Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN SÓC SƠN – HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.89 KB, 11 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN SÓC SƠN – HÀ NỘI
Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Bình

Hà Nội - 2017


ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI
KHU VỰC SÓC SƠN – HÀ NỘI 2017
3.1. Đặc điểm tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Vùng đồi gò huyện Sóc Sơn (trên địa bàn 11 xã, thị trấn) nằm phía Tây
Bắc của huyện Sóc Sơn, cách Thủ đô Hà Nội 40 km.
+ Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên.
+ Phía Nam giáp các xã Tân Dân, Thanh Xuân, Phú Cường…sân bay
quốc tế Nội Bài.
+ Phía Đông giáp các xã Trung Giã, Bắc Phú, Xuân Giang, Đức Hoà…
+ Phía Tây giáp huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc.
3.1.2. Địa hình, địa thế
- Huyện Sóc Sơn hiện có 4.557 ha rừng và đất lâm nghiệp, trong đó đất
có rừng là 3.953ha .Địa hình vùng đồi gò Sóc Sơn là hệ thống núi thấp và đồi
gò, là một phần kéo dài về phía đông của dãy núi Tam Đảo, có độ cao trung
bình từ 200m-300m so với mặt biển. Có đỉnh núi cao nhất là: Hàm Lợn
(485m), Cánh Tay (332m), núi Đền Sóc (308m)... Điểm thấp nhất là: 20m.
Nhìn chung địa hình của vùng đồi gò thấp dần theo hướng Tây Bắc
-Đông Nam. Địa hình ở đây chia cắt tương đối mạnh, sườn dốc lưu vực ngắn.
Độ dốc trung bình từ 20 - 25o , có nơi dốc > 35o.
Địa hình đất đồi gò Sóc Sơn có thể chia thành 2 vùng: vùng núi thấp,
đồi: Tập trung diện tích tại các xã Minh Trí, Minh Phú, Nam Sơn... Vùng đồi


gò bát úp gồm các xã : Hiền ninh, Quảng tiến, Tiên Dược, Hồng kỳ...
Xen kẽ các vùng núi, đồi, gò là những cánh đồng nhỏ hẹp. Chính vì vậy,
hệ thống rừng trên vùng đồi gò rất quan trọng trong việc giữ nước, điều tiết


nước cho nông nghiệp, nếu như độ che phủ của rừng đảm bảo và ngược lại
nếu độ che phủ của rừng không đảm bảo hiện tượng xói mòn, rửa trôi đất sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp trong vùng.
3.1.3. Khí hậu
Sóc Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt: Mùa
mưa từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa khô, lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Bức xạ tổng cộng hàng năm của khu vực 125,7 Kcal/cm 2 và bức xạ
quang hợp chỉ đạt 61,4 Kcal/ cm2. Số giờ nắng trong năm khá dồi dào 1.645
giờ. Trung bình 1 ngày có 3-5 giờ nắng, tháng có giờ nắng cao nhất là tháng 7
và tháng 10, trung bình mỗi ngày có 7 giờ. Với nền bức xạ luôn luôn dương
cùng với giờ chiếu sáng khá lớn đó là điều kiện rất thuận lợi cho nhiều loại
cây trồng phát triển.
- Nhiệt độ: Tổng nhiệt độ hàng năm đạt: 8500 - 9000oC, nhiệt độ bình
quân/ năm là 23,5oC. Độ ẩm không khí trung bình/ năm là: 84%. Lượng bốc
hơi trung bình / năm là : 650 mm.
- Lượng mưa trung bình/ năm là: 1.670mm, năm mưa ít nhất là:
1.000mm, năm mưa nhiều nhất là: 2.630mm. Song lượng mưa phân phối
không đều trong năm, mùa mưa tập trung vào các tháng 7,8,9 lượng mưa
chiếm từ 80 - 85% lượng mưa cả năm, mùa này thường có những trận mưa
kéo dài, có gió xoáy và bão.
- Bão thịnh hành từ tháng 7 đến tháng 10, tháng 8 bão xảy ra nhiều nhất.
Bão thường gây ra gió mạnh và mưa lớn.
Nhìn chung khí hậu của Sóc Sơn có điều kiện lợi thế phát triển đa dạng
các loại cây trồng, vật nuôi. Hạn chế chính của khí hậu ở đây là lượng mưa
lớn lại tập trung gây lũ lụt, đất đai bị xói mòn, rửa trôi làm cho đất bị nghèo

kiệt, nhất là những diện tích không có rừng, độ dốc lớn.


3.1.4. Tài nguyên nước
Vùng đồi gò Sóc Sơn có mạng lưới suối, kênh mương khá dầy từ 1,2
- 1,5 km/km2. Bao gồm: Suối Cầu chiền, suối Cầu Lai, suối Thanh Hoa, sông
Lương Phú, suối Đồng quang, ngòi Nội Bài...Chảy ra 3 sông bao quanh huyện
là: sông Công ( phía Bắc), sông Cầu (phía Đông) và sông Cà Lồ (phía Nam).
Hàng năm vùng đồi gò tiếp nhận trung bình lượng nước mưa từ 50 60 triệu m3. Đây là lượng nước mưa nghèo nhưng lại phân bố không đều
trong năm. Hiện nay, nguồn nước của Sóc Sơn khai thác chủ yếu từ 3 nguồn
chính:
+ Nước mưa được giữ lại bằng các hồ chứa như: Đại Lải, Đồng
Quang, Cầu Bãi, Hoa Sơn, Đạo Đức...
+ Nước của các sông Công, sông Cầu, sông Cà Lồ.
+ Nước sông Hồng qua hệ thống tiếp từ Đông Anh.
Tóm lại: Vùng đồi gò Sóc Sơn là vùng nghèo nước, song do sự phân bố
không đều theo không gian và thời gian trong năm, đã làm cho Sóc Sơn trở
thành vùng hạn và úng ngập trọng điểm của Hà Nội.
Để phát triển lâu bền môi trường tự nhiên vùng đồi gò Sóc Sơn, để bảo
vệ, phát triển tài nguyên nước ở đây cần thiết phải xây dựng, nâng cấp các hồ,
đập đảm bảo giữ nước phục vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp, cung cấp nước
sinh hoạt cho nhân dân và các khu du lịch.


3.1.5. Địa chất, đất đai
3.1.5.1. Địa chất và đá mẹ
Cấu tạo địa chất của vùng đồi gò Sóc Sơn chủ yếu thuộc hệ Trias Thống
thượng, bậc Carmi, tầng Mẫu đơn bao gồm các nham thạch chính là: Sa
thạch, Diệp thạch sét...và hệ Jura gồm Cuội kết. Vùng đồi gò Sóc Sơn cũng
được tạo nên là địa chất phù sa cổ thuộc kỷ Đệ tứ có tuổi hình thành trẻ nhất.

Các loại đá mẹ chính: Phấn sa, Sa thạch, Phiến thạch sét, Dăm kết, Cuội
kết và Phù sa cổ, các loại đá mẹ này thường phân bố xen kẽ nhau. Theo kết
quả điều tra đánh giá đất đồi gò Sóc Sơn, bao gồm 25 dạng lập địa chính,
thuộc 3 nhóm đất chính sau: nhóm đất núi thấp; nhóm đất đồi và nhóm đất đồi
thấp, lượn sóng, dốc thoải
3.1.5.2. Đặc điểm đặc trưng, diện tích các nhóm đất chính
a. Nhóm đất núi thấp
Tổng diện tích: 482,8 ha, chiếm 8,3% đất đồi gò.
Đây là loại đất phân bố ở độ cao > 300m, có độ dốc > 25 o. Tầng đất
mỏng < 50 cm, tỷ lệ đá lẫn nhiều, đất khô, hàm lượng dinh dưỡng nghèo.
Nhóm đất này thuộc đối tượng phòng hộ, cần được xây dựng hệ thống
rừng phòng hộ để che phủ bảo vệ đất.
b. Nhóm đất đồi
Tổng diện tích: 1.778,5 ha, chiếm 30,5% đất đồi gò. Đây là loại đất phân
bố ở độ cao từ 100m - 300m, độ dốc từ 15 0 - 25o, tầng đất từ mỏng đến trung
bình (< 50cm - 100cm), đất nghèo dinh dưỡng, đất khô, chua (PH = 4,5 - 5).
Nhóm đất này tiến hành trồng rừng, trồng rừng kết hợp cây ăn quả, cây công
nghiệp...
c. Nhóm đất đồi thấp lượn sóng, dốc thoải


Tổng diện tích: 3.565,2 ha, chiếm 61,2% đất đồi gò. Đây là loại đất phân
bố ở độ cao < 100m, độ dốc chủ yếu < 15 o , tầng đất từ dầy đến trung bình (>
50cm - 100cm), thành phần cơ giới thịt nhẹ, lượng kết von ít, đất tương đối tốt
phù hợp với nhiều loài cây trồng nhất là áp dụng phương thức nông lâm kết
hợp, trồng cây ăn quả, xây dựng vườn rừng, vườn quả..
3.1.5.3. Diện tích đất đồi gò phân theo các đặc trưng chính
a. Diện tích phân theo độ cao
+ Độ cao < 100 m, diện tích: 3.565,2 ha, chiếm 61,2% tổng diện tích
+ Độ cao từ 100- 200 m, diện tích: 1.110,8 ha, chiếm 19,1%

+ Độ cao từ 200-300 m, diện tích: 667,7 ha, chiếm 11,4%
+ Độ cao > 300 m, diện tích: 482,8 ha, chiếm 8,3%
Như vậy, Đất đồi gò của Sóc Sơn tập trung chủ yếu ở độ cao < 200 m,
chiếm 80,3%.
b. Diện tích phân theo cấp độ dốc
+ Độ dốc < 70 , diện tích: 2.029,0 ha, chiếm 34,8% diện tích
+ Độ dốc từ 8 - 15o , diện tích: 1.307,5 ha, chiếm 22,4%
+ Độ dốc từ 16 - 25o , diện tích: 1.360,5 ha, chiếm 23,3%
+ Độ dốc từ 26 -35o , diện tích : 767,6 ha, chiếm 13,3%
+ Độ dốc > 35o, diện tích : 361,9 ha, chiếm 6,2%
Như vậy, đất đồi gò của Sóc Sơn tập trung chủ yếu ở độ dốc < 25 0,
chiếm 80,5%.
c. Diện tích phân theo độ dầy tầng đất
+ Tầng đất mỏng < 50 cm, diện tích: 2.241,8 ha, chiếm 38,5%


+ Tầng đất trung bình từ 50-100 cm, diện tích: 2.779,7 ha, chiếm 47,7%
+ Tầng đất dầy > 100 cm, diện tích: 805,0 ha, chiếm 13,8%
Như vây, Đất đồi gò của Sóc Sơn có độ dầy tầng đất chủ yếu từ mỏng
đến trung bình 86,2%.
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
3.2.1. Đặc điểm dân số và lao động
Vùng đồi gò huyện Sóc Sơn nằm trên 11 xã, thị trấn, với tổng dân số
111.436 người, chiếm 42,2% dân số toàn huyện; mật độ dân số trong vùng
bình quân 588 người/km2, cao nhất là thị trấn Sóc Sơn 5.028 người/km 2 và
thấp nhất là xã Nam Sơn 277 người/ km 2. Dân số trong vùng chủ yếu sản xuất
nông nghiệp, chiếm 85%, tổng dân số.
Tổng lao động trong vùng là 60.175 lao động, chiếm 54% dân số, trong
đó có tới 80% lao động nông, lâm nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp trồng
trọt là chính trên đất 1-2 vụ, do đó thời gian dành cho sản xuất nông nghiệp

chỉ chiếm 1/2 thời gian trong năm. Do đó tình trạng lao động thiếu việc làm khoảng
30-35%, lực lượng lao động này phải vào thành phố để tìm kiếm việc làm.
Nhìn chung nguồn nhân lực vùng đồi gò Sóc Sơn rất dồi dào, nhân dân
cần cù lao động, song còn thiếu việc làm. Tỷ lệ tăng dân số trong vùng còn cao,
nhu cầu lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng tăng lên, đặc biệt là nhu cầu chất
đốt và diện tích canh tác, diện tích thổ cư...Đây là những sức ép rất lớn đến rừng
và đất rừng.
3.2.2. Cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử
Sóc Sơn là huyện ngoại thành, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 40 km, là
địa bàn duy nhất của Hà Nội có hệ thống đồi gò mà trên đó là hệ thống rừng
và cây xanh đa dạng, phong phú cùng với gần 20 hồ nước như: Đồng Quan,
Đạo Đức, Hoa Sơn, Hàm Lợn …Tạo nên nhiều cụm cảnh quan sơn thuỷ hữu
tình rất ngoạn mục. Nổi bật trong vùng có đỉnh núi Hàm Lợn 485,0 m cao nhất


vùng; có núi Đền Sóc, đỉnh Mỏ Cày nơi Thánh Gióng thăng thiên đã ghi vào
trang sử hào hùng của dân tộc trong việc dựng nước và giữ nước; có Núi Đôi
huyền thoại đã đi vào thơ ca... có di tích lịch sử văn hoá Đền Sóc (Đền Giếng)
đã được Nhà nước xếp hạng.
Hàng năm nơi đây, nhất là vào những ngày hội (tháng giêng) nhân dân
trong vùng và khách du lịch thập phương trong và ngoài nước đến thắp hương
vãng cảnh chùa, du lịch sinh thái và nghỉ ngơi cuối tuần ... Hiện nay các di
tích lịch sử văn hoá đã được nhân dân đầu tư khôi phục và tôn tạo, cảnh quan
trong khu vực ngày càng hấp dẫn. Đây là một lợi thế cho việc phát triển du
lịch và cũng là nơi để ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của ông cha ta trong
quá trình dựng nước và giữ nước.
3.2.3. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông: trên vùng đồi gò ngoài quốc lộ 2, Quốc lộ 3, đường tỉnh lộ
35 còn có cả hệ thống giao thông lên huyện, liên xã, liên thôn bằng nhựa và
bê tông hoá rất thuận lợi cho việc giao lưu, chuyển giao công nghệ, lưu thông

hàng hoá….
- Hệ thống điện lưới: 100% các xã có điện lưới quốc gia, song điện mới
chỉ phục vụ chủ yếu cho sinh hoạt, chưa sử dụng nhiều vào sản xuất nông lâm
nghiệp, chế biến ...
- Thuỷ lợi: Hệ thống các hồ, đập chứa nước trong vùng như Cầu Bãi,
Hoa Sơn, Hàm Lợn, Đồng Đò, Ban Tiện, Đồng Quan, Đạc Đức, Thanh Trì,
Tân Yên ... và hệ thống các hồ nhỏ đã được xây dựng kiên cố đảm bảo đủ
nước tưới phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân
dân trong vùng và khách du lịch. Đặc biệt là các hồ nước kết hợp với rừng
cây, địa hình... tạo nên cảnh quan đẹp hấp dẫn khách du lịch.
- Giáo dục: Trong vùng có tổng số 39 trường học, trong đó phổ thông
trung học 1 trường, trung hoc cơ sở 12 trường, tiểu học 13 trường, 13


trường mầm non. Tỷ lệ học sinh đến trường đạt 100%. Hệ thống trường lớp
được xây dựng kiên cố, học sinh không còn phải học 3 ca, chất lượng dạy
và học tốt.
- Y tế: Trong vùng có bệnh viện huyện Sóc Sơn, 100% các xã đều có
trạm y tế, cơ sở vật chất được xây dựng kiên cố. Số lượng y, bác sỹ được
tăng cường, công tác khám và chữa bệnh cho nhân dân được đảm bảo.
3.3. Thực trạng kinh tế
3.3.1. Thực trạng kinh tế chung của huyện Sóc Sơn
Kinh tế chung của huyện phát triển ổn định và liên tục tăng trưởng với
tốc độ khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch cơ bản. Từ nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ năm 2010 (64% - 22,4% - 11,6%) sang công nghiệp - dịch vụ
- nông nghiệp (41,4% - 33,5% - 25,1%) kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và
xã hội được tăng cường đầu tư, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được
cải thiện:
- Ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản: Tiếp tục tăng theo hướng sản xuất
hàng hoá, giá trị năm 2010 đạt 115,17% so với năm 2009, tốc độ tăng bình

quân 2,9%/năm. Giá trị sản xuất bình quân/ha canh tác đạt 36,5 triệu đồng, cơ
cấu ngành nông nghiệp có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng chăn
nuôi, thuỷ sản, cây công nghiệp thực phẩm, giảm dần cây lương thực. Về lâm
nghiệp công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng được đảm bảo tốt, kinh tế
trang trại (vườn rừng, vườn quả) được phát triển bước đầu đã mở ra hướng
phát triển kinh tế trang trại gắn liền với du lịch sinh thái.
- Ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
Tổng giá trị sản phẩm năm 2005 đạt 3.615 tỷ đồng, bằng 321,7% so với
năm 2000, tốc độ tăng trưởng bình quân 26,32%, riêng công nghiệp tăng
28,46%/năm (chiếm tỷ trọng 67,1%). Số lượng doanh nghiệp tăng 57 doanh
nghiệp công nghiệp, 42 doanh nghiệp xây dựng. Bước đầu đã hình thành một


số vùng tập trung quy mô các cụm công nghiệp vừa và nhỏ với các ngành chủ
yếu như lắp ráp, cơ khí, thép và vật liệu xây dựng ... góp phần quan trọng
trong giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa.
- Các ngành dịch vụ: có bước phát triển khá mạnh khẳng định nó là
ngành kinh tế quan trọng. Tổng gía trị sản xuất trên địa bàn năm 2005 tăng
70% so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng bình quân 11,2%/năm. Các ngành
dịch vụ như vận tải, ngân hàng, bưu điện, bưu chính viễn thông ... đều có
bước tăng trưởng mạnh đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế văn hoá xã hội trên
địa bàn.
- Các thành phần kinh tế: có bước phát triển mạnh, các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh, công tác chuyển đổi và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
được triển khai tích cực. Toàn huyện có 220 doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
trong đó có (20 doanh nghiệp liên doanh vốn 100% đầu tư của nước ngoài) và
có 6.875 hộ kinh doanh cơ sở sản xuất cá thể thu hút hơn 17.000 lao động.
3.3.2. Thực trạng kinh tế chung của vùng đồi gò
Cùng với sự phát triển kinh tế chung của huyện Sóc Sơn, kinh tế vùng
đồi gò cũng có sự chuyển biến tích cực. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch cơ

bản từ (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) sang (công nghiệp, dịch vụ, nông
nghiệp). Kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội đã được tăng cường đầu
tư. Đời sống nhân dân vùng đồi gò đã được cải thiện một bước.
Nhưng so với toàn huyện thì đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn
hơn, tổng thu nhập đầu người thấp, trình độ dân trí, cơ sở hạ tầng ... còn nhiều
mặt hạn chế. Song trong tương lai vùng đồi gò sẽ có bước tiến triển tốt do diện
tích đất đai về nông - lâm - thuỷ sản rộng lớn, trong vùng có nhiều di tích lịch
sử, danh lam thắng cảnh ... sẽ thu hút được nhiều khách du lịch trong nội thành,
trong nước và nước ngoài đến thăm quam du lịch và nghỉ ngơi cuối tuần.


- Về trồng trọt: Theo kết quả điều tra dân sinh kinh tế xã hội năm 2005, trên
vùng đồi gò: Tổng sản lượng lương thực 31.875 tấn, bình quân lương thực đầu
người 290 kg/năm.
- Về chăn nuôi: Trong vùng phát triển mạnh về chăn nuôi, có tổng số đàn
gia súc là 60.178 con, trong đó: trâu 6.045 con, bò 11.112 con, lợn 43.021 con,
tổng số gia cầm có 494.344 con.
- Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiêp, nhìn chung trong vùng đã có
bước phát triển, song so với toàn huyện còn nhiều hạn chế hơn. Hiện nay
trong vùng hiện có khu công nghiệp Nội Bài với diện tích 50 ha tại xã Quang
Tiến đang trong thời kỳ xây dựng chưa hoàn thành và một số khu công
nghiêp, tiểu thủ công nghiệp khác ...
- Về thương mại, dịch vụ và du lịch: Các hoạt động thương mại trong
vùng đồi gò phát triển đa dạng và tăng nhanh trong những năm gần đây.
Trong vùng ngoài thị trấn Sóc Sơn ra đã hình thành nhiều trung tâm khác
trong tương lai sẽ trở thành thị tứ như Đền Sóc, Nỉ, Bắc Sơn ... Nó không
những tiêu thụ, lưu thông hàng hoá nông, lâm sản như các loại hoa quả, chè,
gia súc, gia cầm ... mà còn thu hút nhiều lao động dư thừa, tạo công ăn việc
làm cho nhân dân trong vùng.
Mặt khác vùng đồi gò Sóc Sơn có tiềm năng du lịch rất lớn, nổi bật là di

tích lịch sử Đền Sóc (Đền Gióng) và rất nhiều các Đền, Đình, Chùa ... đã được
xếp hạng. Kết hợp với hệ thống hồ trên núi tạo nên nhiều cảnh quan đẹp sơn
thuỷ hữu tình, hàng năm đã thu hút nhiều du khách trong nước và quốc tế đến
thăm quan du lịch sinh thái và nghỉ nghơi cuối tuần ... Đây là tiềm năng lớn cho
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thương mại - dịch vụ - du lịch.



×