Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Nghiên cứu khả năng chú ý và học lực của học sinh trường THPT Hoàng Quốc Việt, thành phố Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.6 KB, 52 trang )

Kho¸ luËn tèt

Lª ThÞ Thu - K30B

MỞ ĐẦU
* Lý do chọn đề tài
Khi đánh giá vai trò của sự tập trung chú ý, có tác giả cho rằng: “Tập
trung chú ý là bà chúa của trí tuệ” [23]. Có những học sinh khi giải bài toán,
viết bài luận,… chỉ mất hai giờ trong khi các bạn phải mất bốn giờ. Có người
trước mỗi khó khăn cần giả quyết, chỉ suy nghĩ khoảng 15 phút là tìm ra giải
pháp [23]. Tại sao lại có sự khác nhau như vậy? Một nguyên nhân quan trọng
của thành công này là sự tập trung chú ý, là khả năng tập trung toàn bộ sức
lực trí tuệ vào một việc nhất định.
Chú ý là sự định hướng tích cực ý thức của con người vào một số đối
tượng hay hiện tượng nhất định. Cơ sở sinh lý thần kinh của chú ý là phản xạ
định hướng, tức là sự tập trung hoạt động của các trung khu tương ứng trên vỏ
não, theo nguyên tắc điểm ưu thế và con đường chung cuối cùng.
Do đó, thiếu khả năng chú ý thì mọi hoạt động hàng ngày của con
người như học tập, nghiên cứu khoa học, lao động,… đều không đạt được kết
quả tốt.
Đối với học sinh, sinh viên, chú ý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
quá trình học tập và có ảnh hưởng rất lớn đến thành tích học tập. Nhờ có sự
tập trung chú ý, học sinh, sinh viên sẽ đạt được kết quả cao trong học tập và
rèn luyện.
Nghiên cứu về khả năng chú ý và học lực là một vấn đề đã được nhiều
tác giả quân tâm. tuy nhiên việc tiến hành nghiên cứu mới chỉ tập trung chủ
yếu vào các đối tượng chung là học sinh THPT và sinh viên, chưa có nhiều
nghiên cứu về khả năng chú ý và học lực của học sinh nam và học sinh nữ, sự
so sánh về chỉ số này giữa học sinh nam và học sinh nữ.

-1-




Chính vì vậy, để góp phần tìm hiểu khả năng chú ý và học lực của học
sinh trường THPT, chúng tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả
năng chú ý và học lực của học sinh trường THPT Hoàng Quốc Việt, thành
phố Bắc Ninh”.
* Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
+ Đánh giá thực trạng khả năng chú ý của học sinh nam và học sinh nữ
trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.
+ Nghiên cứu học lực của học sinh nam và học sinh nữ trường THPT
Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.
Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa khả năng chú ý và học lực của học
sinh nam và học sinh nữ trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu khả năng chú ý của học sinh nam và học sinh nữ trường
THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.
+ Nghiên cứu học lực của học sinh nam và học sinh nữ trường THPT
Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.
* Đối tƣợng nghiên cứu
Học sinh nam và học sinh nữ trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc
Ninh
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng chú ý và học lực của 230 học sinh, trong đó có
115 học sinh nam và 115 học sinh nữ thuộc trường THPT Hoàng Quốc Việt,
Bắc Ninh, ở các lớp tuổi từ 16 đến 18 tuổi.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Phát hiện được sự khác nhau về khả năng chú ý và học lực của học sinh nam
và học sinh nữ trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.


-2-


- Bước đầu xác định mối quan hệ giữa khả năng chú ý và học lực của học sinh
trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Khả năng chú ý
Một nguyên nhân quan trọng dẫn tới thành công trong công việc chính
là sự tập trung chú ý. Những người thành công trong mọi việc đều là những
người có khả năng tập trung chú ý khi cần thiết.
Người công nhân tập trung chú ý vào công việc sẽ tránh được tai nạn
lao động và duy trì được tính chính xác trong thao tác. Người cán sự tập trung
chú ý vào công việc sẽ không nhầm lẫn trong tính toán, trong làm kế hoạch.
Người học sinh, sinh viên tập trung chú ý vào bài học sẽ hiểu bài và học bài
chóng thuộc. Các nhà khoa học tập trung chú ý cao độ, đôi khi còn dẫn tới sự
đãng trí, đã phát hiện ra các định luật, định lí, học thuyết.
Vậy chú ý là gì ? chú ý (Attention) là quá trình hoạt động thần kinh
phức tạp nhằm vừa tập trung nhận thức kích thích vừa sẵn sàng đáp ứng. Chú
ý là khả năng đối tượng tập trung hoạt động của mình vào một sự vật, hiện
tượng nào đó trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm lựa chọn thông tin
cần thiết cho một chương trình hành động [17].
Các thiên tài khoa học đều là những người tập trung chú ý cao độ vào
các vấn đề nghiên cứu. Người ta cho rằng, thiên tài chỉ một phần nhỏ do bẩm
sinh, mà phần đáng kể do sự rèn luyện thường xuyên khả năng tập trung chú
ý, chú ý một cách liên tục. Vì sự tập trung chú ý cao sẽ lôi cuốn được nhiều
trung khu thần kinh khác nhau tham gia vào phản ứng, do đó hiệu quả quá
trình học tập sẽ tăng lên.



U-Xin-Xki nhà giáo dục Nga nổi tiếng đã viết : “chú ý là cánh cửa, qua
đó tất cả những cái gì của thế giới bên ngoài đi vào tâm hồn con người” [15].
Vì vậy, chú ý là cơ sở quan trọng giúp con người học tập có hiệu quả, tiếp thu
tri thức một cách dễ dàng, tiến hành lao động có tổ chức và đạt năng suất cao.
Cơ sở sinh lý thần kinh của chú ý là phản xạ định hướng. Phản xạ định
hướng tạo nên những trung tâm hưng phấn có ưu thế trên vỏ não, giúp chúng
ít bị phân tán sang đối tượng khác, theo nguyên tắc điểm ưu thế và con đường
chung cuối cùng.
Do đó, trong phản xạ định hướng thì quá trình hưng phấn ở một số khu
vực này sẽ ức chế một số khu vực khác trên vỏ não diễn ra đồng thời. Ví dụ:
khi ta chăm chú đọc sách thì vùng thị giác trên vỏ não được hưng phấn và gây
ức chế ở vùng xúc giác, thính giác… Nhờ vậy mà các đối tượng khác sẽ
không tác động hoặc tác động không đáng kể đến chúng ta, giúp chúng ta tập
trung vào công việc.
Con người luôn có sự chú ý vào đối tượng hay hiện tượng nào đó ở bên
ngoài hoặc trong nội tâm ở trạng thái thức hay tỉnh táo bình thường. Vì khi
đó trên vỏ não luôn có một khu vực nào đó được hưng phấn và những khu
vực khác lại bị ức chế.
Trí tuệ đã tập trung sẽ suy nghĩ, một cách thông minh, một khi suy nghĩ
một cách thông minh, nó sẽ phát triển khả năng quyết đoán và thực hiện có
hiệu quả. Như khi tập trung chú ý vào sự đu đưa của cái đèn ba dây treo ở trần
nhà thờ, nhà thiên văn học GaLiLê đã chợt nghĩ tới thời gian của một dao
động. Từ đó ông suy nghĩ làm nhiều thí nghiệm và phát minh ra định luật về
dao động trong vật lí học [23].
Chú ý thường biểu hiện ra bên ngoài ở điệu bộ, cử chỉ hay nét mặt của
con người. Tuy nhiên những biểu hiện bên ngoài của chú ý không phải lúc
nào cũng thống nhất với thực chất và nội dung của nó. Có trường hợp, nhìn bề


ngoài thấy một người nào đó có vẻ tập trung chú ý, song đó là sự chú ý giả

tạo, nhưng có trường hợp nhìn bề ngoài có vẻ không chú ý nhưng sự thật lại
đang rất chú ý. Do vậy, không thể chỉ đánh giá chú ý qua thể hiện bề ngoài
ma phải căn cứ vào chât lượng phản ánh thực tế của chú ý [19].
Nhà tâm lý học người Anh D.Broadbent (1958) đã cho rằng, chú ý như
là bộ lọc có chọn lọc đối phó với lưu lượng tràn ngập thông tin cảm giác vào
đầu. Theo thuyết này, việc chọn lọc diễn ra ngay từ trong giai đoạn đầu, trước
khi hiểu được ý nghĩa các thông tin đầu vào [10]. Theo Posner (1990), chú ý
có thể tạo ra thuận lợi cho việc xử lý các kích thích và cho phép chọn lọc có
phản ứng đối với các kích thích, hoặc lựa chọn thông tin thích hợp một cách
có ý thức. Nhờ có chú ý mà việc xử lý hay ức chế quá trình xử lý thông tin có
thể xảy ra một cách chính xác.
Có tác giả cho rằng: “Nếu tập trung chú ý chùm tia sáng vào tờ giấy, tờ
giấy sẽ bốc lửa. Còn nếu tập trung sức lực vào một vấn đề duy nhất, tia lửa
sáng tạo sẽ nẩy sinh” [21]. Thật vậy nếu ta tập trung chú ý sẽ giúp chúng ta
thành công trong công việc, phát triển tri thức của con người.
L.X Vưgôtxki (Nga) cho rằng, chú ý là hoạt động tâm lí phức tạp, liên
quan đến quá trình sinh lý thần kinh. Chú ý có liên quan đến hoạt động của hệ
hướng tâm không chuyên biệt, với những hình thức khác nhau của phản xạ
định hướng, với cơ chế ảnh hưởng của vỏ não tới các phần của não. Chú ý
được chia thành hai loại: chú ý có chủ định và chú ý không có chủ định.
Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích nhất định, có kế hoạch và
biện pháp khắc phục khó khăn để tập trung chú ý vào đối tượng nhất định.
Chú ý có chủ định đòi hỏi một nỗ lực, ý chí tích cực nên nó mang tính tích
cực và chủ động. Mức độ tập trung chú ý cao hay thấp, nhiều hay ít là do tính
chất của hoạt động nhất định. Hoạt động càng phức tạp thì độ tập trung chú ý
càng phải cao và ngược lại.


Chú ý có chủ định được điều khiển theo yêu cầu của nhiệm vụ, theo
điều khiển chặt chẽ của ý chí. Trong cùng một lúc, có thể có nhiều đối tượng

thu hút sự chú ý, song con người tuỳ theo yêu cầu, nhiệm vụ của mình mà tập
trung chú ý vào đối tượng cần thiết, dù nó có ít hấp dẫn hơn đối tượng khác.
Trong những trường hợp đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực ý chí để khắc phục sự
trở ngại bên ngoài, có thể là những quang cảnh đẹp, sự ồn ào hay hiện tượng
có sức hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý không chủ định, làm cản trở sự tập trung
chú ý của con người.
Tuy nhiên giữa chú ý có chủ định và chú ý không có chủ định không
phải lúc nào cũng có ranh giới rõ ràng, trong nhiều trường hợp thực tế ta
không thể xác định dứt khoát sự chú ý thuộc loại chú ý nào. Giữa chú ý có
chủ định và chú ý không có chủ định có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
và chuyển hoá lẫn nhau. Trong hoạt động thực tiễn nếu con người thường
xuyên sử dụng đến chú ý có chủ định sẽ dẫn đến căng thẳng, cơ thể mệt mỏi,
gây ảnh hưởng đến công việc.
Các nhà tâm lí học, bằng các công trình nghiên cứu thực nghiệm đã xác
định được một số đặc điểm cơ bản của chú ý [16]. Những đặc điểm đó là: tính
lựa chọn, khối lượng chú ý, tính bền vững, sự phân bố chú ý và sự di chuyển
chú ý.
Mỗi đặc điểm của chú ý có những đặc trưng riêng. Tính lựa chọn của
chú ý được thể hiện ở khả năng chủ thể tập trung vào việc tiếp nhận những
thông tin quan trọng có liên quan đến mục đích đã định trước. Khối lượng chú
ý được xác định bởi số lượng khách thể mà chủ thể có thể nhận thức được rõ
nét trong cùng một thời điểm. Tính bền vững của chú ý được xác định bằng
cường độ và thời gian phải tập trung chú ý vào một số đối tượng nhất định. Sự
phân bố chú ý thể hiện khả năng của chủ thể cùng một lúc có thể thực hiện
hiệu quả một số nhiệm vụ nào đó. Sự di chuyển chú ý được xác định bởi khả


năng chủ thể nhanh chóng chuyển sự chú ý của mình từ đối tượng này sang
đối tượng khác khi mục đích hành động thay đổi. Cơ sở sinh lý thần kinh của
sự di chuyển chú ý là sự di chuyển hoạt động phản xạ có điều kiện, nhờ tính

linh hoạt cao của các quá trình hưng phấn và ức chế trong hoạt động của vỏ
não.
Có không ít bạn trẻ không làm sao tập trung chú ý vào công việc, kết
quả là làm việc không chu đáo thiếu cẩn thận. Trong những người không có
khả năng tập trung chú ý, có rất nhiều người có đủ khả năng trí tuệ ở mức độ
có thể thực hiện tập trung nhưng họ không chú ý đến sự rèn luyện này. Đây
thật sự là sự “ lãng phí trí tuệ rất đáng tiếc” [21].
Về từng vấn đề cần giải quyết, ta phải cố gắng suy nghĩ tập trung chú ý
trong thời gian cần thiết để tìm giải pháp. Cứ làm như thế ta dần dần có thói
quen tập trung chú ý. Muốn tập trung chú ý có hiệu quả, phải biết gác sang
bên cạnh sự lo lắng, buồn nản, ghen tị,… để suy nghĩ về vấn đề mình đang
quan tâm, gạt bỏ những ý nghĩ mung lung, vô ích. Khi đó con người làm chủ
được suy nghĩ, sẽ làm chủ được tình cảm, tức là sự say mê chú ý. Từ đó chủ
động được trí tuệ và tình cảm sẽ dẫn tới thành công trong công việc.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự chú ý của con người. Về cơ bản,
có thể phân ra thành hai nhóm yếu tố. Thuộc nhóm thứ nhất, là những yếu tố
tạo nên cấu trúc của kích thích bên ngoài như cường độ kích thích, tính mới
mẻ của kích thích, cấu trúc của kích thích,…Thuộc nhóm thứ hai là những
yếu tố liên quan đến bản thân chủ thể và cấu trúc hoạt động của chủ thể như
nhu cầu, tâm thế, hướng quan tâm, cấu trúc và mức độ tự động hoá của hoạt
động chủ thể,…
Vấn đề nâng cao khả năng chú ý của học sinh, sinh viên đã có nhiều
nghiên cứu ở các nước nhằm hướng dẫn học sinh, sinh viên học tốt hơn.
Riêng ở Việt Nam, thời gian gần đây mới có một số nhà khoa học lên tiếng.


Theo kết quả nghiên cứu chỉ số tập trung chú ý của giới trẻ ( từ 15 đến 22
tuổi) ở 8 nước (gồm các quốc gia ở Châu Á) vừa được công ty Research
International công bố, hiện chỉ có 31% học sinh, sinh viên Việt Nam (đứng
thứ 6) có thể tập trung nghe giảng trong lớp học, thấp xa so với giới trẻ ở

Trung Quốc, Thái Lan, Philippin…[20].
Một số nghiên cứu khoa học đều cho thấy nguyên nhân chính dẫn đến
sự thiếu tập trung là do môi trường học tập, phòng học không được trang bị
cơ sở vật chất tốt, cách bố trí và sắp xếp không khoa học, không gian trường
học chật hẹp, cấu trúc chương trình gây khó khăn cho giáo viên và học
sinh,… Mặt khác, sự thiếu tập trung còn do các em thiếu ý thức trong học tập,
thiếu động cơ, hứng thú và phương pháp học hiệu quả, cũng như do những
yếu tố thiếu ngủ, bị stress, cơ thể mệt mỏi…[20].
J.P.Ducansơ (năm 1964) đã coi trí thông minh, khả năng tập trung chú
ý và học lực là năng lực học tập.
1.2. Học lực
Học lực chính là cơ sở để đánh giá năng lực học tập của người học và
được đánh giá qua kết quả học tập bằng điểm số. Năng lực học tập chính là sự
vận động của cá nhân nhằm lĩnh hội tri thức một cách nhanh chóng, dễ hiểu
sâu sắc, từ đó hình thành kỹ năng, kỹ xảo, đáp ứng yêu cầu hoạt động học tập.
Việc đánh giá năng lực học tập được thông qua kết quả học tập của người
học.
Trong quá trình học tập việc nắm vững tri thức có liên quan chặt chẽ
với sự phát triển trí tuệ. Hệ thống tri thức mà người học tiếp thu được thường
xuyên biến đổi cả về số lượng lẫn chất lượng, cùng với sự biến đổi đó năng
lực trí tuệ của học sinh, sinh viên ngày càng phát triển và hoàn thiện.
Các nhà nghiên cứu đã cho rằng, sự phát triển trí tuệ đóng vai trò quan
trọng trong hình thành nhân cách con người, nhất là ở trẻ em. Vì vậy để phát


triển trí tuệ một cách toàn diện thì các nhà giáo dục coi việc nâng cao tri thức
là một trong những con đường cơ bản. Sự phát triển trí tuệ là là một quá trình
vận động liên tục từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ cái chưa biết,
trừu tượng đến cái cụ thể [1]. Khi con người tham gia các hoạt động trong
những điều kiện tự nhiên, xã hội nhất định. Ở học sinh, sinh viên nhờ quá

trình phát triển trí tuệ đã giúp họ nắm kiến thức nhanh, chính xác và khoa học,
nâng cao kết quả học tập.
Tuy nhiên, việc lĩnh hội tri thức của sinh viên phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: điều kiện học tập, môi trường học tập, phụ thuộc vào sự di truyền, giới
tính… dẫn đến kết quả học tập là khác nhau. Theo Levitov (năm 1990) thì các
chỉ số xác định sự phát triển trí tuệ thể hiện phẩm chất của trí óc. Đó là tốc độ
khát quát hoá, tốc độ lĩnh hội tri thức, khả năng hiểu sâu tài liệu, óc phê phán
[18].
Sự phát triển trí nhớ là một trong những nguyên nhân có ảnh hưởng đến
sự phát triển trí tuệ, thông qua cơ chế trí nhớ. Khi não phát triển, và khi chúng
ta học tập thì các nối kết đươc hình thành giữa các nơ ron. Những nối kết này
tạo cho chúng ta trí nhớ và khả năng về trí tuệ. Nếu không được kích thích
liên tục thì các nối kết giữa các nơ ron bị bẻ gãy, trí nhớ và khả năng trí tuệ
của cá nhân đó bị phai dần, ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Các nhà khoa học cho rằng, trí tuệ của con người là sự kết hợp hữu cơ
của trí tuệ ngôn ngữ, tư duy vận dụng, lô gích toán học, trí tuệ giao tiếp và trí
tuệ tự nhiên…Các nhà tâm lý Xô Viết như: A.N Leonchieve và A.A
Xuviretnov cho rằng, năng lực trí tuệ của trẻ em là kết quả của sự lĩnh hội
kiến thức, nó là sự biến đổi cấu trúc về chất trong các hoạt động khoa học
khác nhau của học sinh, được thể hiện bằng sự thay đổi cấu trúc cái được
phán ánh và phương thức phản ánh.


Trong sự phát triển giữa nam và nữ có sự khác nhau hay không? cụ thể
ai thông minh hơn? vấn đề này đã được một số tác giả quan tâm, nghiên cứu.
Các nhà Khoa học trường đại học Ivalcaliphonia (Mỹ) vừa khẳng định, tạo
hoá đã tạo ra hai bộ não khác nhau cho nam và nữ, song sự khác biệt về cơ
cấu bộ não không thể quyết định mức độ thông minh và năng lực tri thức của
nam và nữ.
Sự khác nhau về bộ não giữa nam và nữ dẫn tới những điểm mạnh và

yếu của hai giới, như: trong mọi thí nghiệm, nữ luôn trội hơn nam về khả
năng diễn đạt và trí nhớ; nữ thường học giỏi hơn nam do khả năng tập trung
cao, lại có thói quen suy nghĩ trước khi nói, còn nam phản ứng ngay không
chần chừ [22]; nam giới thường có năng lực vượt trội trong các nhiệm vụ đòi
hỏi xử lý mang tính cục bộ (như toán học), còn phụ nữ thường có khả năng
vượt trội trong các nhiệm vụ hoà nhập và đồng hoá thông tin (như ngôn
ngữ)…[24].
Các nhà khoa học đã nghiên cứu, đo chỉ số IQ trên hàng vạn người, mọi
thời đại, mọi lứa tuổi cho thấy: nam và nữ thông minh gần ngang nhau. Thực
ra chỉ số IQ trung bình của phụ nữ kém chú ít ( từ 3 đến 4 điểm), với sự chênh
lệch như vậy, người ta coi là không đáng kể. Có điều là chỉ số IQ ở nữ giới
khá đồng đều, trong khi ở nam, khoảng chênh lệch là khá lớn có giá trị cực
đại rất cao và giá trị cực tiểu rất thấp [21].
Những công trình nghiên cứu đã chứng tỏ rằng, hoạt động học tập được
thúc đẩy bởi hai động cơ: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã
hội [4]. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức
thường không chứa đựng những xung đột bên trong, nó có thể xuất hiện sự
khắc phục khó khăn trong tiến trình học tập, đòi hỏi phải có sự nỗ lực ý chí.
Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở một mức nào


đó mang tính cưỡng bách và có lúc xuất hiện như là một vật cản khắc phục
trên con đường đi tới mục đích cơ bản.
Trong thực tế, chúng ta phải thừa nhận rằng, mỗi cá nhân đều có năng
lực hơn về mặt nào đó và có năng lực ít hơn về mặt khác. Vì vậy nếu thừa
nhận một người có ít năng lực trong một lĩnh vực nào đó không có nghĩa là
phủ nhận khả năng của họ trong lĩnh vực khác. Trong khi đó, học lực được
đánh giá dựa vào kết quả các môn học cho nên nó không phải lúc nào cũng
phản ánh đúng năng lực trí tuệ của người học, mà nó còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác, trong đó có yếu tố về khả năng chú ý của người học sinh.

Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Tạ Thuý Lan và Võ Văn Toàn [11]
cho thấy, khả năng phát triển hoàn thiện của hệ thần kinh qua hình ảnh điện
não đồ thay đổi tuỳ thuộc vào năng lực trí tuệ. Các học sinh có năng lực trí tuệ
cao thì hình ảnh điện não đồ thường hoàn chỉnh sớm hơn so với học sinh có
năng lực trí tuệ thấp. Điều này có nghĩa là học sinh có năng lực trí tuệ tốt, học
lực tốt sẽ có khả năng tập trung chú ý cao hơn [18].
Nhóm nghiên cứu tại đại học Sư phạm Hà Nội từ 1990 đến nay đã thực
hiện nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau của sự tập trung chú ý và trí
tuệ ở nhiều đối tượng khác nhau trên khắp đất nước. Các kết quả nghiên cứu
tương đối đa dạng phong phú, trong đó đáng chú ý là: giữa năng lực trí tuệ và
học lực có mối tương quan thuận khá chặt chẽ ở cả học sinh và sinh viên. môi
trường tự nhiên và xã hội có những ảnh hưởng nhất định đến năng lực trí tuệ
của học sinh, sinh viên.
Khả năng tập trung chú ý và ghi nhớ là một biểu hiện của trí tuệ. Chính
vì vậy nghiên cứu về khả năng chú ý và ghi nhớ đòi hỏi phải có những hiểu
biết sâu sắc về các cơ sở sinh lí học của nó đồng thời phải kết hợp với nhiều
nghành khoa học khác nhau, từ lâu trên thế giới và sau đó là ở nước ta đã có
nhiều công trình nghiên cứu về khả năng này và năng lực trí tuệ. Tuy nhiên


cho tới nay việc nghiên cứu sinh lí học tư duy trên thế giới còn chưa hoàn tất
[12].
Như vậy có thể nói rằng giữa trí tuệ, học lực và khả năng chú ý có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Giữa chúng có mối tương quan qua lại và hỗ trợ
lẫn nhau, giúp học sinh phát triển một cách toàn diện, nhanh chóng tiếp thu
được kho tàng kiến thức phong phú của nhân loại.

CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng của chúng tôi là học sinh nam và học sinh nữ thuộc trường
THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh, có độ tuổi trung bình từ 15 đến 17. Học
sinh trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh đa số thuộc khu vực thành
phố và một số học sinh ở các thị trấn và khu vực nông thôn. Tuổi của các đối
tượng được tính theo quy ước chung của các tài liệu Y tế thế giới và Việt
Nam. Đó là cách tính tuổi quy về tháng hoặc năm gần nhất, nghĩa là một độ
tuổi nào đó bao gồm những cá thể có số năm trước hoặc sau 6 tháng.
Tổng số học sinh nghiên cứu là 230 em, trong đó có 115 em học sinh
nữ và 115 em học sinh nam của trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh.
Sự phân bố đối tượng nghiên cứu có thể thấy ở bảng 2.1
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu
Tuổi

Tổng số

Học sinh nam

Học sinh nữ

16

70

35

35


17


80

40

40

18

80

40

40

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Chọn mẫu nghiên cứu
Đối tượng của chúng tôi là các em học sinh có độ tuổi từ 16 đến 18 ở
các lớp khác nhau ( từ lớp 10 đến lớp 12) của trường THPT Hoàng Quốc
Việt, Bắc Ninh. Học sinh ở các lớp được lựa chọn ngẫu nhiên không dựa vào
kết quả học tập. Học lực của các em học sinh được lấy ở số điểm chính thuộc
bảng xếp loại học lực học kỳ I, năm học 2007 – 2008.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số
* Xác định khả năng chú ý
Khả năng chú ý được xác định bằng phương pháp Ochan Bourdon ở
hai thời điểm đầu buổi học (tiết 1) và cuối buổi học (tiết 5). Phiếu trắc nghiệm
Bourdon là một bảng chữ cái được sắp xếp theo quy tắc nhất định ( phụ lục ).
Mỗi đối tượng thực nghiệm được phát một phiếu trắc nghiệm. Nghiệm
viên phổ biến cách làm cho nghiệm thể, yêu cầu các em rà soát và gạch vào
một loại chữ cái nhất định trong 5 phút, theo nguyên tắc từ trái sang phải của
từng dòng và từ dòng trên xuống dòng dưới liền kề. Sau mỗi phút lại đánh kí

hiệu vào chữ cái đang rà soát, để đánh dấu khối lượng bài tập làm được trong
từng phút. Căn cứ vào số lượng chữ cái rà soát được để đánh giá:
- Tốc độ chú ý của nghiệm thể đựơc tính bằng số chữ gạch được trung
bình trong một phút.
- Độ tập trung chú ý được thể hiện ở chữ gạch đúng trung bình trong
một phút.
- Độ chính xác chú ý (A) được tính theo công thức:


T
A
T S
Trong đó:
T: Tổng số chữ gạch đúng trung bình trong một phút
S: Tổng số chữ bỏ sót trung bình trong một phút
Như vậy khả năng chú ý của học sinh được đánh giá dựa vào 3 chỉ số,
đó là: tốc độ chú ý, độ tập trung chú ý và độ chính xác chú ý. Trong đó tốc độ
chú ý là chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng chú ý của học sinh
* Xác định học lực
Học lực của học sinh được xác định bằng cách lấy kết quả học tập tổng
kết học kỳ I, năm học 2007 - 2008 của học sinh, được nghiên cứu tại văn
phòng của nhà trường. Sau đó tính phần trăm (%) theo các mức: Giỏi, khá,
trung bình và yếu.
Bảng 2.2. Căn cứ xếp loại học lực của học sinh
Điểm
trung bình

8.0 – 8.9

6.5 - 7.9


5.0 – 6.4

4.0 – 4.9

Xếp loại
học lực

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Trước khi xử lý, số liệu điều tra được xử lý thô để loại bỏ các số liệu
không đạt tiêu chuẩn. Các phiếu điều tra đạt yêu cầu được nhập kết quả vào
máy vi tính bằng chương trình Excel. Trong quá trình nhập, số liệu luôn được
kiểm tra để đảm bảo tính chính xác.
Số liệu nhập đầy đủ hết, được xử lý thống kê để tính giá trị trung bình
( X ) và độ lệch tiêu chuẩn (SD).


* Tính giá trị trung bình ( X )
n

X


i

X 
n

i 1

Trong đó:
X : Giá trị trung bình

X i : Giá trị thứ i của đại lượng X
n: Số cá thể ở mẫu nghiên cứu
* Tính độ lệch tiêu chuẩn (SD)
n

SD 

( X

i

X )

2

(Với n 30)

i1

n

n

X )
(i X
i
1
SD
n 1


2

(Với n < 30)

Trong đó:
SD: Độ lệch tiêu chuẩn
X i : Giá trị thứ i của đại lượng X
n: Số cá thể ở mẫu nghiên cứu
Việc so sánh các giá trị trung bình giữa 2 mẫu của chỉ số nghiên cứu
được thực hiện theo Test student (t-test).
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Địa điểm nghiên cứu:
Địa điểm nghiên cứu trong đề tài của tôi là các em học sinh nam và học
sinh nữ ở các lớp học (từ lớp 10 dến lớp 12) tại trường THPT Hoàng Quốc
Việt, Bắc Ninh.
* Thời gian nghiên cứu:


Các nghiên cứu trong đề tài của tôi được tiến hành vào thời gian tháng
10 và tháng 12 năm 2007.


CHƢƠNG 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Khả năng chú ý của học sinh
3.1.1. Tốc độ chú ý của học sinh
3.1.1.1. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 16 của học sinh trường THPT
Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh ở tiết 1 và tiết 5
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 3.1 và hình 3.1
Bảng 3.1. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 16 của học sinh
trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh
Giới tính

n

Chữ trung bình/phút
Tiết 1 (I)

Tiết 5 (II)

So sánh
p(I-II)


X ± SD

X ± SD

35

35.38 ± 2.44


32.47± 3.41

<0.05

Nam (2)

35

34.24 ± 3.57

32.14 ± 3.59

<0.05

p(1-2)

>0.05

>0.05

Ch÷/phót

So sánh

Nữ (1)

36
34.24

35.38


3
5
3
5
3
4
3
4
3
3
3
3
3
2
3
2
3
1
3
1

32.47

TiÕt 1
TiÕt 5

32.14

Giíi

tÝnh


Nam

Hình

3.1. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 16 của học sinh trường THPT
Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh
Qua các số liệu trên bảng 3.1 và hình 3.1 cho thấy:
- Ở cùng lớp tuổi 16: Tiết 1 tốc độ chú ý trung bình của học sinh nam và
học sinh nữ trường THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh nhanh hơn tốc độ chú
ý trung bình ở tiết 5. Mức chênh lệch về chỉ số này có ý nghĩa thống kê
(p < 0.05).
- Trong cùng một lớp tuổi, nhưng khác nhau về giới tính (giữa học sinh
nam và học sinh nữ) thì:


+ Tiết 1: Tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh hơn tốc độ chú
ý trung bình của học sinh nam. Sự chênh lệch về chỉ số này không mang ý
nghĩa thống kê (p > 0.05).


+ Tiết 5: Tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh hơn tốc độ chú
ý trung bình của học sinh nam. Sự chênh lệch về chỉ số này không mang ý
nghĩa thống kê (p > 0.05).
Như vậy, ở độ tuổi 16, tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh
hơn tốc độ chú ý trung bình của học sinh nam ở cả tiết 1 và tiết 5. Tuy nhiên
sự chênh lệch về chỉ số này không mang ý nghĩa thống kê (p > 0.05).
3.1.1.2. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 17 của học sinh trường THPT

Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh ở tiết 1 và tiết 5
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 3.2 và hình 3.2


Bảng 3.2. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 17 của học sinh trường
THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh
Giới tính

Chữ trung bình/phút
n

Tiết 1 (I)

Tiết 5 (II)

X ± SD

X ± SD

So sánh
p(I-II)

40

35.28 ± 3.10

31.86 ± 3.50

<0.05


Nam (2)

40

34.44 ± 2.39

32.33 ± 3.56

<0.05

p(1-2)

>0.05

>0.05

Ch÷/phót

So sánh

Nữ (1)

36

35.28

35

34.44


34
33

32.33
31.86

32

TiÕt 1
TiÕt 5

31
30



Giíi tÝnh

Nam

Hình 3.2. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 17 của học sinh trường
THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh
Qua số liệu trên bảng 3.2 và hình 3.2 cho thấy:
- Ở cùng lớp tuổi 17, tốc độ chú ý trung bình của học sinh ở tiết 1
nhanh hơn tốc độ chú ý trung bình của học sinh ở tiết 5. Sự khác biệt về chỉ số
này mang ý nghĩa thống kê (p < 0.05).


- Ở cùng lớp tuổi 17, nhưng khác nhau về giới tính (giữa học sinh nam
và học sinh nữ) thì:

+ Tiết 1: Tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh hơn tốc độ chú
ý trung bình của học sinh nam. Sự chênh lệch về chỉ số này không mang ý
nghĩa thống kê (p > 0.05).
+ Tiết 5: Tốc độ chú ý trung bình của học sinh nam nhanh hơn tốc độ
chú ý trung bình của học sinh nữ. sự chênh lệch về chỉ số này không mang ý
nghĩa thống kê (p > 0.05).
Như vậy, ở lớp tuổi 17 tốc độ chú ý trung bình của học sinh nam và học
sinh nữ tương đối đồng đều ở cả tiết 1 và tiết 5.
3.1.1.3. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 18 của học sinh trường THPT
Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh ở tiết 1 và tiết 5
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 3.3 và hình 3.3
Bảng 3.3. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 18 của học sinh trường
THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh
Chữ trung bình/phút
Giới tính

n

Tiết 1 (I)

Tiết 5 (II)

X ± SD

X ± SD

So sánh
p(I-II)

40


34.34 ± 3.46

31.25 ± 2.17

<0.05

Nam (2)

40

33.69 ± 1.68

30.16 ± 2.59

<0.05

p(1-2)

>0.05

<0.05

So sánh

Nữ (1)


Ch÷/phót


3
5

33.69

34.34

3
4
3
3

31.
25

3
2

TiÕt
1
tiÕt
5

30.
16

3
1
3
0

2
9
2
8


Giíi tÝnh

Nam

Hình 3.3. Tốc độ chú ý theo giới tính ở độ tuổi 18 của học sinh trường
THPT Hoàng Quốc Việt, Bắc Ninh
Qua bảng số liệu trên bảng 3.3 và hình 3.3 cho thấy:
- Ở cùng lớp tuổi 18, tốc độ chú ý trung bình của học sinh nam và học
sinh nữ ở tiết 1 nhanh hơn tốc độ chú ý trung bình ở tiết 5. Sự chênh lệch về
chỉ số này mang ý nghĩa thống kê (p < 0.05).
- Ở cùng lớp tuổi 18, nhưng khác nhau về giới tính ( giữa học sinh nam
và học sinh nữ) thì:
+ Tiết 1: Tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh hơn tốc độ chú
ý trung bình của học sinh nam. Tuy nhiên sự chênh lệch về chỉ số này không
mang ý nghĩa thống kê (p > 0.05).


+ Tiết 5: Tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh hơn tốc độ chú
ý trung bình của học sinh nam. Sự chênh lệch về chỉ số này mang ý nghĩa
thống kê (p < 0.05).
Như vậy, ở lớp tuổi 18 tốc độ chú ý trung bình của học sinh nữ nhanh
hơn tốc độ chú ý trung bình của học sinh nam. ở tiết 5, sự chênh lệch về chỉ
số này mang ý nghĩa thống kê (p < 0.05).



3.1.1.4. Tốc độ chú ý theo giới tính của học sinh trường THPT Hoàng Quốc
Việt, Bắc Ninh ở tiết 1 và tiết 5
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 3.4 và hình 3.4.

Ch÷/phót

36
35
34

35.38 35.28
34.34
34.44

34.24

33.
69
32.
47

33
32

31,86
31.
25

32.

32. 33
14

30.06

31

Tuổi 16
Tuổi 17
Tuổi 18

30
29
28
27


Nam

Nam TiÕt 1
TiÕt 5

Giíi tÝnh

Hình 3.4. Tốc độ chú ý theo giới tính của học sinh trường THPT Hoàng
Quốc Việt, Bắc Ninh


Bảng 3.4. Tốc độ chú ý theo giới tính của học sinh trường THPT Hoàng
Quốc Việt, Bắc Ninh

Chữ trung bình/phút
Giới tính

Nữ

Nam

Chung

Tuổi

n

Tiết 1 (I)

Tiết 5 (II)

X ± SD

X ± SD

16 (1)

35

35.38 ± 2.44

32.47 ± 3.41

17 (2)


40

35.28 ± 3.57

31.86 ± 3.50

18(3)

40

34.34 ± 3.46

31.25 ± 2.17

16(4)

35

34.24 ± 3.57

32.14 ± 3.59

17(5)

40

34.44 ± 2.39

32.33 ± 3.56


18(6)

40

33.69 ± 1.68

30.16 ± 2.59

16(7)

70

34.81 ± 3.01

32.31 ± 3.50

17(8)

80

34.86 ± 2.98

32.09 ± 3.53

18(9)

80

34.02 ± 2.57


30.71 ± 2.38

p(1-2)

>0.05

>0.05

p(2-3)

<0.05

>0.05

p (1-3)

<0.05

>0.05

p(4-5)

>0.05

>0.05

p(5-6)

>0.05


<0.05

p(4-6)

>0.05

<0.05

p(7-8)

>0.05

>0.05

p(8-9)

>0.05

<0.05

p(7-9)

>0.05

<0.05


×