở
nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ đọc báo điện tử, nghe nhạc trực tuyến...). Vì
vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi chúng ta đều phải nhanh chóng thích nghi với những thay
đổi mới của thế giới nếu như không muốn tụt hậu.
88
2. Ứng dụng CNTT&TT trong việc dạy và học
2.1. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay
Từ khá sớm, các trường học trên nhiều tỉnh thành đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào
giảng dạy. Hầu hết các trường đều có phòng máy tính riêng. Tuy nhiên, những trang thiết bị này
thường chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành môn Tin học (chỉ là một môn trong rất nhiều
môn học), hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử.
Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết
những ứng dụng to lớn của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử
dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác
như: Toán, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ v.v...
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết các
giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các sinh viên sư phạm cũng

đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình
khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến
khích và coi khả năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do
đó, các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet,... thường được các giáo viên tham gia
rất đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần
mềm. Ở các tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc
giảng dạy bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất nhiều, phong
phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website đào tạo trực tuyến, các
phần mềm multimedia dạy học,... Trên thị trường có thể dễ dàng lựa chọn và mua một phần
mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các
"Sách giáo khoa điện tử" không tỏ ra nổi trội hơn SGK truyền thống, Website đào tạo từ xa khó
triển khai rộng được vì Internet ở VN còn là một vấn đề lớn. Các phần mềm dạy học cho học
sinh, dù đã có rất nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự giao tiếp giữa máy
với người chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò...
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các tiết giảng
mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được hiệu quả, vì sản phẩm
cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây dựng rất lớn (vài chục triệu
đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau được. Nó thậm chí còn có thể gây phản
tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo
án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy...
2.2. Một số giải pháp và đề xuất trong việc sử dụng CNTT trong dạy và học
2.2.1. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT trong dạy
và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy tính), và e-learning
(học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết bị
như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ truyền tải kiến thức
đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh,
âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác người và máy.

- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà giáo viên
đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có thể trao đổi trực
tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình thức E-learning là lấy
người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học tập của mình, giáo viên chỉ
đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và e-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào dạy và học
khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy người dạy làm trung
tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là hình thức học hoàn toàn mới,
89
lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam
nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này, trong đó có không ít các chuyên giá giáo dục,
nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, trong tài liệu này,
chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và e-learning để có thể hiểu
rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương pháp
dạy học truyền thống. Vẫn dựa trên những
hình thức cơ bản của một lớp học thông
thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học. Người
học có thể học riêng rẽ, học ở nhà hoặc ở
nơi làm việc. E-learning khai thác được tối
đa sức mạnh của thế giới Internet: khả năng
phổ biến rất cao (có thể 1 bài giảng hàng
triệu người học), hay có khả năng cập nhật
các thông tin mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần trang
bị cho lớp học máy tính, máy chiếu và các
thiết bị multimedia.
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp học

phải là một phòng máy tính nối mạng
Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải có
máy tính riêng và những phần mềm chuyên
dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả những
thế mạnh của phương pháp dạy học truyền
thống (dựa trên giao tiếp thầy-trò) và khai
thác được những ưu thế của các công nghệ
hiện đại (ví dụ những bài giảng điện tử).
Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy trò.
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì là ở
giáo dục phổ thông, giáo viên không chỉ dạy
kiến thức mà còn phải theo dõi hướng dẫn
cách tư duy. Vả lại học sinh nhỏ tuổi chưa
đủ khả năng để làm chủ được quá trình học
tập của mình.
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau đại
học và những người đã đi làm.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở Việt
Nam hay dùng phổ biến hiện nay như dùng
Powerpoint, Violet để thiết kế bài giảng và
dạy học dùng máy chiếu. Những kết quả thu
được là rất đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở Việt
Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH có hệ
thống e-learning riêng như ĐH Sư phạm
HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần Thơ,...
Các công cụ tạo bài giảng cho CBT gọi là
các Authoring Tools như là Powerpoint,

Violet, Impress, Author-ware
Các công cụ tạo bài giảng cho e-learning thì
tuân theo một chuẩn chung để đưa lên
mạng, trong đó nổi tiếng nhất là chuẩn
SCORM.
2.2.2. Tích cực sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy
Từ nhiều năm nay, ở các trường phổ thông cũng đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy
sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu (projector),...
Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì nó có
thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,...)
đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video...). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây
dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử,
trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần
mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học
sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
90
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy học,
nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên, không phải là
học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy-trò, chứ không phải
giao tiếp máy-người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm
nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào
trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết dạy
của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống
và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, nếu đầu tư xây dựng các bài giảng đóng gói đơn lẻ như sau thì dễ thấy những
mặt hạn chết như sau:
- Tính cứng nhắc trong nội dung bài giảng: Các bài giảng điện tử xây dựng theo mô hình
trên thường không thể ứng dụng trên quy mô rộng được. Một bài giảng do giáo viên này thiết
kế khó có thể áp dụng cho một giáo viên khác vì mỗi người sẽ có một phương pháp giảng dạy

khác nhau. Thậm chí với cùng một giáo viên nhưng với những trình độ học sinh khác nhau thì
cũng phải có những bài giảng khác nhau.
- Giá thành cao: Để có được những sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu của các
giáo viên thì đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ thuật viên có đủ chuyên môn và kinh nghiệm làm
việc, phải đầu tư không ít thời gian cho các việc thiết kế, sản xuất và bảo trì phần mềm. Do
vậy, nếu tính theo giá thị trường thì giáo viên khó có thể đáp ứng được, thậm chí đối với một
trường học thì giá thành cũng là một vấn đề lớn.
- Sự áp đặt máy móc: Hiện nay, nhiều cơ quan trong ngành Giáo dục hay các Sở Giáo
dục địa phương cũng thường đầu tư xây dựng hoặc mua phần mềm hỗ trợ giảng dạy, sau đó
đưa về các trường để sử dụng. Tuy nhiên, giáo viên phải tâm đắc với phần mềm nào thì quá
trình giảng dạy mới đạt hiệu quả. Mọi sự áp đặt từ cấp trên đưa xuống sẽ trở nên vô nghĩa.
Phương pháp giảng dạy tốt nhất là do giáo viên trực tiếp đứng lớp quyết định, không phải một
người khác sáng tác ra để áp đặt cho họ. Thậm chí việc áp đặt còn có thể gây ra hiệu quả xấu
khi tạo cho người giáo viên tính lười soạn bài, không phát huy tính sáng tạo trong giảng dạy và
cũng không nắm rõ được những ý đồ sư phạm trong một bài giảng.
Chỉ có một cách duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để có thể tự xây
dựng các bài giảng cho riêng mình. Tuy nhiên, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử
dụng thành thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm
các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét...
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng trung
bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình ảnh động hoặc
lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh sửa được các tư liệu hình
ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên tập lại các đoạn phim, dịch thuyết
minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v... đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập
được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ,
họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT” khi các
giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên giáo viên thường
hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ như sử dụng Powerpoint
“bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần như đọc lại nội dung đó. Phương

pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng,
vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm
theo. (xem thêm bài báo ở phần Phụ lục “Thuyết trình bằng Powerpoint là một thảm họa” và ý
kiến của một giáo viên về Giáo án điện tử).
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được rằng: cách
sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt để các nội dung tư
liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh, phim, Flash,...). Một lý do quan
trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa
một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư
liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn.
91
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu như
Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như Wikipedia, YouTube,...
đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và đào tạo như Thư viện tư liệu giáo
dục tại (cung cấp các tư liệu giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư
viện bài giảng điện tử tại (cung cấp các bài giảng tham khảo có chất
lượng để giáo viên học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).
2.3. Sử dụng các phần mềm tiêu biểu phục vụ cho công tác giảng dạy
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính. Có thể
phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh, bảng tính, gõ
tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử...) và các phần mềm chuyên dụng, cụ thể đối với giáo
viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint, Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng
để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v...
2.3.1. Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi người, từ
cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm quan trọng có thể kể
ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft Office)
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo cáo, kế
hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn giáo án vừa có thể
in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng Internet.

Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi phí tài
chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể đưa vào những
phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng.
Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà các đơn vị
hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ hoặc gọi điện thoại
(thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường ngày. Ngày nay thư điện tử đã
được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn
giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ
việc quản lý và gửi nhận thư điện tử rất dễ dàng.
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các văn bản, thư
tín,... Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là Unicode hay TCVN,... Đặc
biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có thể đọc được những văn bản
không dùng Unicode mà máy tính không có font chữ tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản
từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã
TCVN, còn miền Nam thì dùng mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều tính năng từ
nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức năng cơ bản thì giáo
viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay dù làm bài giảng hay báo cáo,
kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh chụp hoặc hình vẽ).
2.3.2. Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, chúng tôi khuyến khích học và sử dụng các
phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc giảng dạy.
Microsoft Powerpoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn để làm bài
giảng điện tử. Powerpoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho phép tạo được các
hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện đẹp.
Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng phần mềm
Powerpoint, tuy nhiên, xu hướng đang chuyển dần sang các phần mềm khác hiện đại hơn, dễ
dùng hơn và không gặp phải vấn đề bản quyền.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được những bài
giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp (sử dụng với máy

chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương tự như Powerpoint nhưng
92
Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt, dễ dùng, có những năng chuyên dụng
cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt
là khả năng gắn kết được với các phần mềm công cụ khác.
Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh động, các hiệu
ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng và tương tác sinh động,
hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người sử dụng cũng phải ở mức khá và phải thực
hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để tạo cả một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều
công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư liệu rồi kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo
thành một bài giảng hoàn chỉnh.
2.4. Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến
Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu, nhưng
như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề cần lo lắng vì Internet đã
chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân loại với hàng tỷ tư liệu
và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó luôn được cập nhật từng ngày,
từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên trong việc ứng dụng
CNTT trong dạy học là phải biết khai thác nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy như sau:
a) Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình xã hội, nội
dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng người tham gia xây dựng lên
đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện các thư viện nổi tiếng như:
- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa toàn thư
khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu tình nguyện viên trên
thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức khoa học phổ thông đến các
nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử những người nổi tiếng cho đến những
vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v...
- Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng ta có thể dễ
dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt Nam cũng có trang

chia sẻ video riêng ở địa chỉ Clip.vn
- Thư viện tư liệu giáo dục là trang web chia sẻ các tư liệu phim, ảnh,
flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện là trang web chia sẻ tư liệu
dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư liệu.
- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là . Đây là trang
web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời tham khảo các bài
giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Hiện tại trang web đã có trên
200.000 thành viên tham gia, với hàng triệu lượt truy cập mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên
đến 50.000 bài giảng và giáo án.
- Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ . Đây là trang web tập hợp
các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ GD&ĐT với các trường Đại
học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN, ĐH Sư phạm HN, Đại học Cần Thơ,... Tuy
nhiên đây không phải là trang web cộng đồng nên lượng thông tin không lớn và không được
cập nhật thường xuyên.
b) Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo.
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng



Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất của nền khoa
học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một nơi. Có thể nói chúng ta cần bất
cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có cung cấp cho chúng ta gần như ngay lập tức, từ
hàng chục tỷ trang web và nguồn tài nguyên khác nhau trên mạng Internet.
93

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×