Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

DSpace at VNU: Hợp tác doanh nghiệp-viện trowngf trong môi trường chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.13 MB, 5 trang )

52
52

Bản
Bảntin
tinĐại
Đạihọc
họcQuốc
Quốcgia
giaHà
HàNội
Nội


HễẽP TAC DOANH NGHIEP - VIEN/TRệễỉNG

TRONG MOI TRệễỉNG

CHNH SACH CONG
Vế TềNG XUN

Ti Vit Nam, s hp tỏc Vin/Trng vi Doanh
nghip cú th c gii thớch qua nguyờn lý
giỏo dc ca chỳng ta l o to - nghiờn
cu - phc v sn xut. Gn õy hp tỏc ny
ó ni lờn thnh mt chuyờn ln bt u t
hai HQG H Ni v TP H Chớ Minh v lan ra
nhiu trng i hc.

S
S271


271--2013
2013

53
53


GIỚI THIỆU CHUNG
Căn bản của sự giàu mạnh của mỗi quốc
gia là do có được một hệ thống giáo
dục lành mạnh, chất lượng hiện đại. Sự
đào tạo một cách cơ bản, chính xác,
hiện đại ngay từ lúc đứa bé bước vào
nhà trẻ và mẫu giáo cho đến khi tiếp
thu vừa và đủ kiến thức văn hóa và khoa
học – công nghệ tại trường đại học hoặc
cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ
(KHCN) sẽ giúp mỗi thành viên xã hội
nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế thể hiện bởi
các doanh nghiệp trong nước. Thoạt
đầu những dịch vụ giáo dục và nghiên
cứu khoa học, bao gồm các trường đại
học và trung tâm nghiên cứu, là do Nhà
nước cung cấp cho dân. Về sau, kinh phí
nhà nước không kham nổi trong khi nhu
cầu của dân ngày càng lớn về khoa học
và công nghệ. Do đó các doanh nghiệp
(DN), nhất là DN vừa và nhỏ gặp khó


54

Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội

khăn, khó đổi mới để cải tiến sức cạnh
tranh. Ở nhiều quốc gia tiên tiến, chính
phủ đã có sáng kiến tổ chức những
chương trình hợp tác đồng hành công tư
(HTĐHCT) giữa doanh nghiệp tư nhân và
cơ quan đào tạo và nghiên cứu của nhà
nước (public-private partnership – gọi tắt
là PPP) để tận dụng các nguồn lực tạo sản
phẩm mới, nâng cao hơn nữa tính cạnh
tranh quốc gia.
Ở nước ta cho tới nay, nhìn chung phần
lớn các sản phẩm quốc gia của chúng ta
chưa có tính cạnh tranh cao. Chúng ta
chưa có những người giàu như Toyota,
Bill Gates… làm giàu bằng khoa học
công nghệ của chính họ cộng tác với
những chuyên gia cần thiết. Chúng ta
cũng đã nói đến việc hợp tác liên kết “ba
nhà” hoặc “bốn nhà” trong đào tạo sinh
viên, hoặc trong sản xuất nông nghiệp
hoặc công nghiệp. Nhưng thực chất
những liên kết đó tập trung cho việc đào

tạo của các trường đại học là chính. Tại
cuộc tọa đàm “Doanh nghiệp Khoa học
và Công nghệ” tổ chức bởi Tạp chí Tia

Sáng tại Bình Dương vào tháng 3/2013,
có nhiều mô hình HTĐHCT đã đem lại
những đổi mới công nghệ giúp doanh
nghiệp phát triển đồng thời sử dụng tốt
nguồn lực về chuyên gia cũng như trang
thiết bị của các viện/trường. Tiêu biểu
nhất đúng nghĩa HTĐHCT là quá trình
liên kết rất sáng tạo mà lãnh đạo của
Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng
Đông đã tìm đến Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội và Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội để hợp tác nghiên cứu đổi
mới công nghệ của công ty, nâng tầm
cạnh tranh của bóng đèn Rạng Đông.
Qua buổi tọa đàm này người ta đã nhận
ra những ưu điểm mà các bên trong tổ
hợp HTĐHCT đã thể hiện, nhưng đồng
thời cũng thấy vắng bóng can thiệp của
chủ thể quan trọng nhất của mỗi quốc
gia: Nhà nước. Dự thảo Luật Khoa học


HỢP TÁC ĐỒNG HÀNH CÔNG TƯ TRÊN
THẾ GIỚI
Cộng đồng châu Âu (EU) đã tiên phong
có chính sách bắt buộc các trường đại
học trong khối EU phải cộng tác với nhau
và với các doanh nghiệp. Về sau, họ qui
định cả trong các chương trình viện trợ
quốc tế cũng phải có liên kết kiểu “ba

nhà.” Ba cơ quan công gồm Hiệp hội
các trường đại học châu Âu (European
University Association), Liên hiệp các Tổ
chức Nghiên cứu và Công nghệ châu
Âu (European Association of Research
and Technology Organizations), Hiệp
hội Quản lý nghiên cứu Kỹ nghệ châu
Âu (European Industrial Research
Management Association) và Công ty tư
nhân ProTon Europe đã được giao soạn
thảo một tài liệu “Hợp tác đồng hành
Có Trách nhiệm – Hợp lực trong một thế
giới tự do đổi mới: Hướng dẫn hợp tác
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
giữa khoa học và doanh nghiệp”. Đây
là một cẩm nang mà tất cả các Trường
đại học và Viện nghiên cứu của Khối EU
phải theo nếu muốn có kinh phí của EU.
Họ hướng dẫn từ khâu “Thế nào là đối
tác có trách nhiệm”, “Nhu cầu nhân
lực”, “Yếu tố con người trong hợp tác
hữu hiệu”, “Xác định những đối tác
thích hợp”, “Xây dựng thỏa ước hợp tác
nghiên cứu”, “Vấn đề pháp lý của việc
hợp tác”. Quyển hướng dẫn này (EUA,
EARTO, EIRMA, PROTON EUROPE, 2009)
gồm có cả các biểu mẫu các bên hợp tác
cần ghi theo đúng.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương
liên kết này, EU giao cho Trung tâm

Nghiên cứu Tiếp thị Liên kết Trường
với Doanh nghiệp (School-to-Business
Marketing Research Center, 2009) của
Đại Học Munster, Đức, đánh giá kết quả
liên kết HTĐHCT của các nước châu Âu
và đã chọn 30 mô hình tiêu biểu nhất.

Báo cáo cho thấy chủ trương liên kết hợp
tác Đại học - Doanh nghiệp (UniversityBusiness Collaboration viết tắt UBC) do
sự tài trợ của Nhà nước (EU) đem lại lợi
ích của các bên tham gia và cả xã hội.
Nếu UBC được hiểu là sự chuyển tiếp
giữa các viện trường và doanh nghiệp để
hai bên đều có lợi, thì sự phổ biến chủ
trương UBC rộng rãi và rút kinh nghiệm
tốt có thể giúp các trường đại học giảm
bớt khó khăn về ngân sách ngày càng eo
hẹp, giúp doanh nghiệp gia tăng và duy
trì khả năng cạnh tranh trong thị trường
quốc tế năng động, góp phần vào sự
phát triển kinh tế trong nước và trong
vùng, đồng thời thỏa mãn được nhu cầu
thị trường nhân lực có chuyên môn và kỹ
năng cao. Nhìn như thế thì mỗi UBC có
hiệu quả sẽ mang lại lợi ích cho mọi bên
tham gia và cho cả xã hội.

Partnership Unit, 2011). Hội đồng Khoa
học Quốc gia Mỹ (NSB, 2012) vừa có
một báo cáo chuyên đề về “Nghiên

cứu & Phát triển (R&D), Đổi mới, và Lực
lượng Khoa học & Kỹ nghệ” cho thấy
một viễn cảnh tạm gọi là “hệ sinh thái
của sự đổi mới” (innovation ecosystem)
trong đó các hoạt động R&D là động lực
ươm mầm của các đổi mới. Tỉ lệ hợp tác
giữa nhà nước và tư nhân cho thấy thành
phần tư nhân ngày càng tăng. Sự hợp
tác công-tư sẽ hỗ trợ cho hệ sinh thái này
phát triển lên, không chỉ nhờ R&D mà
còn nhờ giáo dục và khả năng ứng dụng
công nghệ. Báo cáo này đã đưa ra một
sơ đồ về “hệ sinh thái của đổi mới”.

KHOA HỌC & PHÁT TRIỂN

và Công nghệ (KH&CN) (sửa đổi 2013)
có đề cập một ít về khía cạnh sử dụng
kinh phí tư nhân trong công tác KH&CN.
Khi luật được thông qua, những văn bản
dưới luật sẽ cụ thể hóa được chủ trương
HTĐHCT của Nhà nước phù hợp với điều
kiện nước ta.

TÌNH HÌNH HỢP TÁC ĐỒNG HÀNH
CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM

Ở Hoa Kỳ, việc hợp tác nhiều bên để
nghiên cứu và phát triển đã được Giáo


Tại Việt Nam, sự hợp tác Viện/Trường với
DN có thể được giải thích qua nguyên
lý giáo dục kiềng ba chân: “đào tạo nghiên cứu - phục vụ sản xuất”. Nguyên

sư John Donahue (2004) tổng hợp đánh
giá rất cao. Ông chỉ ra rằng ngoài khu
vực nhà nước, xã hội có rất nhiều người
tài giỏi trong tất cả các lĩnh vực từ công
nghiệp đến sản xuất nông nghiệp cần
phải được sử dụng. Còn có nhiều tổ chức
phi chính phủ có khả năng tài chính có
thể kết hợp được. Nhà nước có vai trò
lập chính sách ưu đãi hợp lý để tác động
cho sự hợp tác nhiều bên này. Tuy nhiên
các bên hợp tác cần cảnh giác vì có thể
bí mật của mình bị một trong các bên
kia ăn cắp (Counterintelligence Strategic

lý này được áp dụng trước tiên vào lĩnh
vực nông nghiệp tại Trường Đại học Cần
Thơ, nơi đào tạo cán bộ nông nghiệp
có kiến thức và kỹ năng chuyên môn
và nghiên cứu ứng dụng thích hợp với
nông nghiệp Việt Nam. Từ năm 1976, để
nắm rõ những nhu cầu về kỹ thuật sản
xuất của nông dân, các giáo sư của Khoa
Nông nghiệp ĐH Cần Thơ đã về các địa
phương gặp gỡ các nông gia (những nhà
“doanh nghiệp một thành viên”) để tìm
hiểu những trở ngại trong sản xuất. Sau

đó các giáo sư sinh hoạt với sinh viên và

Số 271 - 2013

55


cử sinh viên về đồng ruộng thực hiện
những thí nghiệm ứng dụng cùng nông
gia, rồi truyền đạt kỹ thuật vừa tìm ra tại
thời điểm đó cho nông dân trong vùng.
Kết quả của sự cộng tác Trường và Nông
dân đồng bằng sông Cửu Long đã đem
lại lợi ích cho các bên và đã góp phần
to lớn giúp đất nước ta có dư thừa lúa
gạo trở thành quốc gia xuất khẩu gạo
đứng hàng nhất-nhì thế giới. Tuy nhiên
ngoài hoạt động hợp tác trong sản xuất
nông nghiệp, hoạt động hợp tác các
lĩnh vực khác rất khó thực hiện vì thiếu
người đầu đàn triển khai. Đó là tình trạng
chung của các viện/trường, dẫn đến dư
luận cho rằng sản phẩm của trường đào
tạo ra không thích hợp nhu cầu nơi sử
dụng. Gần đây phong trào hợp tác Viện/
Trường-DN đã nổi lên thành một chuyên
đề lớn bắt đầu từ hai Đại học Quốc gia
Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và xuống đến
hầu hết các trường đại học. Trần Anh
Tài và Trần Văn Tùng (2009) đã đưa ra

nhiều thí dụ trong một tập chuyên khảo
về việc liên kết giữa trường đại học và

56

Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội

doanh nghiệp trong hoạt động đào
tạo và nghiên cứu. Gần đây cũng đã
có những hội thảo chuyên đề, đáng kể
như Hội thảo tại Đại học quốc gia Hà Nội
(Phan Huy Hiển, 2009), Viện CNTT&TT
của ĐH Bách Khoa Hà Nội (12/10/2011)
và Đại học Lạc Hồng (ngày 10/10/2012).
Nhìn chung, vấn đề hợp tác Viện với
Trường đã đạt kết quả rất tốt nhờ tận
dụng các nguồn lực: Viện thì giàu thiết
bị, Trường có thầy giỏi. Tuy nhiên các
thảo luận cho đến nay vẫn nhìn nhận
rằng sự hợp tác Viện/Trường với DN hiện
nay vẫn còn nhiều cái khó: chuyên gia
mà doanh nghiệp cần, kinh phí, quan
hệ DN nhận sinh viên thực tập thế nào,
vấn đề quyền tác giả là của ai… Hợp tác
Viện/Trường-DN hầu như do tự nguyện
vì nhu cầu là chính, cho nên chưa có thể
thực hiện đúng tầm cỡ mà dự án mong
muốn vì thiếu kinh phí. Do đó việc hợp
tác này vẫn còn phải cải tiến nhiều hơn
nữa nếu có những chính sách Nhà nước

hỗ trợ hoặc hướng dẫn Trường/Viện và
DN tham gia. Một điển hình đáng biểu

dương trong số DN của ta đã chủ động
sáng kiến tìm đến Viện/Trường để hợp
tác là trường hợp Công ty CP Bóng đèn
Phích nước Rạng Đông. Tuy nhiên sự hợp
tác này mới chỉ ở cấp thấp vì đi lên nữa
thì không có tài chính để triển khai. Nếu
Nhà nước ta cũng có chính sách như một
số quốc gia trên đây thì sự hợp tác của
Công ty Rạng Đông sẽ nở hoa kết trái
gấp nhiều lần, đưa bóng đèn Rạng Đông
đến đỉnh vinh quang hơn nữa, giúp tiết
kiệm điện năng cho quốc gia và tiết kiệm
tài chính cho mọi nhà.
KẾT LUẬN
Chúng tôi mong Luật KH&CN (sửa đổi
2013) sớm ra đời để sau đó có một loạt
các chính sách cụ thể về hợp tác đồng
hành công tư như các nước tiên tiến. Có
hành lang pháp lý đó, vai trò của Nhà
nước sẽ nổi bật lên nhờ xúc tác được cho
trăm ngàn đổi mới công nghệ trong tất
cả các lĩnh vực kinh tế của nước ta.



×