Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Xây dựng đội ngũ giảng viên của trường Đại học Nội vụ (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.12 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………/…………..

BỘ NỘI VỤ
.…./…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRIỆU THỊ HẢI ANH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Hà Nội, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………/…………..

BỘ NỘI VỤ
.…./…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRIỆU THỊ HẢI ANH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60.34.04.03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hà Quang Ngọc

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn “Xây dựng đội ngũ giảng viên của Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội” là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả được trình bày trong luận văn là trung thực và khách quan.
Hà Nội, ngày .... tháng....năm 2017
Tác giả luận văn

Triệu Thị Hải Anh


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn tới:
Các thầy cô giáo Khoa Quản lý Nhà nước, Khoa sau Đại học, Học viện
Hành chính Quốc gia đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong thời gian học tập và
nghiên cứu.
Ban giám hiệu, các Phòng ban chức năng và các Khoa của trường Đại học
Nội vụ Hà Nội đã tạo mọi điều kiện để em được tham gia Khóa học.
Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn sát cánh động viên và
giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của TS. Hà Quang Ngọc – Phó Hiệu
trưởng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội - người đã hết lòng chỉ bảo, động viên và

giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, chắc chắn luận văn khó
tránh khỏi những hạn chế và khiếm khuyết. Tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn và
đóng góp ý của Quý thầy cô và đồng nghiệp để luận văn thêm hoàn thiện.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Học viên

Triệu Thị Hải Anh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

STT

Viết tắt

Viết đầy đủ

1.

BGH

Ban giám hiệu

2.


CBGV

Cán bộ giảng viên

3.

CBQL

Cán bộ quản lý

4.

GDĐH

Giáo dục đại học

5.

CNH-HĐH

6.

CSVC

7.

ĐHNVHN

8.


ĐNGV

Đội ngũ giảng viên

9.

GD-ĐT

Giáo dục và Đào tạo

10.

GV

11.

KH-CN

Khoa học – Công nghệ

12.

NCKH

Nghiên cứu khoa học

13.

NXB


14.

SV

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Cơ sở vật chất
Đại học Nội vụ Hà Nội

Giảng viên

Nhà xuất bản
Sinh viên


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số
hiệu
sơ đồ
2.1.
2.2.

Tên sơ đồ

Trang

Số lượng công chức, viên chức cơ hữu của nhà trường

39


Trình độ Tiếng Anh của đội ngũ giảng viên

45

DANH MỤC BẢNG
Số
hiệu
bảng
2.1
2.2
2.3
2.4

Tên bảng

Trang

Số lượng công chức, viên chức cơ hữu của Nhà trường
Chất lượng giảng viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội so với
một số trường Đại học
Thâm niên công tác của giảng viên
Trình độ tiếng anh của đội ngũ giảng viên

39
41
43
44


MỤC LỤC

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng, sơ đồ
Mở đầu
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ giảng viên trong các
trƣờng đại học
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề
1.2. Nội dung hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên trong các
trường đại học
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc xây dựng đội ngũ giảng viên trong
các trường đại học
Chƣơng 2. Thực trạng xây dựng đội ngũ giảng viên trƣờng Đại học Nội
vụ Hà Nội
2.1. Khái quát về thực trạng đội ngũ giảng viên Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội
2.2. Thực trạng các hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội
2.3. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Chƣơng 3. Định hƣớng, nguyên tắc và giải pháp xây dựng đội ngũ giảng
viên trƣờng Đại học Nội vụ Hà Nội
3.1. Định hướng phát triển trường và xây dựng đội ngũ giảng viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đến năm 2020
3.2. Các nguyên tắc xây dựng đội ngũ giảng viên
3.3. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội, giai đoạn 2016-2020
3.4. Một số khuyến nghị cụ thể
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


1
11
11
18
28
35
35
44
57
64
64
67
69
80
83
85


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân lực là lực lượng quan trọng của mỗi nền kinh tế, là yếu tố quyết định sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trước những đổi mới của đất nước trong tiến trình hội
nhập, giáo dục là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước quan tâm, được xác
định là: “quốc sách hàng đầu”. Điều này càng quan trọng hơn trong các trường đại
học, nơi có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Để đạt
được mục đích đó thì ngoài việc phải đảm bảo đồng bộ các yếu tố như: mục tiêu,
chương trình, giáo trình, nội dung, phương pháp, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
giảng dạy và học tập, các trường đại học phải có đội ngũ giảng viên (ĐNGV) đủ về
số lượng, đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấuvà đạt yêu cầu chuẩn hóa về chuyên
môn nghiệp vụ. Bởi ĐNGV là lực lượng nòng cốt trực tiếp biến mục tiêu giáo dục

đào tạo thành hiện thực vàlà nhân tố quyết định chất lượng giáo dục.
Đánh giá cao vai trò của đội ngũ giáo viên, giảng viên với sự nghiệp giáo
dục, đào tạo trong những năm qua Đảng và Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo
về việc phát triển đội ngũ này. Cụ thể là:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) nhấn mạnh cần: “tạo
được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo, đổi mới tư duy giáo dục,
chương trình, nội dung, phương pháp…nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng
cường cơ sở vật chất cho nhà trường…” [44, tr207]
Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) tiếp tục khẳng định:
“Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi và kiểm
tra theo hướng hiện đại. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu
về chất lượng…Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” [44, tr216] “Phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một
đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển…phát triển đội ngũ
giáo viên là khâu then chốt” [44, tr131].
Tại Luật giáo dục (2005); Luật Giáo dục đại học (2012), Chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020; Nghị quyết : “Về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học

1


Việt Nam giai đoạn 2006-2020” [10,tr2]; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công
chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025” [41, tr4 đều khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò
quyết định trong đảm bảo chất lượng giáo dục”.
Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển giáo dục, giai đoạn 2011-2020 quy định: “Chuẩn hóa
trong đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đánh giá nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Chú trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong và tư cách của đội ngũ nhà giáo
để làm gương cho học sinh, sinh viên”.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ trường

cao đẳng theo Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính
phủ, đây là thời điểm yêu cầu việc đổi mới giáo dục đại học đang được đặt ra cấp
thiết, tác động mạnh mẽ đến các trường đại học. Theo quyết định số 347/QĐ-BNV
ngày 19/4/2012 của Bộ trưởng Bộ Nôi vụ, Đại học Nội vụ Hà Nội có chức năng là
đơn vị đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học và sau đại học trong
công tác Nội vụ và các ngành nghề có liên quan. Nhà trường luôn đặt mục tiêu chất
lượng giảng dạy lên hàng đầu, chú trọng bồi dưỡng, đào tạo, phát triển ĐNGV, là
nhân tố nâng cao vị thế của nhà trường, đồng thời là nguồn nhân lực đào tạo ra các
thế hệ sinh viên trong tương lai có ước mơ, hoài bão, có kiến thức chuyên ngành và
kiến thức xã hội, góp phần xây dựng đất nước. Nhà trường luôn khuyến khích và
tạo điều kiện cho sinh viên, học sinh phát huy tối đa trí tuệ, sức trẻ, nhiệt huyết
trong thời gian tham gia học tập, đồng thời đề cao chất lượng giảng dạy của ĐNGV
để truyền đạt kiến thức cho sinh viên một cách tốt nhất. Mục tiêu phấn đấu của nhà
trường là: “mở cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu
học tập đa dạng với nhiều hình thức đào tạo, đa ngành, đa cấp độ, đáo ứng yêu cầu
nhân lực của ngành Nội vụ, cho xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước và hội
nhập quốc tế”, mục tiêu đến năm 2025: “trường trở thành trường đại học đa ngành,
đa lĩnh vực có uy tín trong nước, khu vực và quốc tế”
Với nguồn nhân lực hiện có, ĐNGV của nhà trường về cơ bản được đào tạo
đúng chuyên ngành, có kinh nghiệm dày dạn và kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về

2


giảng dạy chuyên ngành. Song trên thực tế ĐNGV còn có sự chênh lệch khá lớn,
đặt ra yêu cầu buộc nhà trường phải có biện pháp phát triển ĐNGV cho phù hợp.
Hơn nữa nhiều năm trước đây do chưa có sự quan tâm đúng mức tới công tác này
dẫn đến thực tế hiện nay ĐNGV cơ hữu của trường còn mỏng. Nhiều môn chuyên
ngành nhà trường phải mời các giảng viên thỉnh giảng, họ là những “cây đa cây đề”
trong ngành, mặc dù họ có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, giỏi về chuyên môn nhưng

cũng có người trong số họ không có khả năng sư phạm. Chính điều này ảnh hưởng
đến chất lượng đào tạo và việc điều hành, quản lý đào tạo của trường gặp cũng
nhiều khó khăn, luôn trong tình trạng bị động. Mặc dù trong những năm trở lại đây
Đảng ủy - Ban giám hiệu nhà trường đã quan tâm tới việc phát triển, đào tạo, bồi
dưỡng ĐNGV nhưng vẫn không đáp ứng được qui mô đào tạo trước yêu cầu đổi
mới hiện nay. Do đó việc xây dựng ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và
đồng bộ về cơ cấu là vấn đề hết sức cấp thiết, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
và đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao bổ sung đội ngũ cán bộ cho trường và
ngành Nội vụ.
Việc xây dựng ĐNGV của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội không chỉ nhằm
đáp ứng yêu cầu xây dựng trường trong thời gian tới mà còn tham gia làm sáng rõ
những vấn đề mà các công trình nghiên cứu khác chưa làm được. Với cơ sở lý luận
và thực tiễn ở trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Xây dựng đội ngũ giảng viên của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” với mong muốn góp phần nâng cao năng lực đào
tạo của nhà trường nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội cũng như góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và phát triển ngành Nội vụ của cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu thực trạng và phương hướng phát triển đối với ĐNGV của các
trường đại học có khá nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ khác nhau, bởi tính cấp
thiết, quan trọng của nguồn nhân lực. Đối với các trường đại học có chuyên ngành
giảng dạy khác nhau sẽ có các tiêu chí, mục đích, giai đoạn phát triển khác nhau, đặc
biệt là chú trọng nâng cao chất lượng ĐNGV nhà trường, đáp ứng yêu cầu giảng dạy
và thực tiễn đòi hỏi.

3


Trên thực tế có nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề
giáo dục, giáo dục trong các trường đại học, cao đẳng và cũng có nhiều công trình
nghiên cứu, đề tài nghiên cứu, các bài báo được đăng tải trên các tạp chí chuyên

ngành về công tác giáo dục, đặc biệt là định hướng phát triển ĐNGV, giáo viên. Có
thể kể đến các công trình nghiên cứu như sau:
Một là, các công trình, đề tài nghiên cứu có nội dung về công tác giáo dục,
công tác quản lý giáo dục, đổi mới chương trình giáo dục, mục tiêu, phương pháp
giảng dạy, phát triển nhân lực, có thể kể đến:
Sách: “Quản lý nguồn nhân lực trong giáo dục đào tạo những vấn đề cần
nghiên cứu trong quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, của tác giả Mạc Văn Trang, Nxb Khoa học giáo dục Hà Nội, 2004.
Sách chuyên khảo:“Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, y tế ở Việt Nam” của
PGS.TS. Nguyễn Minh Phương, Nxb Chính trị Quốc gia 2012. Cuốn sách đã nêu
lên thực tế về sự cần thiết phải xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam hiện nay nhằm mục
tiêu huy động, phát huy, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội, nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng thực tế phát triển xã hội, phục vụ mục tiêu mà Đảng,
Nhà nước đặt ra, được khẳng định tại các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X
và XI.
Luận án tiến sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục – đào
tạo với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay” (2001). Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Thanh, Viện Triết
học. Tác giả đã nghiên cứu và nêu rõ vai trò của nguồn nhân lực trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đưa ra định hướng phát triển nguồn nhân
lực phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, với đề cao vai trò của giáo dục
đào tạo, được xem là quốc sách hàng đầu.
Luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện
nay” (2012), Luận án tiễn sĩ luật học của Lê Thị Kim Dung, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Tác giả đã nghiên cứu và trình bày cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật về

4


giáo dục đại học, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giáo

dục đại học ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước hiện nay.
Luận án tiến sĩ luật học; “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục
đại học”, (2012) của Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nêu lên các
vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục đồng thời đánh giá
thực trạng hiệu quả quản lý nhà nước về vấn đề này và đưa ra các giải pháp phù hợp
trong giai đoạn hiện nay.
Bài báo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực
giáo dục đào tạo”, của tác giả Phạm Thành Nghị đăng trên tạp chí giáo dục số 11
năm 2004
Hai là, các công trình, đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề quản lý
và phát triển ĐNGV các trường đại học, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Luận án tiến sĩ: “Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học đồng
bằng Sông Cửu long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học” (2010) của
Nguyễn Văn Đệ, Đại học Giáo dục đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lý luận
về ĐNGV và đánh giá thực trạng ĐNGV các trường đại học ở Đồng Bằng Sông
Cửu long, từ đó có các giải pháp đề nghị phát triển đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu,
tình hình mới trong giai đoạn hiện nay
Tác giả Nguyễn Thị Xoan trong luận văn thạc sĩ (2008) (Trường Đại học
Giáo dục - ĐHQGHN) với đề tài “Những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên
của Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu hiện
nay” đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về quản lý, phát triển, đội ngũ, ĐNGV, nội
dung phát triển nguồn nhân lực, vai trò và nhiệm vụ của giảng viên. Qua đó tác giả
nghiên cứu thực trạng công tác phát triển ĐNGV của Trường Đại học Công nghệ ĐHQGHN. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp phát triển ĐNGV Trường Đại
học Công nghệ - ĐHQGHN: Xây dựng tổng thế kế hoạch phát triển ĐNGV; cụ thể
hóa quy trình tuyển dụng; chính sách thu hút giảng viên giỏi; đào tạo bồi dưỡng
giảng viên trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong luận văn này tác giả chưa đề cập
đến vai trò của người giảng viên; các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển ĐNGV; chưa

5



đề cập đến giải pháp xây dựng văn hóa cộng đồng trường đại học, xây dựng môi
trường làm việc, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và
NCKH.
Tác giả Đặng Văn Doanh trong luận văn thạc sĩ (2008) (Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên) với đề tài “Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên” đã hệ thống hóa
khá đầy đủ cơ sở lý luận về quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực trong giáo
dục, khái niệm nhà giáo, ĐNGV, phát triển ĐNGV. Qua đó tác giả nghiên cứu thực
trạng đội ngũ, phát triển ĐNGV của Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thuộc Đại
học Thái Nguyên. Từ đó đưa ra một số giải pháp phát triển ĐNGV của Nhà trường.
Trong luận văn tác giả cũng chưa đề cập đến vai trò của giảng viên hiện nay, chưa
đề cập đến những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển ĐNGV.
Tác giả Nguyễn Văn Đường trong luận văn thạc sĩ (2011) (Trường Đại học
Giáo dục - ĐHQGHN) với đề tài “Phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học Kỹ
thuật - Hậu cần Công an nhân dân”đã nghiên cứu có hệ thống cơ sở lý luận về đội
ngũ, ĐNGV, phát triển ĐNGV nói chung và phát triển ĐNGV Bộ Công an, Trường
Đại học Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân nói riêng; Luận văn tập trung khảo
sát, lấy ý kiến chuyên gia để phân tích thực trạng phát triển ĐNGV ở Trường Đại
học Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân. Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của
một trường đại học đào tạo đa ngành của lực lượng Công an nhân dân, luận văn đã
đề xuất một số biện pháp để khắc phục hạn chế, giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu
và mục đích phát triển ĐNGV và thực trạng phát triển ĐNGV hiện nay của nhà
trường để nâng cao chất lượng đào tạo giai đoạn 2011-2015. Tại luận văn này tác
giả chưa đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển ĐNGV và chưa đề cập đến
giải pháp xây dựng môi trường làm việc cho ĐNGV.
Tác giả Lê Thị Việt Anh trong luận văn thạc sĩ (2011) (Trường Đại học Giáo
dục - ĐHQGHN) với đề tài “Quản lý việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng
viên Trường Đại học Điện lực” đã hệ thống khá đầy đủ cơ sở lý luận về đội ngũ,
ĐNGV, quản lý việc xây dựng và phát triển ĐNGV. Khảo sát và đánh giá thực


6


trạng xây dựng và phát triển ĐNGV Trường Đại học Điện lực. Qua đó tác giả đề
xuất một số giải pháp quản lý cơ bản có tính khả thi đối với việc xây dựng và phát
triển ĐNGV Trường Đại học Điện lực giai đoạn 2011 - 2020. Tuy nhiên, tác giả
chưa đề cập đến yêu cầu phát triển ĐNGV hiện nay; chưa nêu ra giải pháp, chính
sách thu hút giảng viên có trình độ cao; chưa đề cập đến vai trò của giải pháp xây
dựng môi trường làm việc tại Nhà trường.
Ba là, các công trình nghiên cứu trực tiếp về phát triển ĐNGV, định hướng
phát triển của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, có thể kể đến là:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Cơ sở khoa học xây dựng định hướng
chiến lược phát triển Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đến năm 2030” (2016) do TS.
Lê Thanh Huyền, Trưởng khoa Văn hóa – Thông tin và Xã hội, Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội làm chủ nhiệm. Đề tài nêu lên cơ sở lý luận và pháp lý về định hướng
chiến lược phát triển trường đại học, nêu lên mô hình phát triển trường Đại học Nội
vụ Hà Nội giai đoạn 2011 – 2015 và đưa ra các định hướng chiến lược phát triển
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đến năm 2030, trong đó có định hướng chiến lược
phát triển về ĐNGV của nhà trường.
Bài báo khoa học:“Đào tạo thạc sĩ ngành lưu trữ học tại trường Đại học Nội
vụ Hà Nội theo hướng ứng dụng – đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trình
độ cao của ngành Nội vụ đáp ứng yêu cầu hội nhập” của TS. Chu Thị Hậu, Tạp chí
Nghiên cứu khoa học Nội vụ, số tháng 02/2016 đã nêu rõ tầm quan trọng của việc
đào tạo thạc sĩ ngành lưu trữ học tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội và sự phát triển
của ĐNGV nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo chuyên ngành này.
Bài báo khoa học: “Phát triển nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng yêu cầu
của ngành Nội vụ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế” của PGS. TS Phạm Văn Sơn, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Nội vụ, số tháng
03/2016 đã nêu lên tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của ngành Nội vụ

và các giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất
nước

7


Bài báo khoa học: “Nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên góp phần đổi
mới toàn diện giáo dục đại học ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” của TS. Lê
Thanh Huyền, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Nội vụ, số tháng 04/2016 đã nêu lên
tầm quan trọng của đội ngũ nhân lực, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cho ĐNGV nhà trường.
Có thể thấy các công trình của các tác giả đi trước đã quan tâm đến vấn đề phát
triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nhưng các công trình này chủ yếu
là đề cập đến vấn đề ở tầm vĩ mô, hoặc mới chỉ xem xét trên một vài khía cạnh cụ thể ở
từng trường đại học cụ thể. Một cách nhìn hệ thống, toàn diện và đầy đủ đối với lĩnh
vực nghiên cứu về ĐNGVở một cơ sở đào tạo cụ thể hiện vẫn chưa có công trình
nghiên cứu nào. Việc nghiên cứu xây dựng ĐNGV phù hợp với mỗi mô hình trường
trong tình hình mới hiện nay là yêu cầu cấp thiết. Do vậy, lựa chọn vấn đề nghiên cứu:
“Xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” để làm luận văn thạc sĩ
vừa phù hợp với yêu cầu chung và không trùng lặp với công trình nghiên cứu nào trước
đây.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan, đánh giá thực trạng
ĐNGV và công tác xây dựng ĐNGV hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp xây dựng
ĐNGV của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
4.1. Làm rõ một số vấn đề lý luận về xây dựng ĐNGV trong các trường đại
học;

4.2 Đánh giá thực trạng về số lượng và chất lượng của ĐNGV Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội hiện nay;
4.3. Đánh giá công tác xây dựng ĐNGV trong thời gian qua, những điểm
mạnh, điểm yếu, kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế, những nhân tố ảnh
hưởng đến công tác xây dựng ĐNGV của Nhà trường

8


4.4. Đề xuất các giải pháp xây dựng ĐNGV đáp ứng các yêu cầu phát triển
của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: công tác xây dựng ĐNGV của Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
- Nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu một số hoạt động có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc xây dựng ĐNGV của Trường Đại học Nội vụ
- Thời gian: Giai đoạn 2016 - 2020
6. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm
của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo dục và phát triển nguồn nhân
lực... để tiếp cận và triển khai các nội dung nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
+ Phương pháp thu thập tài liệu nghiên cứu thứ cấp: nhằm thu thập các thông tin
có tại các loại tài liệu được in thành sách, các công trình nghiên cứu, điều tra xã hội học
đã được chuẩn hóa số liệu, nhằm mục đích sử dụng cho đánh giá thực trạng sự phát
triển của ĐNGV Trường Đại học Nội vụ Hà Nội qua các thời kỳ. Về phần lý luận,
tham khảo, thu thập tài liệu nghiên cứu về các lý thuyết nghiên cứu về phát triển nguồn

nhân lực, các lý thuyết về quản lý giáo dục, văn bản của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, các báo cáo, chiến lược và kế hoạch phát triển của Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội và các tài liệu khác liên quan đến đề tài.
+ Phương pháp phân tích: được sử dụng khi đánh giá, bình luận các quan
điểm, đường lối của Đảng, các quy định pháp luật. Phương pháp này chủ yếu được
sử dụng tại chương 2 của Luận văn. Với các số liệu về số lượng giảng viên, các
ngành học, đào tạo của nhà trường, luận văn sử dụng phương pháp phân tích để thấy

9


được sự phát triển của nhà trường trong công tác đào tạo, qua các thời kỳ, các khóa
đào tạo có sự thay đổi, tiến bộ.
+ Phương pháp tổng hợp: Sử dụng khi đánh giá nhằm rút ra những kết luận
của vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 1 của
Luận văn và rải rác ở chương 2. Với các tài liệu được nghiên cứu về lý luận, các
khái niệm có liên quan tại các công trình nghiên cứu được tham khảo, tác giả sử
dụng phương pháp này để tổng hợp các kiến thức của những công trình nghiên cứu
trước, đồng thời tạo nên các khái niệm, quan điểm...được nêu trong luận văn
+ Phương pháp so sánh: Sử dụng khi phân tích, đánh giá các Nghị quyết,
chuyên đề của Đảng, các quy định của pháp luật về giáo dục, đào tạo, giảng viên,
học viên qua các giai đoạn lịch sử. Với các số liệu được thu thập, phương pháp so
sánh được sử dụng để nghiên cứu, phát hiện các nội dung về: học tập, đào tạo, nâng
cao trình độ có sự khác nhau, hơn kém từ đó có cách nhìn nhận khái quát và đưa ra
những nhận định cho sự phát triển của ĐNGV của trường trong thời gian tới.
7. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn.
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn sau đây:
Bổ sung hệ thống hoá và làm rõ thêm các chính sách và yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng ĐNGV trường đại học
Góp phần vào việc đề xuất giải pháp xây dựng ĐNGV đáp ứng yêu cầu phát

triển của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội giai đoạn 2016-2020.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục các bảng biểu,
luận văn có 3 chương như sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ giảng viên trong các
trƣờng đại học
Chƣơng 2. Thực trạng xây dựng đội ngũ giảng viên Trƣờng Đại học Nội
vụ Hà Nội
Chƣơng 3. Định hƣớng, nguyên tắc và giải pháp xây dựng đội ngũ giảng
viên Trƣờng Đại học Nội vụ Hà Nội.

10


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Giảng viên và đội ngũ giảng viên trường đại học
1.1.1.1.Giảng viên- Nhà giáo
Có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về giảng viên, theo Luật Giáo dục
năm 2005, chương IV, mục 1, điều 70 qui định: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ
giảng dạy, giáo dục trong trường, cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở các cơ
sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề gọi là giáo viên; ở cơ sở
giáo dục đại học gọi là giảng viên (GV)”[32,tr3].
Luật Giáo dục đại học năm 2012, chương VIII, điều 54: “Giảng viên trong cơ
sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có sức
khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ” [33,tr3].
Theo Quyết định số 538/TCCP-TC ngày 19/12/1995 của Ban Tổ chức Cán
bộ Chính phủ thì giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng được phân ra ba

ngạch: giảng viên (15.111), giảng viên chính (15.110)và giảng viên cao cấp
(15.109)[2].
Theo từ điển tiếng việt: “giảng viên là tên gọi chung của người làm công tác
giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện, các trường trên
bậc phổ thông” [43].
Từ những quan niệm trên, trong phạm vi luận văn này, khái niệm giảng viên
được hiểu theo nghĩa như sau: Giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo
dục ở các trường cao đẳng và đại học.Giảng viên là những người có đủ trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; thân nhân rõ ràng, có phẩm chất đạo đức tốt; có đủ điều
kiện tham gia giảng dạy; có thể được trường đại học mời giảng dạy hoặc ký hợp
đồng giảng dạy.

11


Giảng viên đại học là viên chức chuyên môn đảm nhận trực tiếp việc giảng
dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng và sau đại học nhằm đào tạo ra nguồn nhân
lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Giảng viên cũng chính là lực lượng
chủ yếu quyết định đến việc thực hiện chiến lược và mục tiêu đào tạo của trường
đại học. Chính vì vậy mà giảng viên đại học yêu cầu phải có kiến thức khoa học hàn
lâm và khả năng sáng tạo cao. Để đáp ứng được những yêu cầu như vậy người
giảng viên phải là nhà giáo, nhà khoa học và là nhà tư vấn, cung ứng dịch vụ cho xã
hội (Giảng viên = Nhà giáo + Nhà khoa học + Nhà tư vấn, cung ứng dịch vụ).
Giảng viên là một nhà giáo: đây là vai trò truyền thống, quan trọng và tiên
quyết đối với một người giảng viên. Một người giảng viên giỏi trước hết phải là một
người thầy giỏi, phải thực sự là một “chuyên gia” có kiến thức uyên bác về chuyên
ngành mình giảng dạy. Theo các nhà giáo dục thế giới thì người giảng viên toàn
diện là người được trang bị 4 nhóm kiến thức, kỹ năng sau:
+ Kiến thức chuyên ngành: Là khối lượng kiến thức chuyên sâu về chuyên
ngành và môn học mà mình giảng dạy.

+ Kiến thức về chương trình đào tạo: Mỗi một giảng viên được đào tạo kiến
thức chuyên ngành nhất định. Nhưng để đảm bảo tính liên thông, gắn kết giữa các
môn học thì giảng viên phải được trang bị (hoặc tự trang bị) các kiến thức về
chương trình đào tạo. Kiến thức về chương trình đào tạo sẽ cung cấp thông tin về
vai trò và sự tương tác giữa một chuyên ngành với các chuyên ngành khác trong
cùng một lĩnh vực, giữa các chuyên ngành trong các lĩnh vực khác nhau.
+ Kiến thức và kỹ năng về giảng dạy: Bao gồm khối kiến thức về phương
pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung, dạy và học trong từng chuyên ngành cụ
thể. Hiện nay rất nhiều trường đại học quan tâm và coi trọng nhóm kiến thức, kỹ
năng này, bởi vì nó là yếu tố góp phần thay đổi diện mạo chất lượng dạy và học
hiện nay ở các trường đại học.
+ Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá
trị giáo dục … Đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm nền tảng cho các
hoạt động dạy và học. Chỉ khi mỗi giảng viên hiểu rõ được các sứ mệnh, giá trị cốt

12


lõi và các mục tiêu chính của nhà trường, môi trường giáo dục thì việc giảng dạy
mới đi đúng định hướng và có ý nghĩa xã hội. Mặt khác kiến thức về hệ thống giáo
dục, sứ mệnh và các mục tiêu giáo dục còn là kim chỉ nam cho giảng viên trong
soạn bài giảng, lựa chọn phương pháp giảng dạy cho những đối tượng người học
khác nhau. Thực tế, giảng viên đại học không trực tiếp dạy đạo đức nhưng phải xác
lập được cho sinh viên nhận thức đúng đắn về các giá trị gốc của giáo dục và đạo
đức, mà cụ thể là đạo đức trong từng nghề nghiệp cụ thể.
- Giảng viên là nhà khoa học:
Ở vai trò thứ hai này, giảng viên thực hiện vai trò nhà khoa học với chức năng
giải thích và dự báo các vấn đề của tự nhiên và xã hội mà loài người và khoa học
chưa có lời giải. Nghiên cứu khoa học, tìm cách ứng dụng các kết quả nghiên cứu
khoa học về thực tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên cứu cho cộng đồng

(cộng đồng khoa học, xã hội nói chung, trong nước và quốc tế) là ba chức năng
chính của một nhà khoa học. Từ đây có hai xu hướng nghiên cứu chính: nghiên cứu
cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Khác với nghiên cứu cơ bản mang tính giải thích
và dự báo các vấn đề chưa khai phá của tự nhiên và xã hội, nghiên cứu ứng dụng là
loại nghiên cứu hướng đến việc ứng dụng các kết quả của nghiên cứu cơ bản vào
giải quyết các vấn đề cụ thể của xã hội. Thông thường, nghiên cứu cơ bản được coi
là vai trò chính của các giảng viên đại học. Còn nghiên cứu ứng dụng mang tính
công nghệ thường là kết quả của mối liên kết giữa các nhà khoa học và nhà ứng
dụng (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội). Do vậy, nghiên cứu ứng dụng thường
có màu sắc của các dự án tư vấn được đặt hàng bởi cộng đồng doanh nghiệp (và do
doanh nghiệp tài trợ). Trong bối cảnh hiện nay, khi chưa có nhiều điều kiện đầu tư
cho nghiên cứu cơ bản, chúng ta cần có chiến lược tận dụng kết quả nghiên cứu cơ
bản của các quốc gia tiên tiến. Do vậy, có thể trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên
khuyến khích các giảng viên đại học thực hiện các nghiên cứu mang tính tổng kết lý
thuyết và tìm ra những hướng ứng dụng của các lý thuyết này. Thực tế tổng kết lý
thuyết là công việc đầu tiên và hết sức quan trọng của mỗi nhà nghiên cứu, nó mang

13


lại những kiến thức hết sức quan trọng về thành tựu khoa học trong từng chuyên
ngành và các định hướng nghiên cứu của từng ngành.
Nghiên cứu khoa học phải đi kèm với công bố kết quả nghiên cứu. Điều này
có hai ý nghĩa. Thứ nhất, công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành
uy tín chính là thước đo chất lượng có ý nghĩa nhất đối với một công trình nghiên
cứu. Thứ hai, chỉ khi được công bố rộng rãi và đi vào ứng dụng nghiên cứu khoa
học mới hoàn thành sứ mệnh xã hội của mình. Và như vậy trong vai trò nhà khoa
học, giảng viên đại học không chỉ phải nắm vững kiến thức chuyên môn, phương
pháp nghiên cứu mà còn phải có kỹ năng viết báo khoa học.
- Giảng viên – nhà cung ứng dịch vụ giáo dục cho xã hội:

Đây là một vai trò mà rất nhiều giảng viên đại học Việt Nam đang thực hiện nó cũng là một vai trò mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở các giảng viên. Ở vai
trò này, giảng viên cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường, cho sinh viên,
cho các tổ chức xã hội – đoàn thể, cho cộng đồng và cho xã hội nói chung. Cụ thể
đối với nhà trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ như tham
gia công tác quản lý, các công việc hành chính, tham gia các tổ chức xã hội, cố vấn
cho sinh viên, liên hệ thực tập, tìm chỗ làm cho sinh viên… Với ngành của mình,
giảng viên làm phản biện cho các tạp chí khoa học, tham dự và tổ chức các hội thảo
khoa học.
Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trò của một chuyên gia cũng thực hiện
các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức năng này, giảng
viên đóng vai trò là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa nhanh các kiến thức
khoa học vào đời sống cộng đồng. Viết báo thời sự (khác với báo khoa học) là một
chức năng khá quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc truyền bá kiến thức khoa học
và nâng cao dân trí.
Mô hình ba chức năng trong một, đòi hỏi người giảng viên không ngừng hoàn
thiện bản thân mình trước nhu cầu xã hội hóa, toàn cầu hóa nhất là ngành giáo dục
phải là một trong những ngành tiên phong, đi đầu về hội nhập và cập nhật tri thức.
Nhiệm vụ và quyền hạn của giảng viên được quy định tại Điều 55, Luật Giáo dục

14


đại học như sau: (i) Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo và thực hiện đầy
đủ, có chất lượng chương trình đào tạo; (ii) Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa
học và chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo; (iii) Định kỳ học tập,
bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương
pháp giảng dạy; (iv) Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên; (v) Tôn
trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền,
lợi ích chính đáng của người học; (vi) Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục
đại học, tham gia công tác Đảng, đoàn thể và các công tác khác; (vii) Được ký hợp

đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở
nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật; (viii) Được bổ nhiệm chức danh
của giảng viên, được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và
được khen thưởng theo quy định của pháp luật; (ix) Các nhiệm vụ và quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.
Hiện nay ở các trường đại học lớn ở các quốc gia phát triển, giảng viên đại học
được định nghĩa trong ba chức năng chính: (1) Nhà giáo, (2) Nhà khoa học, và (3)
Nhà cung ứng dịch vụ cho cộng đồng.
Giảng viên = Nhà giáo + Nhà khoa học + Nhà cung ứng dịch vụ
Theo các nhà giáo dục thế giới thì một giảng viên toàn diện là người có (được
trang bị) 4 nhóm kiến thức/kỹ năng sau:
+ Kiến thức chuyên ngành:
+ Kiến thức về chương trình đào tạo.
+ Kiến thức và kỹ năng về dạy và học
+ Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo dục, giá
trị giáo dục….
1.1.1.2. Đội ngũ giảng viên
Theo Từ điển tiếng Việt: “Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng
chức năng hoặc nghề nghiệp tập hợp thành một lực lượng” [43].

15


Theo Virgil K.Rowland: “Đội ngũ nhà giáo là những chuyên gia trong ngành
giáo dục, người học nắm vững tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào
và có khả năng cống hiến toàn bộ tài năng và sức lực của họ cho giáo dục”.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Đội ngũ là tập hợp một số đông người cùng chức
năng, nghề nghiệp, thành một lực lượng như ddooiu ngũ của những người viết văn,
đội ngũ nhà giáo” [43].
Như vậy, ta có thể hiểu đội ngũ: “Đội ngũ là một nhóm người được tổ chức

và tập hợp thành một lực lượng để cùng thực hiện một hay nhiều chức năng, họ có
thể cùng nghề nghiệp, hoặc không cùng nghề nghiệp; nhưng có chung một ý tưởng,
mục đích nhất định và gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất, tinh thần”.
Có thể hiểu, đội ngũ giảng viên (ĐNGV) là khái niệm chỉ một tập hợp gồm
nhiều người, cùng có chức năng giảng dạy, nghiên cứu ở các trường đại học, cao
đẳng hoặc tương đương. ĐNGVlà một tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng
dạy và nghiên cứu khoa học ở các trường cao đẳng, đại học gắn kết với nhau để
thực hiện hoàn thành nhiệm vụ, theo hệ thống, mục tiêu giáo dục, cùng trực tiếp
giảng dạy và giáo dục sinh viên theo sự ràng buộc những nguyên tắc có tính chất
của ngành giáo dục và của Nhà nước. Lao động của ĐNGV là lao động trí óc, lao
động khoa học, lao động đặc thù nhằm tạo ra sản phẩm đặc biệt là con người đã
được giáo dục và đào tạo.
ĐNGV là những người có trình độ khoa học kỹ thuật nhất định, họ là những
người truyền kiến thức cho người học theo chương trình, nội dung khoa học và kế
hoạch đã định trong các bậc học nhất định, và thực hiện mục tiêu chiến lược phát
triển hệ thống GD-ĐT; đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức khoa học, có kỹ năng
nghề nghiệp cần thiết đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay.
ĐNGV là lực lượng nòng cốt, là nguồn vốn tri thức - một nguồn tài sản có
giá trị nhất của nhà trường. ĐNGV có vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống còn
của một nhà trường bởi vì ĐNGV quyết định chất lượng sản phẩm tạo ra, là uy tín
của trường đối với xã hội. ĐNGV là “nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và
được xã hội tôn vinh”, do đó GV phải có đủ đức (phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt,

16


đủ sức khỏe, lý lịch bản thân rõ ràng), đủ tài (đạt trình độ chuẩn được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ).
+ ĐNGV cơ hữu là đội ngũ được tuyển dụng làm việc chính thức ở trường
cao đẳng, đại học. ĐNGV cơ hữu phải giảng dạy theo đúng định mức do Bộ Giáo

dục và Đào tạo quy định.
+ ĐNGV thỉnh giảng là đội ngũ được mời từ các trường cao đẳng và đại
học khác, các Viện Nghiên cứu, các doanh nghiệp..... tham gia giảng dạy tại trường.
ĐNGV thỉnh giảng phải giảng dạy theo đúng thời lượng, nội dung, chương trình đã
thỏa thuận trong hợp đồng mời giảng.
1.1.2. Xây dựng đội ngũ giảng viên trường đại học
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) rất quan tâm đến công tác
đào tạo con người thông qua hoạt động giáo dục. Người khẳng định “bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Để thực hiện
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang đó, theo Người cần phải đầu tư cho giáo dục, trong đó
công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo là vấn đề then chốt. Theo Người
“…nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… Không có giáo dục, không có
cán bộ thì cũng không nói đến kinh tế, văn hóa”. Do đó, Hồ Chí Minh đã khẳng
định “Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những người anh
hùng vô danh”.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục là xây
dựng ĐNGV. Người khẳng định trách nhiệm đó là của toàn xã hội; với vai trò là
người lãnh đạo Đảng và Nhà nước cần phải “quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này,
phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt”. Người yêu cầu cán bộ làm công tác quản lý
giáo dục “phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và
kiến quốc”.
Đối với giáo dục đại học, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giải pháp
phát triển ĐNGV là giải pháp trọng tâm nhằm đáp ứng mục tiêu chung của toàn
giáo dục nói chung và của giáo dục đại học nói riêng.

17


Xây dựng ĐNGV chính là công tác phát triển nguồn nhân lực trực tiếp cho
nhà trường, đây là đội ngũ tham gia giảng dạy và có ảnh hưởng lớn đến đối tượng

được hưởng thụ là học viên, sinh viên. ĐNGV tốt, có kinh nghiệm, tâm huyết sẽ
mang lại hiệu quả lớn về chất lượng giảng dạy, đào tạo được thế hệ sinh viên có
năng lực, thực tài và ngược lại .
Vì vậy, Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Chính phủ cũng đã
xác định rõ “Xây dựng đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu
và chuẩn về chất lượng đáp ứng yêu cầu vừa tăng về qui mô vừa nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục”. Đó cũng chính là quan niệm (cách hiểu) về phát triển
ĐNGV giai đoạn hiện nay.
1.2. Nội dung hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên trong các trƣờng đại
học
1.2.1. Xác định mục tiêu xây dựng đội ngũ giảng viên
Trong các trường đại học hiện nay thì số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp
thành chỉnh thể nguồn lực giảng viên, đó là những yếu tố cơ bản trong nội dung xây
dựng ĐNGV. Xây dựng ĐNGV phải phát triển toàn diện, về cả phẩm chất đạo đức
nhà giáo lẫn các yếu tố về chất lượng, số lượng. Có thể kể đến mục tiêu xây dựng
ĐNGV của các trường đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục như sau:
- Xây dựng ĐNGV đáp ứng đầy đủ phẩm chất chính trị:
Các tiêu chí này được xác định như: ĐNGV cần chấp hành đầy đủ chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; Tuân thủ các quy trình, quy
định về chuyên môn, nghiệp vụ và quy tắc ứng xử. Không ngừng học tập, rèn luyện,
nâng cao đạo đức chính trị, lối sống lành mạnh
- Xây dựng ĐNGV có đạo đức nghề nghiệp:
Đạo đức nghề nghiệp có thể hiểu là giảng viên cần phải tâm huyết với nghề,
có ý thức giữ gìn danh dự của người nhà giáo, có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng,
ứng xử với học viên, đồng nghiệp hòa nhã, hòa đồng, có tinh thần bảo vệ lẽ phải,
công bằng và lợi ích của học viên, của đồng nghiệp và cộng đồng.

18



×