Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa Sư phạm
Các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học
môn ngoại ngữ cho sinh viên hệ chính quy tại
Học Viện Hành chính Quốc gia
Luận văn ThS. Giáo dục học
Trương Thị Thu Thủy
2008
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang cùng nhân loại bước vào nhữmg năm đầu của thế kỷ XXI,
thế kỷ của nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu, thế kỷ của sự bùng nổ thông
tin và khoa học công nghệ. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi con người phải có nhiều
kiến thức, kỹ năng mới và một thái độ tích cực để làm chủ cuộc sống. Xu thế hội
nhập quốc tế ngày nay đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc
được trong một môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hóa. Yêu cầu này làm cho việc
dạy học ngoại ngữ nói chung và dạy học tiếng Anh nói riêng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là trong giáo dục đại
học. Trong bối cảnh đó, ngoại ngữ đã thực sự trở thành một phương tiện giao tiếp,
là chìa khoá mở cửa kho tàng tri thức nhân loại, góp phần to lớn trong công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp chúng ta vững bước trên con đường
hội nhập quốc tế. Ngoại ngữ là công cụ giao tiếp mới, giúp người học nâng cao và
mở rộng tầm hiểu biết của mình qua việc tiếp xúc, tìm hiểu và chọn lọc được
những tri thức văn hoá không những của riêng dân tộc có thứ tiếng đó mà còn của
cả loài người. Thực tế đặt ra cho ngành Giáo dục đối với việc dạy và học ngoại ngữ
là đào tạo ra nguồn nhân lực lao động có chất lượng cao, có khả năng sử dụng
được ngoại ngữ như một công cụ giao tiếp trong công việc hàng ngày.
Quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường. Quản lý tốt hoạt động
dạy - học môn ngoại ngữ sẽ giúp giảng viên và sinh viên có những bước đi đúng
đắn trong từng khâu của quá trình dạy học nhằm đạt được các yêu cầu do mục tiêu
giáo dục đề ra.
Hiện nay, việc quản lý dạy và học ngoại ngữ còn nhiều bất cập, chậm đổi
mới, một số giảng viên giảng dạy qua loa, nhiều sinh viên chỉ chú trọng học để đối
phó với thi cử. Việc dạy và học còn mang nặng tính hình thức, chạy theo thành
tích. Chất lượng dạy và học ngoại ngữ còn thấp, khả năng thực hành tiếng của sinh
viên còn kém, không sử dụng được ngoại ngữ đã học để giao tiếp. Việc đầu tư
trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc dạy và học còn hạn chế hoặc nếu được
trang bị thì hiệu quả sử dụng còn thấp.
Học viện Hành chính Quốc gia là cơ quan có vai trò quan trọng trong đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức, nghiên cứu về hành chính và cải
cách hành chính góp phần thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước nhằm đáp ứng
yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Học viện HCQG có quan hệ hợp tác về lĩnh
vực hành chính với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế: Pháp, Canada, Đức, Italia,
Anh, Nhật Bản........ Vì vậy, việc dạy và học tốt môn ngoại ngữ với sinh viên hệ
chính quy đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của Học
viện và có trình độ ngoại ngữ tốt không chỉ giúp sinh viên tự học, tự nghiên cứu
chuyên môn tốt mà còn giúp ích cho họ công tác tốt khi ra trường.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, là một giảng viên Tiếng Anh, tôi chọn đề
tài: “Các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho sinh viên hệ
chính quy tại Học viện Hành chính Quốc gia” với mong muốn xây dựng được
các biện pháp khả thi và hiệu quả trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn nhằm
quản lý tốt hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ để góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của Học viện.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho sinh
viên hệ chính quy tại Học viện HCQG nhằm nâng cao chất lượng dạy - học môn
ngoại ngữ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện
3. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ ở Đại học
4. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho sinh viên hệ chính quy ở
Học viện HCQG
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một hệ thống các biện pháp phù hợp và khả thi để quản lý
hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho sinh viên hệ chính quy ở Học viện HCQG
thì chất lượng dạy học môn ngoại ngữ sẽ được nâng cao
6. Các nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ
cho sinh viên hệ chính quy ở trường Đại học
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ
cho sinh viên hệ chính quy ở Học viện HCQG
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho sinh
viên hệ chính quy ở Học viện HCQG nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
ngoại ngữ của Học viện
7. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho
sinh viên hệ chính quy tại Học viện Hành chính Quốc gia, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
8. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Bao gồm các phương pháp phân tích,
tổng hợp, hệ thống những vấn đề lý luận có liên quan tới đề tài nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phương pháp điều tra
bằng phiếu hỏi, phỏng vấn đối với sinh viên, giảng viên, cán bộ quản lý; hỏi ý kiến
các chuyên gia; phương pháp quan sát, tổng kết kinh nghiệm giáo dục
- Phương pháp thống kê toán học để xử lý những số liệu thu được từ khảo
sát thực tế
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn dược trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ
cho sinh viên hệ chính quy tại Học viện HCQG
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ cho
sinh viên hệ chính quy tại Học viện HCQG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC
MÔN NGOẠI NGỮ
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Mọi hoạt động của đời sống xã hội trong suốt lịch sử phát triển của xã hội
loài người đều cần tới quản lý. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong
việc điều khiển hệ thống xã hội ở mọi cấp độ. Ở đâu có tập thể, có tổ chức là ở đó
có quản lý. Quản lý xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực
cá nhân hướng tới mục tiêu chung. K. Marx đã nói đến sự cần thiết của quản lý:
“Bất kỳ lao động nào có tính xã hội và chung, trực tiếp được thực hiện với quy mô
tương đối lớn đều ít nhiều cần đến sự quản lý ... một người chơi vĩ cầm riêng rẽ thì
tự điều khiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng”.” [38, 480].
Hiện đang tồn tại rất nhiều định nghĩa về quản lý:
- Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm
làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. [8, 6]
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng bị quản lý) về
các mặt chính trị văn hoá xã hội, kinh tế .. bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ta môi trường
và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. [8, 29]
Từ các định nghĩa trên chúng ta có thể thấy rõ mặc dù các tác giả có các
quan niệm, nhiều cách tiếp cận khác nhau về quản lý nhưng họ đều thống nhất về
bản chất của hoạt động quản lý với một số đặc điểm sau:
- Quản lý luôn luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố chủ
thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý); khách thể quản lý (người bị quản lý,
đối tượng quản lý) gồm con người, trang thiết bị kỹ thuật, vật nuôi, cây trồng và
mục đích hay mục tiêu chung của công tác quản lý do chủ thể quản lý áp đặt hay
do yêu cầu khách quan của xã hội hoặc do có sự cam kết, thoả thuận giữa chủ thể
quản lý và khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối quan hệ tương tác với nhau
giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
- Bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều
khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một
tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục
tiêu đề ra.
Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của quản lý càng được nhấn mạnh và
nội dung của hoạt động quản lý càng phức tạp. Tác động quản lí thường mang
tính tổng hợp gồm nhiều biện pháp khác nhau. Vì vậy, trong quản lý không thể
tuân thủ theo những quy định cứng nhắc mà phải linh hoạt, mềm dẻo. Quản lý
vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Là một khoa học vì các hoạt động
quản lý luôn là một hoạt động có tổ chức, có định hướng trên những quy luật,
những nguyên tắc và phương pháp hoạt động cụ thể. Quản lý đồng thời là một
nghệ thuật vì hoạt động quản lý là một hoạt động thực hành trong thực tiễn vô
cùng phong phú và đầy biến động. Không có một nguyên tắc chung nào cho mọi
tình huống. Nhà quản lý phải làm sao để có thể xử lý sáng tạo, thành công mọi
tình huống nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra, điều đó phụ thuộc vào bí
quyết sắp xếp các nguồn lực, nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, khả năng thuyết
phục, kỹ năng sử dụng biện pháp của từng người.
Như vậy quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội. Chủ thể
quản lý và khách thể quản lý luôn luôn có quan hệ tác động qua lại và chịu tác
động của môi trường. Con người là yếu tố trung tâm của hoạt động quản lý vì
thế quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Người quản lý phải nhạy
cảm, linh hoạt, sáng tạo và mềm dẻo. Quản lý còn là một nghề. Người ta có thể
nói rằng sự thành công hay thất bại của một tổ chức chính là sự thành công hay
thất bại của chính người quản lý tổ chức đó.
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một dạng hoạt động đặc biệt của con người, nó có từ khi loài
người được sinh ra. Bởi vì trong quá trình lao động, con người có tích luỹ kinh
nghiệm và con người truyền lại cho thế hệ sau, ban đầu là tự phát sau dần trở thành
tự giác, có ý thức, có mục đích và có chương trình. Giáo dục có vị trí, vai trò rất to
lớn trong đời sống xã hội con người, vì vậy QLGD là vấn đề mà các quốc gia trên
thế giới đều quan tâm.
QLGD là một khoa học quản lý chuyên ngành được nghiên cứu trên nền
tảng của khoa học nói chung đồng thời cũng là bộ phận của khoa học giáo dục.
Cũng giống như khái niệm quản lý, khái niệm QLGD có nhiều cách hiểu và được
nhiều tác giả định nghĩa khác nhau.
Có thể khái quát như sau: QLGD là hệ thống những tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh,
đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường làm cho quá trình này
hoạt động để đạt những mục tiêu dự định, nhằm điều hành phối hợp các lực lượng
xã hội thúc đẩy mạnh mẽ công tác giáo dục thế hệ trẻ, theo yêu cầu phát triển xã
hội. Trong QLGD, quan hệ cơ bản là quan hệ giữa người quản lý với người dạy và
người học, ngoài ra còn các mối quan hệ khác như quan hệ giữa các cấp bậc khác,
giữa giảng viên với sinh viên, giữa nhân viên phục vụ với công việc liên quan đến
hoạt động giảng dạy và học tập, giữa giảng viên - sinh viên và cơ sở vật chất phục
vụ cho giáo dục.
Ngày nay, theo quan điểm học tập thường xuyên, học tập suốt đời, giáo dục
không còn giới hạn cho thế hệ trẻ mà là giáo dục cho mọi người, cho nên QLGD
được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu:
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Theo lý luận giáo dục hiện đại, QLGD được hiểu như “việc thực hiện đầy đủ
các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đối với toàn bộ các hoạt
động giáo dục “[9, 17]. Quá trình của hệ quản lý này dựa trên cơ sở của việc ra
những quyết định đúng đắn, việc điều chỉnh linh hoạt và việc xử lý thông tin về các
hoạt động giáo dục một cách kịp thời.
Trong cuốn Giáo dục học, Phạm Viết Vượng đã viết: “Mục đích cuối cùng
của quản lý giáo dục là tổ chức giáo dục có hiệu quả để đào tạo ra lớp thanh niên
thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và xã hội” [35, 206].
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang khái niệm quản lý giáo dục là khái niệm
đa cấp (bao hàm cả quản lý hệ thống giáo dục quốc gia, quản lý các phân hệ của
nó, đặc biệt là quản lý trường học) “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất
của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới
về chất”. [30, 35]
Từ những định nghĩa trên ta thấy khái niệm: “Quản lý giáo dục” có nội hàm
rất linh hoạt, nếu hiểu giáo dục là các hoạt động giáo dục diễn ra trong nhà trường
hay ngoài xã hội thì QLGD là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội, lúc đó
QLGD được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Còn chỉ nói đến hoạt động trong ngành
giáo dục đào tạo thì lúc đó QLGD sẽ được hiểu là quản lý một số cơ sở giáo dục đào tạo (là quản lý nhà trường) và quản lý một số cơ sở giáo dục - đào tạo ở một bộ
phận hành chính nào đó (huyện, tỉnh, toàn quốc) ta gọi là quản lý một hệ thống
giáo dục. Nghĩa là khái niệm QLGD được hiểu theo nghĩa hẹp hơn. Nhưng rõ ràng
là, dù được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì mục đích cuối cùng của QLGD
vẫn là nâng cao chất lượng giáo dục.
Nói chung, QLGD là một loại hình của quản lý xã hội, là quá trình vận dụng
những nguyên lý, phương pháp, khái niệm ... của khoa học quản lý vào một lĩnh
vực hoạt động cụ thể, một ngành chuyên biệt, đó là ngành giáo dục.
1.1.2.2. Quản lý nhà trường
“Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và từng học sinh”.
QLGD trên cơ sở quản lý nhà trường là một phương pháp QLGD nhằm
mục đích tăng cường phân cấp quản lý nhà trường cho các chủ thể quản lý bên
trong nhà trường với những quyền hạn và trách nhiệm rộng rãi hơn để thực hiện
nguyên tắc giải quyết vấn đề tại chỗ. Quản lý nhà trường thực chất là QLGD
trên tất cả các mặt; các khía cạnh liên quan đến hoạt động giáo dục trong phạm
vi nhà trường. Đó là một hệ thống những hoạt động có mục đích, có kế hoạch
hợp quy luật của chủ thể quản lý giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra đối
với ngành giáo dục trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Quản lý nhà trường gồm:
- Quản lý chương trình dạy- học và giáo dục của nhà trường;
- Quản lý học sinh (quản lý các hoạt động của học sinh);
- Quản lý giáo viên, phát triển nghề nghiệp của người thày;
- Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, thư viện của nhà trường, đảm bảo
cho nhà trường hoạt động để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
1.1.2. Khái niệm hoạt động dạy - học
1.1.2.1. Hoạt động
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, bằng cách tác động vào đối
tượng để tạo ra một sản phẩm, nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân và nhóm xã
hội, hoạt động có những đặc điểm sau:
- Hoạt động bao giờ cũng có đối tượng
- Con người là chủ thể của hoạt động
- Hoạt động được thực hiện trong điều kiện lịch sử - xã hội nhất định
- Hoạt động có sử dụng phượng tiện, công cụ để tác động vào đối tượng.
1.1.2.2. Hoạt động dạy - học
“Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hoạt động dạy và hoạt động
học. Hai hoạt động này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra
nhau. Sự tương tác này giữa dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó hoạt
động dạy giữ vai trò chủ đạo “ [33,52]
Quá trình dạy - học là một hệ thống toàn vẹn, bao gồm ba thành tố cơ bản:
Khái niệm khoa học, dạy và học. Các thành tố của quá trình dạy học luôn luôn
tương tác với nhau theo những quy luật riêng, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn
nhau để tạo nên sự thống nhất biện chứng:
- Giữa dạy với học;
- Giữa truyền đạt với điều khiển trong dạy; và
- Giữa lĩnh hội và với tự điều khiển trong học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Bài học Quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường dành cho lớp cao học QLGD.Hà nội, 2004.
2. Đặng Quốc Bảo. Tổng quan về tổ chức và quản lý dành cho lớp cao học QLGD.
Hà nội, 2004.
3. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng. Giáo dục Việt nam hướng tới tương lai Vấn đề và giải pháp. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2004.
4. LỜ KHỎNH BẰNG. Phát huy nội lực của người học, một phương hướng cơ
bản đổi mới phương pháp dạy học ở đại học, TẠP CHỚ DẠY Và HỌC NGàY NAY
SỐ 4/2-2003.
5. Bộ Giáo dục Đào tạo. Quy chế 04 về tổ chức đào tạo, thi, kiểm tra và cộng
nhận tốt nghiệp ĐH và CĐ hệ chính quy, 1999.
6. Bộ Giáo dục Đào tạo. Quy chế về học sinh, sinh viên các trường đại học, cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy, 2007.
7. Bộ Giáo dục Đào tạo. Đề án giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân Việt nam giai đoạn 2007 –2015. Dự thảo 7/2007.
8. Nguyễn Quốc Chí. Bài giảng Những Cơ sở lý luận QLGD, 2004.
9. Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Những cơ sở khoa học về quản lý
giáo dục. Trường Cán bộ quản lý giáo dục, 1997.
10. Nguyễn Đức Chính - Lâm Quang Thiệp. Bài giảng đo lường - đánh giá kết
quả học tập của học sinh, sinh viên, Hà nội, 2005.
11. Công đoàn giáo dục Việt nam. Đổi mới phương pháp dạy - học ở Đại học và
Cao đẳng. Kỷ yếu hội thảo. Nxb Giáo dục Hà nội, 2003.
12. Đại học ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Những vấn đề cơ bản về dạy học ngoại ngữ, tuyển tập các bài báo khoa học1995-2005, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội
13. Đại học Quốc gia Hà nội, Giáo dục đại học, Hà nội, 2000.
14. Vũ Cao Đàm. Phương pháp luận Nghiên cứu khoa học. Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà nội, 2005.
15. Đảng Cộng sản Việt nam. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, 1996.
16. Nguyễn Minh Đạo. Cơ sở khoa học quản lý. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà nội,
1997.
17. Phạm Minh Hạc. Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục. Nxb Giáo
dục. Hà nội, 1986.
18. Đặng Xuân Hải. Tập bài giảng quản lý nhà nước về giáo dục dành cho lớp
cao học QLGD. Hà nội, 2004.
19. Đặng Xuân Hải. Tập bài giảng quản lý sự thay đổi trong giáo dục dành cho
lớp cao học QLGD. Hà nội, 2004.
20. Nguyễn Thị Phương Hoa. Lý luận dạy học hiện đại, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005.
21. Học viện Hành chính Quốc gia, Quy chế về tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và
công nhận tốt nghiệp đại học; Quy chế công tác quản lý sinh viên. Hà Nội, 2000.
22. KỶ YẾU Học viện Hành chính Quốc gia. Hà Nội, 2005.
23. Đặng Bà Lãm. Quản lý nhà nước về giáo dục lý luận và thực tiễn. Nxb Chính
trị Quốc gia, 2005.
24. Phan Trọng Luận. Tự học - một chìa khoá vàng về giáo dục. Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục số 2, 1998.
25. Luật Giáo dục. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2005.
26. Hồ Chí Minh. Bàn về giáo dục. Nxb Sự thật, Hà nội, 1971.
27. Hồ Chí Minh. Vấn đề học tập. Nxb Sự thật, Hà nội, 1971.
28. Lê Đức Ngọc. Giáo dục đại học - Đại học Quốc gia Hà nội. Số 2,4/2003
29. Dương Đức Niệm. Một số đặc điểm dạy- học ngoại ngữ chuyên ngành ở các
trường đại học không chuyên ngữ, TẠP CHỚ GIỎO DỤC SỐ 86/5-2004.
30. Nguyễn Ngọc Quang. Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục.
Trường Cán bộ QLGD - ĐT Trung Ương, 1999.
31. Nguyễn Ngọc Quang. Lý luận dạy học đại cương. Trường Cán bộ quản lý giáo
dục, 1986.
32. Trần thị Thanh Thủy. Một cách tiếp cận đối với việc đổi mới phương pháp
dạy học ở đại học. Tạp chí Giáo dục số 112, 4/2005
33. Nguyễn Cảnh Toàn. Luận bàn về kinh nghiệm tự học. Nxb Giáo dục, 1999.
34. Nguyễn Cảnh Toàn - Nguyễn Kỳ - Vũ Văn Tảo - Bùi Thường. Quá trình
dạy - tự học. Hà nội, 2001.
35. Phạm Viết Vượng. Giáo dục học. Nxb ĐHQGHN, 2000.
36. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, 1999.
37. Harold Koontz. Những vấn đề cốt yếu của quản lý. Nxb Khoa học Kỹ thuật.
Hà nôi, 1992.
38. K. Marx và F. Engels, Các Mác và Ăng ghen toàn tập - tập 23, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1993.
39. Tài liệu internet.