Đời sống nữ công nhân nhập cư tại khu công
nghiệp Bắc Thăng Long – Hà Nội dưới góc nhìn
Công tác xã hội (Khảo sát tại các khu nhà trọ
thuộc xã Hải Bối, huyện Đông Anh, Hà Nội)
Lê Thị Thu Ngân
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Công tác xã hội; Mã số: 60 90 01 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Năm bảo vệ: 2014
Keywords. Công tác xã hội; Nữ công nhân nhập cư; Đời sống; Khu công nghiệp
Content
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu đáng tự hào và đang ngày càng tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên mọi mặt xã hội, kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, vươn mình ra hội nhập với toàn cầu.
Vào ngày 07 tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Sự kiện này đã khẳng định một vị thế mới của Việt Nam
trên bình diện quốc tế, mở ra một cơ hội lớn cho toàn dân tộc gia nhập vào nền kinh tế toàn
cầu với không ít những thách thức. Mục tiêu của chúng ta là cho đến năm 2020 Việt nam trở
thành một nước công nghiệp phát triển, có thể sánh vai với các nước phát triển trên toàn thế
giới.
Quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng, đời sống vật chất và tinh thần của con người được cải thiện rõ rệt. Sự xuất hiện của
các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà nẵng, Hải phòng, Bình Dương với các
khu công nghiệp mọc lên nhanh chóng đã góp phần không nhỏ trong việc làm “thay da đổi thịt”
đất nước. Khi nói đến các khu đô thị có những bước tiến đột phá, người ta không thể quên kể đến
Hà Nội, với hàng loạt các khu công nghiệp lớn nhỏ, điển hình như khu công nghiệp nghiệp Bắc
Thăng Long, là một trong hai khu công nghiệp lớn nhất Hà Nội.
Hà Nội nằm ở đồng bằng Bắc bộ, tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía
bắc; phía nam giáp Hà Nam và Hoà Bình; phía đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng
Yên; phía tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú Thọ.
Hà Nội nằm ở phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng, vị trí và địa thế thuận lợi cho
một trung tâm chính trị, kinh tế, vǎn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của Việt
Nam.
Hà Nội là thủ đô của đất nước, là thành phố có nền kinh tế phát triển đứng thứ hai trên cả
nước sau thành phố Hồ Chí Minh với hàng loạt các khu công nghiệp lớn với vốn đầu tư nước
ngoài như Quang Minh, Bắc Thăng Long, Thạch Thất – Quốc Oai… Trong thời gian qua Hà Nội
luôn là thành phố thu hút nhiều dân nhập cư từ các địa phương khác. Kết quả điều tra dân số
ngày 01/4/2009 của Tổng cục thống kê dân số của Thành phố Hà nội đạt mốc 6.448.837 người.
Đặc biệt trong vòng 4 năm (2008-2011) dân số Hà Nội đã tăng khoảng 43 vạn người, trong đó
tăng dân số cơ học lên tới 5 vạn người/năm, chủ yếu thuộc các đối tượng trong độ tuổi lao
ộng.Vài ba năm gần đây, số người nhập cư ở Việt Nam ước tính tăng 25-50% và sẽ tăng đáng kể
sau khi nước ta gia nhập WTO [35, tr.5]
Ngân hàng thế giới dự tính: tình trạng nghèo khổ ở đô thị Việt Nam sẽ tập trung chủ yếu ở
nhóm người nhập cư và trong vòng hai thập kỷ tới, mỗi năm sẽ có khoảng 1 triệu người rời nông
thôn ra thành phố. Đây cũng là những nhận định trong báo cáo nghiên cứu về người lao động
nhập cư ở Việt Nam do Actionaid thực hiện, công bố trong Ngày gặp mặt tổng kết tháng đoàn
kết vì người nghèo (4/12/2005) tổ chức tại Hải Phòng.
Kết quả phỏng vấn công nhân từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ra Hà Nội tìm việc cho thấy:
khi lựa chọn doanh nghiệp vào làm việc, 45% lao động thiếu thông tin về tiền lương, 40% thiếu
thông tin về yêu cầu kỹ năng tay nghề; 55% chưa hề được đào tạo nghề, 36% được đào tạo nghề
may và 8% được đào tạo các nghề khác; 62% người ra thành phố làm việc là do gia đình cần
tiền, 72% muốn kiếm được nhiều tiền hơn ở nhà...[35, tr.5]
Với hành trang, trình độ học vấn cũng như kỹ năng tay nghề hạn chế như vậy, họ rất khó
khăn trong tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống nơi đô thị. Trong số 737.500 công nhân đang
làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, 70% là người lao động nhập cư và 60% là phụ
nữ [35, tr.5].
Đề tài này muốn đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng đời sống của nữ công nhân nhập cư
tại khu Công nghiệp Bắc Thăng Long – Thuộc khu vực thành Phố Hà Nội là một trong hai khu
công nghiệp lớn nhất thành phố, để nhìn thấy được những khó khăn mà các chị gặp phải trong
cuộc sống và điều gì khiến cuộc sống của họ bị “cản trở”. Dựa trên những thực trạng đời sống tôi
sẽ gợi ý để xây dựng mô hình câu lạc bộ giáo dục kỹ năng sống cho các nữ công nhân nhập cư.
Nếu ai đã bắt gặp hình ảnh của những chị công nhân nhập cư giờ tan ca thì không thể quên
được dáng vẻ mệt mỏi thể hiện trên từng khuôn mặt, qua những bước chân tưởng chừng như
không nhấc lên được của họ. Những ngày làm việc căng thẳng và biết bao lo toan vất vả đã làm
cho bộ dạng bên ngoài của các chị trở nên tiều tụy và xơ xác.
Bản thân là một người nhập cư sống xa nhà, tự lập trong cuộc sống và có cơ hội chứng
kiến hiện thực cuộc sống của các nữ công nhân nhập cư nên tôi hiểu được phần nào những vất vả
cuộc sống mà các chị đang trải qua. Đó cũng là động lực thúc đẩy tôi thực hiện đề tài này để có
cái nhìn thấu đáo về “Đời Sống của Nữ Công Nhân Nhập Cư tại Khu Công Nghiệp Bắc
Thăng Long – Hà Nội dưới góc nhìn Công tác xã hội (Khảo sát tại các nhà trọ trên địa bàn
xã Hải Bối – Huyện Đông Anh)”. Mong rằng đề tài sẽ đưa ra được một bức tranh chi tiết về
cuộc sống của các nữ công nhân nhập cư cũng như những khó khăn và mong muốn của họ trong
cuộc sống, để từ đó thấy được họ đang cần gì, thiếu gì cho một cuộc sống tốt đẹp hơn.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có khá nhiều các nghiên cứu về công nhân lao động tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn cả nước, trong những nghiên cứu đó cũng có không ít các
nghiên cứu về nữ công nhân nhập cư. Đây là vấn đề chiếm được sự quan tâm từ nhiều các lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau: Kinh tế, xã hội, văn hóa, tâm lý,…Với mỗi lĩnh vực nghiên cứu lại có
những cách thức đánh giá, hướng nghiên cứu khác nhau. Nhưng các nghiên cứu đó đều hướng
tới việc đi sâu tìm hiểu về những khó khăn của công nhân gặp phải trong cuộc sống, trong công
việc từ đó có những giải pháp để hỗ trợ cho quá trình sống và làm việc của họ.
- Các nghiên cứu, bài báo, tạp chí
Kim Anh, Nguyễn Tập và Quốc Linh (2004), “Chuyện dài nhiều tập của công nhân nhập
cư” . Nhóm tác giả đã nói lên được thực trạng đời sống của công nhân nhập cư mà đáng chú ý
hơn cả là nữ công nhân. Các nữ công nhân đều gặp các vấn đề từ nhà trọ đến ăn uống hàng ngày,
thu nhập, tình cảm, sức khỏe…Họ phải sống trong các khu nhà trọ ẩm thấp, dột nát, chật hẹp, ăn
uống thì tằn tiện vì đồng lương quá ít ỏi. Tình trạng sống thử xảy ra đầy rẫy, không nhận được sự
quan tầm về mặt sức khỏe từ phía công ty nên nữ công nhân dễ mắc các bệnh: Đau bao tử, viêm
xoang, viêm phụ khoa…
Phan Thị Mai Hương Viện Tâm lý học làm chủ nhiệm (2011), “Báo cáo kết quả nghiên
cứu về công nhân”. Đề tài đã thực hiện khảo sát với những công nhân trên cả ba miền đất nước
về vấn đề kinh tế - xã hội. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng người công nhân có sự quan tâm đối
với các vấn đề lớn của đất nước nhưng nhận thức còn chưa thực sự đầy đủ, còn có những hạn
chế. Các thông tin về những vấn đề lớn, được nhiều người quan tâm được người công nhân tiếp
nhận chủ yếu qua các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, đài, báo chí. Thậm
chí ngay cả việc tiếp thu thông tin qua các phương tiện truyền thông đại chúng cũng không phải
là nhiều, do phần lớn thời gian người công nhân đành để làm việc, làm tăng ca.., do người công
nhân còn đang phải lo cho cuộc sống hàng ngày, lo kiếm sống. Vì vậy, thông tin thu được cũng
không phải là nhiều. Bên cạnh đó, trình độ học vấn của người công nhân nói chung chưa cao nên
điều này cũng có ảnh hưởng đến nhận thức của họ.
Lê Trọng và Nguyễn Minh Ngọc (2001), “Lao động nữ ra thành phố cư trú tự do tìm việc làm:
thực trạng và giải pháp” . Tác giả đã đưa ra các nguyên nhân của vấn đề lao động nữ ra thành phố cư
trú tự do, bên cạnh nguyên nhân là do kinh tế khó khăn thì còn bao gồm cả nguyên nhân về tinh thần.
Trong bài viết, tác giả cũng nói tới những khó khăn mà nữ công nhân phải đối mặt trong quá trình di
cư đi tìm việc làm.
PTS. Nguyễn Văn Tài và CTV, “Di dân tự do nông thôn – thành thị ở Thành phố Hồ Chí
Minh”, NXB Nông nghiệp, 1998. Tác giả đã giúp người đọc có một cái nhìn tổng quát về vấn đề
di dân tự do từ nông thôn ra thành thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, những tích cực và tiêu cực
của việc di dân tự do đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những
biện pháp vừa mang tính chất dài hạn và ngắn hạn đối với hiện tượng di dân tự do.
Hà Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc, “Lao động nữ di cư tự do nông thôn – thành thị”,
NXB Phụ nữ, 2000. Công trình này đã cung cấp cho chúng ta biết được thực trạng cuộc sống của
lao động nữ di cư tự do từ nông thôn ra thành phố, vấn đề việc làm, thu nhập, điều kiện sống của
họ tại thành phố Họ gặp nhiều vấn đề khó khăn, trở ngại trong cuộc sống như sự bất cập giữa
quyền lợi và nghĩa vụ, giữa năng lực và yêu cầu, giữa đóng góp và hưởng thụ. Theo tác giả cần
phải giải quyết những vấn đề trên bằng những chính sách cụ thể giúp cho cuộc sống của lao động
nữ được cải thiện, được bình đẳng và hưởng các quyền lợi công dân nhằm nâng cao khả năng
đóng góp và vị thế xã hội của họ.
Tổ chức di cư Quốc tế (International Organization for Migration) kết hợp với Trung tâm
thúc đẩy chất lượng cuộc sống một tổ chức phi chính phủ địa phương “Nghiên cứu về Bạo lực
Giới đối với các Phụ nữ di cư là Công nhân nhà máy”. Nghiên cứu này thực hiện tại các khu
công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực xung quanh, thời gian nghiên cứu từ
tháng 10/2006 đến tháng 6/2007. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm cải thiện hiểu biết về tình
trạng bạo lực đối với nữ công nhân di cư ở Việt Nam và cung cấp thông tin chính xác về nhận
thức, trải nghiệm và phản ứng của phụ nữ di cư đối với bạo lực giới mà có thể được sử dụng để
hỗ trợ các nỗ lực vận động thông qua xây dựng chính sách và chương trình.
Sáng ngày 3/12/2013, tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam và Tổ chức
Action Aid tổ chức hội thảo công bố kết quả Đề tài nghiên cứu “Thực trạng mức sống của lao
động nữ nhập cư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN - KCX) hiện nay”. Báo cáo công
bố kết quả Đề tài nghiên cứu cho thấy: Việt Nam có 15 triệu công nhân, lao động đang làm việc
trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; gần 2 triệu công nhân, lao động làm việc tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong đó gần 70% là lao động nữ. Sự gia tăng nhanh chóng
số lượng công nhân lao động nhập cư đã tạo áp lực lớn và những hệ lụy trong đời sống văn hóa xã hội ở các địa bàn dân cư. Nghiên cứu đã chỉ ra được những hạn chế trong thu nhập của đa số
công nhân, trong đó có nữ công nhân nhập cư. Họ đã bị doanh nghiệp chèn ép, sẵn sàng cắt tiền
lương khi doanh nghiệp khó khăn và thông thường chỉ trả lương bằng mức lương tối thiểu. Đứng
trước những khó khăn đó nữ công nhân đã phải đi kiếm các công việc làm thêm khác để tăng
thêm thu nhập và cải thiện cuộc sống.
Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực và Actionaid, “Tác động của khủng hoảng
kinh tế tới đời sống, việc làm của công nhân nữ nhập cư và nguy cơ buôn bán người” . Nghiên
cứu này được thực hiện từ ngày 05/7/2009 tại một số địa điểm ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, đến ngày 08/9/2009 nghiên cứu được công bố tại Hà Nội trong Hội thảo do
trung tâm Hợp tác phát triển nguồn nhân lực và Actionaid phối hợp tổ chức. Qua nghiên cứu này
đã chỉ ra rằng có 28% nữ công nhân nhập cư có hợp đồng lao động không xác định thời hạn và
36% số nữ công nhân nhập cư chuyển chỗ làm từ 1 đến 5 lần trong 5 năm qua. Họ phải làm việc
với cường độ cao nhưng đồng lương lại không tương xứng với sức lao động họ bỏ ra. Họ được
xem là đối tượng chịu sự tác động lớn của khủng hoảng kinh tế nên vấn đề mất việc, thiếu việc,
không tìm được việc làm, dẫn tới nguy cơ là nạn nhận của tệ nạn mua bán người là điều khó
tránh khỏi. Từ đó nghiên cứu cũng đưa ra một số đề xuất cho việc triển khai mô hình hỗ trợ cho
nữ công nhân khi đang làm việc lẫn khi về quê.
Nghiên cứu trên của Trung tâm Hợp tác phát triển nguồn nhân lực (C&D) và ActionAid
Việt Nam “Tác động của khủng hoảng tài chính kinh tế đối với công nhân nữ nhập cư và những
nguy cơ về mua bán người”. Nghiên cứu cho thấy lao động nữ đã và đang chịu nhiều tác động
tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhiều công nhân nữ không biết “mặt mũi” hợp đồng lao
động , nên khi có khủng hoảng kinh tế xảy ra, doanh nghiệp sãn sàng cắt giảm lao động và
nghiễm nhiên họ sẽ mất việc làm. Đứng trước vấn đề mất việc buộc họ phải đi tìm những công
việc khác có thu nhập để trang trải cho cuộc sống hàng ngày, ít người lựa chọn về quê. Chính vì
vậy, việc chấp nhận một công việc nhiều rủi ro, bất chấp hậu quả là điều dễ xảy ra, nhiều chị em
dễ bị lợi dụng, dụ dỗ, lừa gạt vào con đường mại dâm, lấy chồng nước ngoài.
Báo Hà Nội Mới ra ngày 01/5/2013 có bài viết về “Đời sống văn hoá ở các KCN: Gần như
bị lãng quên!”. Trong bài viết này cũng đã đề cập sơ qua một vài nét về nới ăn chốn ở của các
công nhân lao động, tuy nhiên nhấn mạnh đến vấn đề văn hóa, giải trí của công nhân tại đây. Họ
gọi là “Phòng trọ ba không”, không ti vi, không sách báo và không internet. Thời gian chủ yếu
của họ là làm việc tại các công ty, khu chế xuất, họ có thể tan ca là họ lại trở về phòng trọ, họ
luôn trong tình trạng “đói văn hóa” triền mien. Bài viết cũng đã chỉ ra rằng do áp lực về kiếm
sống nên họ đã lãng quên những thứ xa xỉ như “văn hóa”, đây là bài toán đặt ra cho các cấp các
ngành, chính sách nhà nước.
Báo Nhân dân với bài viết “Người lao động chật vật với mức lương tối thiểu”. Trong bài
viết tác giải đã nêu được vấn đề thu nhập thực tế của phần lớn người lao động (NLÐ) trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) hiện nay còn ở mức thấp, hầu như chỉ đủ trang trải
cho cuộc sống cá nhân, ít có tích lũy. Ðối với NLÐ nhập cư nói chung và các lao động nữ (LÐN)
nhập cư đã có gia đình nói riêng, cuộc sống đang gặp không ít khó khăn do mọi chi phí đều trông
vào khoản lương ít ỏi. Bên cạnh đó tác giải còn đề cập đến vấn đề người lao động cần doanh
nghiệp xây dựng nhà gửi trẻ để họ an tầm làm việc.
“ Cực lắm đời công nhân”, www.tuoitre.com. Bài viết đã cho chúng ta biết nỗi cực nhọc
của công nhân tại khu công nghiệp Mỹ Phước. Họ phải tăng ca rất nhiều, thậm chí là làm thâu
đêm, nhưng mức lương mà họ nhận được chỉ từ 1.200.000 đồng đến 1.600.000 đồng. Với mức
lương đó, cuộc sống của công nhân hết sức chật vật trong điều kiện giá cả ngày một tăng cao.
Thêm vào đó, họ còn bị đối xử rất tệ, cụ thể phải làm việc dưới cơn nắng.
“Ăn ở, nghe xem đều thiếu thốn”, www.giaoduc.edu.vn, 10/01/2007. Bài viết phản ánh
cuộc sống của công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất: Tân Bình, Tân Tạo hết sức khó
khăn và thiếu thốn. Họ phải sông trong những khu nhà trọ chật chội và không đảm bảo vệ sinh.
Ngoài ra, bài viết cũng đề cập tới vấn đề nhà ở do doanh nghiệp xây dựng rất ít.
“Đời sống công nhân trước cơn bão giá”, www.quangngai.gov.vn. 21/3/2008. Bài viết đã
cho chúng ta biết cuộc sống vô cùng chật vật của công nhân tại các KCN Quảng Phong, Tịnh
Phong, KCN Phổ Phong tại tỉnh Quảng Ngãi trong “cơn bão” giá vừa qua. Thức ăn của họ chẳng
có gì khác ngoài mấy miếng đậu khuôn, cá kho mặn và rau muống xào bởi tiền lương quá thấp
nên họ chẳng có tiền mà chăm lo cho sức khoẻ. Tìm cách cải thiện cuộc sống vật chất của công
nhân đang là một vấn đề đáng quam tâm tại tỉnh.
“Bức xúc đời sống công nhân”, Thời báo kinh tế Việt Nam. 25/10/2007. Bài viết đã phản
ánh điều kiện làm việc, điều kiện sống của công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất của
Hà Nội chưa đựợc đảm bảo. Việc vi phạm Luật lao động vẫn còn tồn tại trong ký kết hợp đồng
giữa doanh nghiệp và người lao động.
- Các nghiên cứu độc lập
Luận văn tốt nghiệp của Sinh viên Trần Thị Hồng Châu (Khóa 1996 -2000), Khoa Phụ nữ
học, Trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh, “Tìm hiểu đời sống nữ công nhân
nhập cư tại công ty may Việt Tiến”. Nghiên cứu đã nêu ra thực trạng của nhóm nữ công nhân tại
công ty may Việt Tiến về các vấn đề như: điều kiện dự tuyển, quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với
công ty, những khó khăn về thời gian lao động, sức khỏe, mối quan hệ, nơi ở. Nghiên cứu nhấn
mạnh đến những khó khăn trong quá trình làm việc mà công nhân tại công ty đang gặp phải, đó là,
điều kiện làm việc không thoải mái, họ luôn ở trong tình trạng căng thẳng, bị stress.
Nguyễn Thị Chiến, “Nghiên cứu đời sống văn hóa của công nhân các khu công nghiệp
vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh”. Nghiên cứu này được bắt đầu vào
tháng 01/2009, kết thúc vào tháng 12/2010, với việc khảo sát đánh giá thực trạng đời sống văn
hóa của công nhân các KCN trong đó bao gồm: đời sống văn hóa vật chất, đời sống văn hóa tinh
thần của công nhân.Trên cơ sở những nhận định về nguyên nhân chủ quan và khách quan tác
động đến đời sống văn hóa của công nhân, đề tài đề xuất các giải pháp và kiến nghị về nâng cao
đời sống văn hóa cho công nhân các KCN ở Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh.
Bùi Thị Thanh Hà, Viện xã hội học, “Đời sống và việc làm của công nhân xuất thân từ
nông thôn” thực hiện từ tháng 10/2008. Nghiên cứu này đã đề cập đến những khó khăn trong
công việc cũng như trong việc tìm kiếm bạn đời của các công nhân nhập cư. Họ có thể thích nghi
được với cuộc sống nhưng vấn đề tìm được bạn đời là điều khó khăn đối với họ, do điều kiện
kinh tế chưa ổn định, tính chất công việc và các mối quan hệ giáo lưu hạn chế. Vì vậy nhiều các
công nhân đã chọn con đường trở về quê để tìm việc khác và lập gia đình. Bên cạnh đó nghiên
cứu cũng đã nêu ra được những kiến nghị đến các cấp như: Điều chỉnh tăng lương, thiết kế các
khu nhà ở cho công nhân,…
Tiểu luận tốt nghiệp của Sinh viên Vũ Thị Khương (Khóa 1992 -1996), Khoa Phụ nữ học,
Đại học Mở bán công Thành Phố Hồ Chí Minh, “ Việc thực hiện luật Lao động đối với nữ công
nhân ở một vài doanh nghiệp nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh”. Đề tài tiểu luận đã nghiên
cứu việc thực hiện luật lao động tại hai doanh nghiệp dệt may. Tiểu luận đã nêu ra được những
thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện những chính sách lao động cho phụ nữ.
Nguyễn Huyền Lê, Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong bài viết “Rủi ro của lao động
di cư và một số kiến nghị”, đã chỉ ra được các khó khăn và rủi ro mà người lao động nhập cư sẽ
phải đối đầu trong quá trình sống và lao động. Rủi ro về an sinh thấp, nguy cơ bị lừa gạt, khó
khăn nhà ở, rủi ro trong suy giảm sức khỏe,…Thông qua đó tác giả đã đề cập đến những đề xuất
như: Giảm dòng di cư tự do bằng cách phát triển các đô thị vệ tinh tại các vùng nông thôn, tăng
cường cung cấp thông tin cấp xã cho lao động di cư, chính quyền nên có các biện pháp hữu hiệu
để đáp ứng nhà ở,…
Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Ngọc (Khóa 1997 -2001), Khoa Phụ nữ
học, Trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh, “ Khảo sát đời sống và điều kiện
làm việc của lao động nữ nghành dệt may”, ( Điển cứu tại công ty dệt may Việt Thắng và công
ty dệt may Thành Công). Nghiên cứu đã cung cấp những thông tin về đời sống của nữ công nhân
nghành dệt may. Họ thường xuyên phải làm việc trong điều kiện chật hẹp, nóng bức, bụi bặm,
thiếu ánh sang, tăng ca…Nhưng đổi lại hàng tháng họ chỉ nhận được những đồng lương ít ỏi
không đủ để họ có thể có một cuộc sống đảm bảo.
Nguyễn Tín Nhiệm, “Điều kiện lao động của nữ công nhân : Thực trạng và giái pháp” .
Nghiên cứu này được tiến hành trong vòng 3 năm từ 1995 đến 1997, với việc khảo sát trực tiếp
1294 doanh nghiệp trên cả nước, về vần đề môi trường lao động. Nghiên cứu này phản ánh được
tình hình chung về điều kiện lao động của nữ công nhân và từ đó đã nêu ra được một số giải pháp
để khắc phục tình trạng này.
Phạm Thanh Thôi Đại học xã hội và nhân văn, đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
“Đời sống xã hội của thanh niên nhập cư lao động phổ thông tại các cơ sở sản xuất nhỏ ở
Tp.HCM”. Nghiên cứu này chủ yếu tập trung về các khía cạnh đời sống xã hội của thanh niên
nhập cư lao động phổ thông tại các cơ sở sản xuất nhỏ ở TP. Hồ Chí Minh. Các khía cạnh của
đời sống xã hội như mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội, các điều kiện sống, làm việc, thu nhập và
tiếp cận các dịch vụ xã hội đô thị được mô tả và phân tích trong nghiên cứu này. Đời sống xã hội
của thanh niên nhập cư xét trên quan hệ với chủ cơ sở, với các đồng nghiệp tại nơi sống và làm
việc được xây dựng chủ yếu trên nền tảng các quan hệ “tình cảm”, “thân thuộc”, “đồng tộc”,
“đồng hương”. Theo đó, các cơ sở sản xuất nhỏ như là các “hộ gia đình hoạt động kinh tế công
nghiệp” và cũng là các “tiểu văn hóa” đa dạng trong quá trình đô thị hóa ở TP. Hồ Chí Minh.
Leslie T. Chang “Gái công xưởng”. Cuốn sách viết về các cô gái rời quê nhà, hòa mình
vào thế giới công xưởng khắc nghiệt, nơi bạn thậm chí sẽ đánh mất bạn trai chỉ vì đánh mất cái
điện thoại, hoặc một chút kỹ năng sử dụng máy tính sẽ đưa bạn lên một tầng lớp mới trong xã
hội. Trong cuộc vật lộn mưa sinh họ đã nếm trải đủ thành công cũng như thất bại cay đắng. Cuốn
“Gái công xưởng” còn là cuốn sách đầy thương cảm thiết tha lưu lại trong lòng người đọc về
những con người đang hàng ngày tạo ra hàng hóa công nghiệp, tiêu dùng cho chúng ta. Đây là
cuốn sách viết về nữ lao động Trung Quốc nhưng cũng đã phản ánh được những hiện thực tồn tại
mà có lẽ các “thân phận: công nhân đều phải trải qua.
Bùi Thị Thanh Hà, “Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh ở nước ta
thời kỳ đổi mới”, NXB Khoa học xã hội, 2003. Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu đội ngũ giai cấp
công nhân trong các doanh nghiệp liên doanh, mà cụ thể là ngành dệt may, giày da thực phẩm
trong thời kỳ đổi mới của nước ta. Cuốn sách tập trung nghiên cứu về các vấn đề như cơ cấu
công nhân, điều kiện làm việc, các mối quan hệ trong doanh nghiệp liên doanh. Đồng thời, cũng
có đề cập đến cơ hội thăng tiến nghề nghiệp đối với công nhân trong doanh nghiệp liên doanh so
với các doanh nghiệp khác.
Các tài liệu vừa nêu trên phần lớn đã đề cập đến thực trạng các vấn đề của công nhân, công
nhân nhập cư và nữ công nhân nhập cư về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, điều kiện làm việc tại
công ty, các chế độ lao động, mức sống, văn hóa... Và có một số nghiên cứu đã nghiên cứu cụ
thể đời sống của nữ công nhân nhập cư trong nghành dệt may. Nhưng chưa có nghiên cứu nào
đánh giá được hậu quả của thực trạng đời sống nữ công nhân nhập cư, cũng như chưa có nghiên
cứu nào nghiên cứu độc lập vấn đề đời sống của nữ công nhân nhập cư về cả vật chất lẫn tinh
thần. Những nghiên cứu đi trước đã có các khuyến nghị, đề xuất mang tính chung chung tới các
cấp chính quyền nhà nước và chưa có biện pháp hay cách thức nào cụ thể cho những khó khăn
của nữ công nhân.
Kế thừa kết quả của các nghiên cứu trên, tôi tiến hành nghiên cứu chi tiết cuộc sống vật
chất và tinh thần hiện nay của các nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long –
Hà Nội, sau đó đưa ra đánh giá hậu quả của thực trạng đó mang lại trên cơ sở đó sẽ ứng dụng
Công tác xã hội nhóm vào việc hỗ trợ nhằm nâng cao kỹ năng cho nhóm nữ công nhân. Đã có rất
nhiều đề tài nghiên cứu về nữ công nhân nhập cư trên nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chủ yếu
nghiên cứu nữ công nhân nhập cư trên khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh mà chưa có nhiều
nghiên cứu nói tới nữ công nhân nhập cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Đây cũng là một khu
vực tập trung đông đúc các nữ công nhân nhập cư do có rất nhiều khu công nghiệp lớn. Vậy nên
việc nghiên cứu về đời sống nữ công nhân nhập cư tại khu vực khu công nghiệp Bắc Thăng Long
là một nghiên cứu khá mới. Trọng tâm của nghiên cứu là đánh giá được những khó khăn của nữ
công nhân nhập cư trong cuộc sống vật chất, tinh thần cũng như vấn đề chăm sóc sức khỏe hiện
nay đang gặp phải và hiện tại họ có những mong muốn, dự định gì cho cuộc sống, cho tương lai
để từ đó có cái nhìn khách quan về họ, dựa trên những đánh giá có được sẽ đưa công tác xã hội
nhóm vào để hỗ trợ cho họ.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu có cơ hội sử dụng một số lý thuyết Công tác xã hội, lý giải một số vấn đề trong
thực tiễn thông qua việc tìm hiểu đời sống nữ công nhân nhập cư, bao gồm: Lý thuyết nhu cầu
(Maslow), lý thuyết vai trò, lý thuyết hệ thống. Đồng thời vận dụng các phương pháp, kỹ năng
trong công tác xã hội để ưng dụng trong quá trình thực hiện nghiên cứu: Thu thập thông tin, xây
dựng mối quan hệ, thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu,…Ngoài ra nghiên cứu sẽ góp phần củng cố
sâu sắc hơn những hiểu biết về các lý thuyết, phương pháp và kỹ năng Công tác xã hội đã được
học và thực hành.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi hi vọng kết quả của cuộc nghiên cứu sẽ góp phần
vào việc mô tả thực trạng chung, những khó khăn về vật chất lẫn tinh thần, những nhu cầu mong
muốn trong cuộc sống hàng ngày và tương lai của các nữ công nhân nhập cư tại các khu công
nghiệp nói chung và nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long nói riêng, thông
qua đó có thể huy động sự hỗ trợ hợp tác từ nhiều phía nhằm xây dựng thành công mô mô hình
sinh hoạt kỹ năng sống cho các nữ công nhân. Từ đó, các cấp, các cơ quan có trách nhiệm quan
tâm nhiều hơn từ đến đời sống vật chất và tinh thần cho các nữ công nhân nhập cư.
- Hi vọng rằng đề tài này cũng sẽ giúp ích phần nào cho các nhân viên xã hội trong việc đề
ra những hoạt động hỗ trợ, xây dựng được kế hoạch bảo vệ và phát triển cho các nữ công nhân
nhập cư.
- Đề tài góp phần làm phong phú thêm các nghiên cứu về vấn đề nữ công nhân nhập cư
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tư liệu tham khảo thông tin học tập cho các sinh
viên ngành xã hội học, đô thị học, công tác xã hội, cũng như cho các tổ chức quan tâm tới vấn đề
công nhân nhập cư nói chung, và nữ công nhân nhập cư nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp thêm số liệu cho các cơ quan đoàn thể để họ
có thể nhận thấy được những khó khăn mà nữ công nhân nhập cư đang gặp phải một cách cụ thể
và rõ nét hơn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm nhận diện và mô tả thực trạng chung về đời sống của nữ công nhân nhập
cư để từ đó có thể chỉ ra được những khó khăn cũng như thuận lợi trong cuộc sống của họ. Kết
quả thu thập được cũng là nền tảng để nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị gửi các cấp có liên
quan góp phần cải thiện được cuộc sống hiện tại và tạo cơ hội cho nữ công nhân có một cuộc
sống ổn định hơn. Với tư cách là nhân viên Công tác xã hội, tác giả sẽ lựa chọn một nhóm nữ
công nhân có chung nhu cầu trợ giúp để áp dụng công tác xã hội nhóm trong việc can thiệp nhằm
đáp ứng nhu cầu của họ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những đặc điểm của nhóm nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc
Thăng Long
Phân tích được đời sống của nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng
Long qua các khía cạnh về thu nhập, các khoản chi tiêu, nhà ở, chế độ dinh dưỡng, tài sản, thời
gian tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, vấn đề chăm sóc sức khỏe, mức độ hài lòng của họ
với cuộc sống hiện tại
Ứng dụng Công tác xã hội nhóm trong việc cung cấp kiến thức về phòng tránh thai và
nạo hút thai an toàn cho nhóm nữ công nhân nhập cư
Đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhóm nữ
công nhân nhập cư
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đời sống nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng
Long – Hà Nội
- Khách thể nghiên cứu:
+ Nữ công nhân nhập cư
+ Người nhà (nếu có) của các nữ công nhân nhập cư
+ Hàng xóm, chủ các khu trọ của các nữ công nhân nhập cư
+ Chính quyền địa phương nơi nữ công nhân thuê nhà trọ
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian
Thời gian nghiên cứu sẽ được thực hiện trong vòng 4 tháng (từ tháng 4/2014 đến hết tháng
8/2014)
- Phạm vi không gian
Đề tài được hành nghiên cứu tại các khu trọ trên địa bàn xã Hải Bối, huyện Đông Anh, Hà
Nội
- Giới hạn nội dung nghiên cứu
+ Tìm hiểu thực trạng đời sống của nữ công nhân nhập cư thông qua các chỉ báo về thu
nhập, các khoản chi tiêu, tài sản có được, nhà ở, chế độ dinh dưỡng, thời gian tham gia các hoạt
động vui chơi giải trí, vấn đề sức khỏe và khám chữa bệnh
+ Tìm hiểu những mong muốn về khía cạnh kinh tế, đời sống tình cảm, vui chơi giải trí của
nữ công nhân nhập cư trong thực tế cuộc sống hiện nay
+ Vận dụng Công tác xã hội nhóm trong việc cung cấp kiến thức về phòng tránh thai và nạo
hút thai an toàn cho nhóm nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp
7. Câu hỏi nghiên cứu
- Những đặc điểm chính của nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long là
gì?
- Đời sống hiện tại của nữ công nhân nhập cư ra sao xét theo các khía cạnh về đời sống vật
chất, tinh thần cũng như vấn đề chăm sóc sức khỏe?
- Nhân viên Công tác xã hội có thể làm gì để giúp đỡ cho nhóm nữ công nhân nhập cư tiếp
cận các kiến thức về phòng tránh thai và nạo hút thai an toàn?
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhóm nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long đến từ nhiều vùng
miền khác nhau, có trình độ học vấn tương đối thấp, họ xuất thân chủ yếu từ nông nghiệp hoặc
chưa có việc làm trước khi đến khu công nghiệp, phần lớn trong số họ chưa lập gia đình.
- Cuộc sống hiện tại của các nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long
đang gặp nhiều khó khăn về cả vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe và
chăm sóc sức khỏe sinh sản.
- Nhân viên Công tác xã hội có thể vận dụng phương pháp Công tác xã hội nhóm trong can
thiệp, trợ giúp cho nhóm nữ công nhân nhập cư về phòng tránh thai và nạo hút thai an toàn.
9. Phương pháp nghiên cứu
9.1. Phương pháp luận
Với đề tài này sẽ đi sâu phân tích thực trạng đời sống của nữ công nhân nhập cư tại khu
công nghiêp Bắc Thăng Long về các khía cạnh đời sống như: Chế độ ăn, thời gian nghỉ ngơi, công
việc, vui chơi giải trí, và đặc biệt quan trọng là tìm hiểu những mong muốn hiện tại của các chị về
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dựa trên những thực trạng có được qua quá trình phân tích sẽ đánh giá
hậu quả của những tác động tiêu cực mà thực trạng đời sống mang lại và đưa ra nhận định về vấn
đề: Các nữ công nhân nhập cư đã đối phó như thế nào trước những tác động đó? Bên cạnh đó sẽ
đánh giá sự thiết yếu của việc hỗ trợ các nữ công nhân có các chương trình sinh hoạt ngoài giờ
thay vì những hoạt động mang tính lặp đi lặp lại và nghèo nàn. Nói chung, sử dụng phương pháp
luận trong nghiên cứu này nhằm lý giải rõ hơn thực trạng đời sống nữ công nhân nhập cư, những
nhân tố tác động lên đời sống của họ.
9.2. Phương pháp thu thập thông tin
Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp sau:
Thu thập thông tin bằng phiếu trưng cầu ý kiến
Nghiên cứu đã phát ra 200 phiếu trưng cầu ý kiến với khách thể là các nữ công nhân nhập
cư tại các nhà trọ trên địa bàn xã Hải Bối, Huyện Đông Anh, Hà Nội và thu về 166 bảng hỏi đạt
yêu cầu của nhà nghiên cứu và phục vụ được cho nội dung nghiên cứu. Nội dung bảng hỏi nhằm
hướng đến thu thập những thông tin cơ bản liên quan đến các đặc điểm của nhóm nữ công nhân:
Độ tuổi, trình độ học vấn, quê quán, tình trạng hôn nhân hiện tại như thế nào, trước khi đến làm
việc tại khu công nghiệp họ đã từng làm công việc gì và tại sao họ lại quyết định rời quê để đến
làm công nhân tại khu công nghiệp. Tiếp theo đó các câu hỏi sẽ được nêu ra để đi tìm hiểu về đời
sống của các nữ công nhân hiện tại ra sao khi xét trên các vấn đề của cuộc sống: Nhà ở, thu
nhập, các khoản chi tiêu, các hoạt động vui chơi giải trí, các mối quan hệ xã hội, vấn đề chăm
sóc sức khỏe,…Bên cạnh đó sẽ đi tìm hiểu mức độ hài lòng của nhóm nữ công nhân với cuộc
sống hiện tại và những mong muốn của họ cho tương lai sau này như thế nào.
Phỏng vấn sâu
Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 26 trường hợp, trong đó 15 phỏng vấn sâu là nữ
công nhân nhập cư, 10 phỏng vấn sâu cho các chủ nhà trọ và hàng xóm của các nữ công nhân, 1
phỏng vấn sâu cho lãnh đạo chính quyền nơi nữ công nhân đang cư trú.
- Các phỏng vấn sâu với các nữ công nhân nhập cư
Nghiên cứu sẽ được tiến hành lựa chọn ngẫu nhiên có chọn lựa trong số những nữ công
nhân thực hiện trả lời bảng hỏi của nghiên cứu. Với 15 phỏng vấn sâu sẽ là 15 nữ công nhân
được lựa chọn như sau: 3 nữ công nhân dưới 20 tuổi chưa có gia đình, 3 nữ công nhân trên 20
đến 25 tuổi chưa có gia đình, 3 nữ công nhân trên 25 đến 30 tuổi chưa có gia đình, 3 nữ công
nhân trên 30 tuổi chưa có gia đình, 3 nữ công nhân đã có gia đình. Đối với các phỏng vấn sâu với
các nữ công nhân nhập cư ngoài việc thu thập các thông tin liên quan đến đặc trưng nhân khẩu
xã hội của họ sẽ tập trung thu thập các thông tin như thu nhập hàng tháng, cảm nhận của họ về
cuộc sống, các mối quan hệ xã hội của họ, họ có điều kiện để có thể nói lên những suy nghĩ của
bản thân về cuộc sống, công việc, nhưng mong muốn, họ có thể trải lòng mình một cách thoải
mái để nói lên những suy nghĩ của riêng họ. Với việc thực hiện các phỏng vấn sâu với các nữ
công nhân sẽ thu thập được những thông tin chính xác hơn, xác thực hơn và đặc biệt là sẽ được
nghe chính bản thân của mỗi người nói về họ và về người khác, từ đó sẽ là cơ sở để phục vụ cho
nghiên cứu.
- 10 phỏng vấn sâu với các chủ nhà trọ và hàng xóm của các nữ công nhân nhập cư
Nghiên cứu thực hiện 5 phỏng vấn sâu với các chủ nhà trọ và 5 phỏng vấn sâu với hàng
xóm của các nữ công nhân. Các cuộc phỏng vấn sâu với các chủ nhà trọ và hàng xóm nhằm tìm
hiểu xem mức độ quan tâm của họ tới cuộc sống và sinh hoạt của các nữ công nhân ra sau. Cuộc
sống hàng ngày của các nữ công nhân diễn ra như thế nào: giờ đi làm,, tăng ca, các mối quan hệ,
đời sống sinh hoạt cá nhân, sinh hoạt tập thể,…Họ có những suy nghĩ, cảm nhận như thế nào về
cuộc sống hiện tại của các nữ công nhân đang thuê trọ hoặc sinh sống gần họ.
- 1 phỏng vấn sâu được thực hiện với người thuộc chính quyền địa phương nơi các nữ
công nhân cư trú.
Với phỏng vấn sâu này nhằm thu thập thông tin liên quan đến việc các nữ công nhân có
giấy đăng ký tạm trú không, phường hay tổ dân phố có tổ chức các chương trình, hoạt động và
có sự tham gia của các nữ công nhân không, chính quyền địa phương quản lý họ trực tiếp hay
thông qua các chủ nhà trọ.
Thảo luận nhóm
Ngoài thu thập thông tin thông qua phiếu trưng cầu ý kiến và các cuộc phỏng vấn sâu,
nghiên cứu còn thực hiện 3 cuộc thảo luận nhóm với đối tượng tham gia trực tiếp là các nữ công
nhân nhập cư, mỗi cuộc thảo luận nhóm kéo dài từ 1,5 tiếng đến 3 tiếng, với số lượng thành viên
tham gia mỗi nhóm dao động từ 5 đến 10 người. Nghiên cứu thực hiện 3 cuộc thảo luận nhóm
với 3 chủ đề khác nhau: Chủ đề chăm sóc sức khỏe sinh sản, chủ đề HIV/AIDS, chủ đề thảo luận
những vấn đề của cuộc sống hàng ngày.
- Nhóm 1: Chủ đề chăm sóc sức khỏe sinh sản
Với nhóm chăm sóc sức khỏe sinh sản đối tượng tham gia sẽ được lựa chọn trong số các
nữ công nhân từ 18 đến 30 tuổi, trong đó có 2 nữ công nhân từ 18 đến 20 tuổi chưa có gia đình, 2
nữ công nhân trên 20 tuổi đến 25 tuổi chưa có gia đình, 2 nữ công nhân trên 25 đến 30 tuổi chưa
có gia đình, 1 nữ công nhân đã có gia đình và có con. Với chủ đề chăm sóc sức khỏe sinh sản
mục đích hướng tới của buổi thảo luận nhóm là tìm hiểu những hiểu biết của các chị về vấn đề
chăm sóc sức khỏe sinh sản, các chị hiểu như thế nào về vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản,
công ty các chị có tổ chức các buổi nói chuyện về chăm sóc sức khỏe hay không. Những vấn đề
thảo luận xoay quanh nội dung và cách thức chăm sóc sức khỏe sinh sản, hiện nay các chị có gặp
khó khăn trong vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản, các chị có biết đến những địa chỉ khi cần
thiết liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản.
- Nhóm 2: Chủ đề HIV/AIDS
Đối tượng tham gia trong chủ đề thảo luận về HIV/AIDS là các nữ công nhân đang làm
việc tại các công ty thuộc khu công nghiệp Bắc Thăng Long và ở trọ tại địa bàn nghiên cứu. Các
nữ công nhân được lựa chọn tham gia vào nhóm thảo luận gồm 7 thành viên, 4 thành viên từ 18
đến 25 tuổi chưa có gia đình, 1 thành viên trên 25 tuổi chưa có gia đình, 2 thành viên đã có gia
đình. Mục đích của buổi thảo luận là tìm hiểu những hiểu biết của các nữ công nhân về vấn đề
HIV/AIDS, từ đó cung cấp cho họ những kiến thức liên quan đến vấn đề: HIV/AIDS là gì? Các
con đường lây nhiễm HIV/AIDS, cách phòng tránh HIV/AIDS hiệu quả nhất,…để họ có thể tự
bảo vệ bản thân trước những nguy cơ tiềm ẩn
- Nhóm 3: Những vấn đề của cuộc sống hàng ngày
Đây là chủ đề khá rộng và nên sự tham gia của nhóm là hỗn hợp và tự nguyện, những chị
nào mong muốn tham gia đều trở thành thành viên của nhóm thảo luận. Nhớ sự phong phú của
đối tượng tham gia nên sẽ có nhiều nguồn thông tin hơn được đưa ra, sẽ có nhiều chia sẻ hơn và
dựa vào đó có thể làm dữ liệu để minh họa cho nghiên cứu. Mục đích chính của buổi thảo luận
về chủ đề cuộc sống hàng ngày nhằm tìm hiểu những khó khăn gặp phải trong cuộc sống hiện tại
của các chị, những hoạt động văn hóa tinh thần mà các chị thường tham gia. Các chị lý giải tại
sao bản thân và những người cũng là công nhân như mình lại gặp những khó khăn đó, qua đó các
chị thử đưa ra các cách thức để giảm bớt những khó khăn, hay có những mong muốn như thế nào
đến công ty, đến các cấp có trách nhiệm.
Quan sát, hình ảnh
Ngoài những phương pháp tiếp cận trực tiếp để lấy ý kiến từ các nữ công nhân và những
người sống xung quanh họ, nghiên cứu còn sử dụng phương pháp quan sát và lưu lại những hình
ảnh có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu sẽ tiến hành quan sát nơi ăn chốn ở của các
nữ công nhân để biết được rõ hơn về diện tích cũng như điều kiện sinh hoạt của họ ra sao. Quan
sát những công việc họ thường thực hiện vào những lúc rảnh rỗi đẻ đánh giá được một cách
khách quan hơn, xác thực hơn về chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của các nữ công nhân tại
đây. Bên cạnh đó nghiên cứu sẽ lưu lại những hình ảnh có liên quan để làm tài liệu tham khảo
cũng như để mình họa cho những phân tích, đánh giá sẽ thực hiện trong nội dung nghiên cứu.
9.3. Phương pháp can thiệp
Nghiên cứu sử dụng phương pháp Công tác xã hội nhóm để can thiệp đến nhóm khách thể
nghiên cứu là nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long – Hà Nội nhằm cung
cấp kiến thức về phòng tránh thai và nạo hút thai an toàn cho nhóm nữ công nhân. Các thành
viên trong nhóm can thiệp sẽ được nhà nghiên cứu lựa chọn theo các tiêu chí về độ tuổi, tình
trạng hôn nhân, có chỗ trọ khác nhau và sự tham gia vào nhóm một cách tự nguyện. Nhóm can
thiệp được lựa chọn sẽ có 15 thành viên, trong đó có 3 thành viên dưới 20 tuổi chưa có gia đình,
6 thành viên trên 20 tuổi đến 25 tuổi chưa có gia đình, 3 thành viên trên 25 tuổi chưa có gia đình,
3 thành viên đã có gia đình. Để thực hiện can thiệp cho nhóm nữ công nhân nghiên cứu đã thực
hiện lần lượt các hoạt động can thiệp: Đánh giá kiến thức ban đầu và thống nhất các nội dung can
thiệp; Cung cấp kiến thức về phòng tránh thai và nạo hút thai an toàn thông qua tờ rơi và trang
web của tổ chức MSI tại Việt Nam; Cung cấp kiến thức qua việc thực hành trên dụng cụ và đoạn
video; Thực hành giải quyết tình huống và cung cấp địa chỉ tin cậy. Thông qua các hoạt động
này nữ công nhân nhập cư sẽ lần lượt được cung cấp kiến thức về phòng tránh thai và nạo hút
thai an toàn để từ đó nhận thức đung đắn hơn về vấn đề và có thể tự bảo vệ mình trước những
nguy cơ nảy sinh trong cuộc sống.
10. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
Trong chương này tôi sẽ trình bày các khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề
tài, một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu. Cũng trong chương này tôi sẽ trình bày rõ đặc
điểm của địa bàn nghiên cứu có những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng đời sống nữ công nhân nhập cư tại khu công nghiệp Bắc Thăng
Long – Hà Nội
Trong chương này tôi sẽ trình bày và phân tích bốn vấn đề lớn đó là: Một là đặc trưng nhân
khẩu xã hội của nhóm nữ công nhân nhập cư bao gồm độ tuổi, trình độ học vấn, quê quán, tình
trạng hôn nhân, ghề nghiệp trước khi đến khu công nghiệp; Hai là đánh giá các khía cạnh của đời
sống bao gồm các khía cạnh như thu nhập, các khoản chi tiêu, vấn đề nhà ở, chế độ dinh dưỡng,
tài sản họ có, thời gian tham gia các hoạt động vui chơi giải trí; Ba là đánh giá về vấn đề sức
khỏe và khám chữa bệnh bao gồm tìm hiểu những bệnh họ thường gặp, lý do họ mắc nhưng căn
bệnh đó và cách họ chữa trị như thế nào; cuối cùng tìm hiểu mức độ hài lòng của các nữ công
nhân với cuộc sống bao gồm việc đánh gia mức sống hiện tại và so sánh cuộc sống hiện tại với
trước đó.
Chương 3: Ứng dụng Công tác xã hội nhóm trong việc cung cấp kiến thức về phòng
tránh thai và nạo hút thai an toàn cho nhóm nữ công nhân
Trong chương này tôi sẽ nêu lên mục đích của việc can thiệp chp nhóm nữ công nhân nhập
cư, thành lập nhóm can thiệp diễn ra như thế nào và kết quả đạt được ra sao. Sau khi đã thành lập
nhóm can thiệp tôi sẽ trình bày cụ thể có phân tích, đánh giá các hoạt động can thiệp diễn ra
trong quá trình thực hiện can thiệp. Trong mỗi hoạt động được trình bày cụ thể mục đích của
hoạt động, tổ chức hoạt động đó ra sao, kết quả đạt được khi kết thúc hoạt động và kết hợp có sự
bình luận trong suốt quá trình phân tích.
References
1. Kim Anh, Nguyễn Tập và Quốc Linh (2004), “Chuyện dài nhiều tập của công nhân nhập cư”
2. Ban nữ công (2012), “Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho lao động nữ trong khu công nghiệp và
vai trò của công đoàn
3. Beneria, Lourdes (2008). "Cuộc khủng hoảng chăm sóc, di cư quốc tế, và chính sách công"
4. Bachelet, Michelle (2011). "Giới và di cư: Công nhân chăm sóc tại giao diện của di cư và
phát triển"
5. Hunga, Arianti Ina (1998). "The Social-Kinh tế Tác động của phụ nữ lao động nhập cư vào
gia đình và cộng đồng"
6. Leslie T. Chang, “Gái công xưởng” Dịch giải Lục Hương, sách văn học nước ngoài, NXB
Hội nhà văn
7. Trần Thị Hồng Châu (2000), “ Tìm hiểu đời sống nữ công nhân nhập cư tại công ty may Việt
Tiến”, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Phụ nữ học, Trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí
Minh.
8. Nguyễn Thị Chiến (2010), “Nghiên cứu đời sống văn hóa của công nhân các khu công
nghiệp vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh”
9. Thái Thị ngọc Dư (1999), Giới, nạn nghèo khó và phát triển bền vững, Đại học mở bán công
Tp.HCM
10. Đề án “Xây dựng đời sống văn hóa CN ở các KCN đến năm 2015, định hướng đến năm
2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1780/QĐ-TTg
11. Trần Thị Minh Đức, Nguyễn Thúy Lành (2002), “Phác thảo một vài đặc điểm tâm lý xã hội
của người phụ nữ ngoại tỉnh bán hàng rong trên đường phố Hà Nội”, Tạp chí tâm lý học, số
6/2002.
12. Tổ chức di cư Quốc tế (International Organization for Migration) kết hợp với Trung tâm thúc
đẩy chất lượng cuộc sống một tổ chức phi chính phủ địa phương “Nghiên cứu về Bạo lực Giới
đối với các Phụ nữ di cư là Công nhân nhà máy”.
13. Báo Hà Nội Mới (01/5/2013), “Đời sống văn hoá ở các KCN: Gần như bị lãng quên!”.
14. Nguyễn Kim Hà (2001), “Một số vấn đề đặt ra trong nghiên cứu phụ nữ và di dân ở Việt
Nam”, Khoa học về phụ nữ, số 2/2001.
15. Bùi Thị Thanh Hà, Viện xã hội học (2008), “Đời sống và việc làm của công nhân xuất thân
từ nông thôn”
16. Bùi Thị Thanh Hà (2003), “Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh ở
nước ta thời kỳ đổi mới”, NXB Khoa học xã hội, 2003
17. Phan Thị Mai Hương Viện Tâm lý học làm chủ nhiệm (2011), “Báo cáo kết quả nghiên cứu
về công nhân”
18. Vũ Thị Khương (1996), “ Việc thực hiện luật Lao động đối với nữ công nhân ở một vài
doanh nghiệp nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh”, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Phụ nữ học,
Đại học Mở bán công Thành Phố Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Huyền Lê (2013), Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong bài viết “Rủi ro của lao
động di cư và một số kiến nghị”
20. Bùi Thị Xuân Mai (2012), Nhập môn Công tác xã hội. trường Đại học Lao động xã hội.
NXB: Lao động
21. Nghị quyết hội nghị lần thứ ba ngày 17/2/2014 của ban chấp hành tổng liên đoàn lao động
Việt Nam khóa XI về “Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của công nhân lao động khu công
nghiệp, khu chế xuất”
22. Nghị định 182/2013/NĐ-CP
23. Nguyễn Thị Ngọc (2001), “ Khảo sát đời sống và điều kiện làm việc của lao động nữ nghành
dệt may”, (Điển cứu tại công ty dệt may Việt Thắng và công ty dệt may Thành Công), Khóa luận
tốt nghiệp, Khoa Phụ nữ học, Trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Lê Trọng và Nguyễn Minh Ngọc (2001), “Lao động nữ ra thành phố cư trú tự do tìm việc
làm: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 2 / 2001
25. Nguyễn Tín Nhiệm (1998), “Điều kiện lao động của nữ công nhân : Thực trạng và giái
pháp”, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 2 / Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 2 / 1998
26. PTS. Nguyễn Văn Tài và CTV (1998), “Di dân tự do nông thôn – thành thị ở Thành phố Hồ
Chí Minh”, NXB Nông nghiệp
27. Hà Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc (2000), “Lao động nữ di cư tự do nông thôn – thành
thị”, NXB Phụ nữ, 2000
28. Nguyễn Viết Thông, (2009), Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin, NXB
Chính trị quốc gia
29. Thời báo kinh tế Việt Nam (25/10/2007), “Bức xúc đời sống công nhân”,
30. Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam và Tổ chức Action Aid (2013), “Thực trạng
mức sống của lao động nữ nhập cư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN - KCX) hiện
nay”. hội thảo công bố kết quả Đề tài nghiên cứu tại Hà Nội
31. Trịnh Khắc Thẩm (1992), “Vấn đề quản lý nhà nước đối với di dân để phát triển đồng bằng
sông Cửu long”, Kinh tế dự báo, số 9/1992
32. Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực và Actionaid, “Tác động của khủng hoảng kinh
tế tới đời sống, việc làm của công nhân nữ nhập cư và nguy cơ buôn bán người” .
33. Trung tâm Hợp tác phát triển nguồn nhân lực (C&D) và ActionAid Việt Nam “Tác động của
khủng hoảng tài chính kinh tế đối với công nhân nữ nhập cư và những nguy cơ về mua bán
người”.
34. Trần Thị Kim Xuyến (2005) Nhập môn xã hội học, NXB ĐH Quốc gia Tp.HCM
35.
36.
37. tapchitaichinh.gov.vn
38.