Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.11 KB, 2 trang )
CÔNG CHÚNG VĂN HỌC
VÀ QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC VIỆT NAM
ThS.Phạm Văn Hưng
Khoa Văn học, Đại học KHXH&NV
Trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam, các yếu tố của đời sống văn học
nhất là các yếu tố nội tại đã được quan tâm một cách đúng mức nhưng các yếu tố ngoại tại
lại đã từng bị xem là “xã hội học” nên bị bỏ qua hoặc chưa quan tâm đúng mức, trong đó
có mối quan hệ công chúng – tác giả, đặc biệt là vai trò của công chúng văn học trong quá
trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại, vấn đề công chúng văn học gần như
không được đặt ra. Như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nhà nho viết văn không để
nông dân đọc và đọc văn không để nông dân nghe. Trong xã hội trung đại, con người sống
và quan hệ với nhau theo phận vị, theo thứ bậc, người đọc tự đi tìm tác phẩm, tác phẩm
văn học là quà tặng chứ không phải mặt hàng. Sang thời cận hiện đại, nhà nho phải tự
bươn trải để kiếm sống, tác phẩm trở thành hàng hoá, bên cạnh đó một số nhà nho duy tân
dùng văn chương làm vũ khí tuyên truyền nên văn chương phải phù hợp với thị hiếu của cả
công chúng thành thị và công chúng nông thôn. Đây là một bước chuyển thầm lặng mà vô
cùng quan trọng. Quan hệ tác giả - công chúng đã chuyển từ quan hệ bề trên - kẻ dưới
thành quan hệ ngang hàng, thậm chí khách hàng phần nào đã là “Thượng đế” theo đúng
cách hiểu của chúng ta ngày nay.
Khi văn học Việt Nam đi lên con đường hiện đại hoá, công chúng văn học dần
chuyển mình trong đó có sự đa tạp của nhóm công chúng là nhà nho, nhóm công chúng là
trí thức tân học, nhóm công chúng là dân nông thôn, nhóm người chỉ biết đọc - viết đơn
thuần và nhóm có học thực sự (biết Nho, biết Pháp, biết quốc ngữ). Tuy nhiên, về cơ bản,
đây vẫn là một công chúng chưa được đào tạo căn bản và đáng tin cậy vì dến 1945 ta vẫn
có 95% dân số mù chữ. Đến 1930, biết chữ và có học mặc định là biết quốc ngữ và được
đào tạo tân học, Tây học. Thêm nữa, phần đông nhóm công chúng này bị giãn cách về mặt
văn hoá với quá khứ nên có những mặt thuận lợi và hạn chế trong tiếp thu di sản truyền
thống của dân tộc. Chính việc truyền bá chữ Quốc ngữ - thứ chìa khoá vạn năng cho công
cuộc hiện đại hoá trên mọi phương diện – đã giúp việc phổ biến văn học ra với đông đảo