Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.96 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ HỒNG PHƯƠNG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ HỒNG PHƯƠNG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS Võ Khánh Vinh


HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận văn là trung thực và
nguồn dẫn rõ ràng. Nếu có sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giải luận văn

Đinh Thị Hồng Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT9
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU ................................................ 9
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu .................................................................................................. 9
1.2. Các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu .......................................................................................................... 12
Chương 2. THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG .......................................................................................................... 33
2.1. Kết quả quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn thành phố Hải Phòng ............................................................................ 33
2.2. Những vi phạm, sai lầm trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hải Phòng và nguyên nhân............... 37
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐÚNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ........................................................................ 57

3.1. Yêu cầu bảo đảm quyết định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn thành phố Hải Phòng ................................................... 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng với các tội xâm
phạm sở hữu tại thành phố Hải Phòng ........................................................ 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 79
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

QĐHP

: Quyết định hình phạt

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


TAND

: Tòa án nhân dân

TP. Hải Phòng

: Thành phố Hải Phòng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU
BẢNG
Bảng 2.1:Thống kê tổng số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm và phúc thẩm tại
thành phố Hải Phòng (giai đoạn từ 2011 đến 2016) ....................................... 82
Bảng 2.2: Thống kê số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm về tội xâm phạm sở
hữu của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2011-2016) ........ 84
Bảng 2.3: Thống kê số vụ án và bị cáo xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân
thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2011 - 2016) ................................................ 85
Bảng 2.4: Thống kê số vụ án và bị cáo đã xét xử phúc thẩm về tội xâm phạm
sở hữu của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2011 - 2016) .. 86

BIỂU
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ số bị cáo đã xét xử phúc thẩm về các tội xâm phạm sở hữu
so với các loại tội phạm khác (giai đoạn 2009 - 2014) ................................... 82
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu số bị cáo đã xét xử phúc thẩm về các tội xâm phạm sở
hữu so với số bị cáo đã xét xử phúc thẩm về các loại tội khác (giai đoạn 2011

- 2016) ............................................................................................................. 83
Biểu đồ 2.3: Số bị cáo xét xử phúc thẩm về các tội xâm phạm sở hữu tại Hải
Phòng bị sửa về hình phạt (Số liệu từ năm 2011 -2016) ................................ 83
Biểu đồ 2.4: Tổng số bị cáo xét xử phúc thẩm bị sửa về hình phạt tại Hải
Phòng (Số liệu từ năm 2011 - 2016) ............................................................... 83


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm thay đổi mọi mặt
của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình
thành nhiều thành phần kinh tế với nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Trải qua
hơn 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại
những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại như sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, các tệ nạn xã hội gia tăng là cơ sở
phát sinh các loại tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu, gây ra hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng về nhiều mặt cho xã hội, tạo ra trở lực đối với sự
phát triển của xã hội.
Một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước thực sự của dân, do
dân và vì dân là chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay. Mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được
chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị là:
"Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [3].
Khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, ngày càng hội nhập

sâu rộng; tình hình tội phạm nói chung ngày càng gia tăng, có chiều hướng
phức tạp, tinh vi hơn. Việc xử lý đối với tội phạm gặp nhiều khó khăn và tình
trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm vẫn xảy ra và chưa có giải pháp hiệu quả. Để
1


đáp ứng được yêu cầu đặt ra thì cần đảm bảo cho công tác xét xử nhiều yếu tố
như: xây dựng pháp luật, công tác tổ chức, đào tạo... Việc nghiên cứu lý luận
và thực tiễn các quy định của pháp luật hình sự để xử lý tội phạm là cần thiết
và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP. Hải
Phòng thời gian qua và hiện nay vẫn diễn biến phức tạp không có chiều
hướng suy giảm, gây mất ổn định trật tự, trị an, xã hội, ảnh hưởng tiêu cực
đến nhiều mặt của đời sống, kinh tế, xã hội của người dân. Mặc dù trong thời
gian qua ngành TAND TP. Hải Phòng đã có những đóng góp đáng kể vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn
thành phố thông qua hoạt động xét xử và quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu nhưng không hẳn hoạt động xét xử và quyết định hình phạt
nói chung, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng đã
hoàn thiện và đạt kết quả cao nhất.
Việc nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm túc để chỉ ra những mặt
tồn tại; phân tích các nguyên nhân và đề ra các giải pháp để bảo đảm quyết
định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu trong hoạt động xét xử
quyết định hình phạt của ngành TAND TP. Hải Phòng, nhằm nâng cao vai trò
và những đóng góp của ngành TAND tới công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung, tội xâm phạm sở hữu nói riêng trên địa bàn TP. Hải Phòng là
đòi hỏi mang tính cấp thiết.
Bởi vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Quyết định hình phạt đối
với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” làm luận văn

thạc sĩ luật học có ý nghĩa và đóng góp quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, khoa học luật hình sự là một trong những ngành khoa học
pháp lý được nhiều người quan tâm hơn so với các ngành khoa học pháp lý
khác. Quyết định hình phạt nói chung có vị trí, vai trò quan trọng trong giai
đoạn xét xử một vụ án cụ thể. Vì vậy, từ trước tới nay đã có Luận án tiến sĩ,
nhiều Luận văn thạc sĩ, các công trình khoa học nghiên cứu về các đề tài có
liên quan đến việc Quyết định hình phạt đã được đăng trên các tạp chí, bài
báo của các tác giả có tên tuổi trong lĩnh vực pháp luật.
Ở góc độ Luận án tiến sĩ luật học, có luận án về đề tài “Quyết định hình
phạt trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Tuyết Miên đã bảo vệ
thành công năm 2003. Bên cạnh đó, có rất nhiều Luận văn thạc sĩ luật học đã
nghiên cứu vấn đề quyết định hình phạt như: “Quyết định hình phạt trong
những trường hợp đặc biệt” của tác giả Hoàng Chí Kiên bảo vệ năm 2004 tại
Đại học Luật Hà Nội; tác giả Phạm Thị Thanh Nga với đề tài “Tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trong việc định tội danh và quyết định hình phạt” bảo
vệ tại Đại học Luật Hà Nội cùng năm 2004; tác giả Phạm Đình Dũng đã bảo
vệ đề tài “Căn cứ quyết định hình phạt: những vấn đề lý luận và thực tiễn” tại
khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2006. Ngoài ra còn có các Luận văn
thạc sĩ đã bảo vệ tại khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: “Quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Minh Khuê bảo vệ năm 2007; đề tài “Quyết định
hình phạt trong đồng phạm” của tác giả Nguyễn Thị Bình bảo vệ năm 2010;
đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phí

Thành Chung bảo vệ năm 2010; đề tài “Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật
định: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn: trên cơ sở các số liệu thực tiễn của
Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định” của tác giả Nguyễn Hải Dũng bảo vệ năm
3


2007; đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Bùi Thị Chinh Phương bảo vệ năm 2011 hay tác giả Chu Thị
Trang Vân cũng đã có nhiều bài viết như: “Tìm hiểu việc định tội và quyết
định hình phạt từ phương diện là những hoạt động áp dụng pháp Luật Hình sự
cơ bản của Toà án”; “Các chế định trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm
hình sự, hình phạt và miễn hình phạt trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền” đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật. Liên quan đến
tài liệu nghiên cứu vấn đề định quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu còn được đề cập trong trong một số tài liệu chuyên khảo như: PGS.
TS. Nguyễn Ngọc Chí về "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu"; PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, "Yếu tố chức vụ, quyền hạn trong các tội
xâm phạm sở hữu"; "Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở
hữu". Những bài nghiên cứu trên đã khái quát được một số vấn đề lý luận và
thực tiễn quyết định hình phạt nói chung. Tuy nhiên, các công trình hoặc mới
chỉ nghiên cứu ở phạm vi khái quát những vấn đề lý luận hoặc quyết định
hình phạt ở những khía cạnh khác nhau như: Quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội có tổ chức; quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt... Các đề tài và công trình nghiên cứu
khoa học cũng chỉ nghiên cứu và đưa ra những giải pháp chung hoặc đi vào
vấn đề cụ thể khác nhưng chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu chuyên
sâu, chỉ ra những vi phạm, sai lầm và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm khắc
phục những vi phạm sai lầm trong việc quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP. Hải Phòng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu,

khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình, tài liệu nghiên
cứu cơ bản và trực diện về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, do nền kinh tế xã hội không ngừng vận động và biến đổi, thời gian qua trên địa bàn TP. Hải
4


Phòng số vụ án xâm phạm sở hữu luôn chiếm tỷ lệ cao, trong đó việc quyết
định hình phạt của Tòa án trên thực tế còn nhiều vi phạm, sai lầm gây bức xúc
trong dư luận quần chúng, làm giảm lòng tin đối với pháp luật và chính sách
của Đảng và Nhà nước. Những nghiên cứu về vấn đề QĐHP vẫn nằm ở phạm
vi lý luận, khái quát chưa chỉ rõ những tồn tại, vi phạm cụ thể ở trong những
phạm vi không gian và thời gian khác nhau, đặc biệt ở một địa bàn cụ thể là
TP. Hải Phòng. Như vậy, tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần
nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn thành phố Hải Phòng" là đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề QĐHP
và thực trạng việc Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu của
Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng nhằm góp phần làm sáng tỏ những vi phạm,
sai lầm, xung quanh việc quyết định hình phạt đối với nhóm tội này, từ đó chỉ
ra nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm; thông qua đó đưa ra những giải
pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt nói chung và đối với các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng.
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu;
- Phân tích tình hình quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng trong giai
đoạn từ năm 2011 - 2016 và nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong

QĐHP;
5


- Phân tích chỉ rõ những những tồn tại, hạn chế của những quy định của
pháp luật hình sự hiện hành, Bộ luật Hình sự 2015 nói chung, Bộ luật Hình sự
1999 nói riêng, những tồn tại vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng trong việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn TP. Hải Phòng. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp
bảo đảm quyết định hình phạt đúng và nâng cao chất lượng quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu; khắc phục những tồn tại, vi phạm
trong việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu tại TP. Hải
Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
và thực tiễn quyết định hình phạt đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu của Tòa
án nhân dân hai cấp trên địa bàn TP. Hải Phòng trên cơ sở BLHS năm 1999,
sửa đổi, bổ sung năm 2009 và những văn bản pháp luật có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên tính chất của hành vi khách quan, các tội xâm phạm sở hữu
quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 được chia làm 2 nhóm:
+ Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được quy định
từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.
+ Các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt được quy định
từ Điều 141 đến Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Trong luận văn sẽ nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh
việc quyết định hình phạt qua thực tiễn xét xử tại các Tòa án nhân dân hai cấp
trên địa bàn TP. Hải Phòng.
6



Về thời gian: Quyết định hình phạt là một đề tài rộng, phức tạp có liên
quan đến nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở tình hình thực tế tại địa bàn TP. Hải
Phòng luận văn sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu về vấn đề quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu, giai đoạn 2011 đến 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài sẽ thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, các quan điểm, đường
lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp bản
án, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án
nhân dân các cấp trên địa bàn TP. Hải Phòng. Phương pháp so sánh pháp luật
để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm
mới trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

7



Luận văn không những là một tài liệu phân tích chuyên sâu và chỉ ra
những hạn chế bất cập của các quy phạm pháp luật có liên quan mà còn góp
phần mang đến cho người đọc một cái nhìn vừa có tính chất lý luận vừa có
tính thực tiễn của hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu, để từ đó khắc phục tình trạng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong việc
giải thích và áp dụng pháp luật do các quy định pháp luật về quyết định hình
phạt vẫn còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn chỉ ra được những tồn tại hạn
chế; đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và
nâng cao hiệu quả hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu ở TP. Hải Phòng. Ngoài ra còn góp phần bổ sung và phát triển lý luận,
phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật trong xét xử của nói chung, trong việc quyết định hình phạt nói
riêng của ngành TAND trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu
Chương 2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn TP. Hải Phòng
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng đối với
các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn TP. Hải Phòng

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
Khi nghiên cứu luật hình sự Việt Nam bên cạnh các khái niệm về tội
phạm, định tội danh, hình phạt… khái niệm QĐHP được coi là một trong
những khái niệm cơ bản và quan trọng thể hiện tập trung nhất bản chất giai
cấp và chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam. Trong hầu hết các quốc
gia, luật hình sự đều là văn bản quy phạm pháp luật - nơi xác định hành vi nào
là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới khách thể được pháp luật hình sự bảo
vệ, qua đó đưa ra các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước
đối với người có hành vi phạm tội. Do đó, có thể khẳng định rằng giữa tội
phạm và hình phạt cần có một nhân tố quan trọng đóng vai trò cầu nối, móc
xích quan trọng đó là QĐHP.
Mặc dù là một khái niệm quan trọng nhưng tới nay, pháp luật hình sự
Việt Nam vẫn chưa có một văn bản chính thức để định nghĩa cụ thể về khái
niệm QĐHP. Khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới góc độ là một khái
niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ thống văn bản
pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Trong khoa học luật hình sự đã có
nhiều nhà nghiên cứu về luật hình sự đã đưa ra các khái niệm khác nhau về
vấn đề này. Qua việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau về định nghĩa khoa
học của QĐHP, tác giả có quan điểm về việc quyết định hình phạt đối với các
tội xâm phạm sở hữu như sau:

9


Quyết định hình phạt đối với các loại tội xâm phạm sở hữu là một giai
đoạn áp dụng pháp luật hình sự trong hoạt động xét xử, thể hiện ở việc Tòa
án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong phạm vi quy

định tại các điều luật tương ứng thuộc Chương XIV - Các tội xâm phạm sở
hữu của BLHS năm 1999 (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) để
áp dụng đối với người phạm tội, thể hiện trong bản án.
1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
QĐHP là một giai đoạn rất quan trọng trọng hoạt động xét xử của Tòa
án. QĐHP đối với người phạm tội có ý nghĩa về chính trị, xã hội và pháp lý.
QĐHP có căn cứ, đúng pháp luật, công bằng là tiền đề, điều kiện để đạt được
mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục người bị kết án trở thành người có
ích cho xã hội, mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Đồng thời,
QĐHP đúng còn góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh và phòng chống tội
phạm, bảo vệ và tăng cường pháp chế XHCN và trật tự pháp luật.
Việc quyết định hình phạt đúng sẽ là cơ sở để đạt được mục đích của
hình phạt và đương nhiên trong trường hợp này sẽ có tác động tích cực tới công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hiệu quả đạt được của hình phạt càng cao
trong thực tế thì càng tiến gần đến mục đích của hình phạt. Việc nhà nước xây
dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện chỉ có ý nghĩa khi việc quyết định hình
phạt trong thực tế được đúng và việc Tòa án quyết định hình phạt đúng cũng sẽ
là cơ sở để việc chấp hành hình phạt phát huy tác dụng. Nếu Tòa án quyết định
hình phạt không đúng, không tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của
hành vi phạm tội đã gây ra hoặc không phù hợp với nhân thân người phạm tội
sẽ làm giảm hiệu quả của hình phạt, người phạm tội bị kết án sẽ không thấy
được tính đúng đắn của bản án từ đó không tích cực lao động cải tạo để trở
thành người có ích khi tái hòa nhập cộng đồng, gây dư luận xã hội không tốt,

10


làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với pháp luật, không động
viên, phát huy được sức mạnh của quần chúng tham gia vào công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, xa hơn nữa là không bảo đảm mục đích của hình phạt.

Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được mục đích
của hình phạt. Điều 27 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định: “Hình phạt không
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích
cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội
chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [19].
Vì vậy, khi quyết định hình phạt Tòa án phải luôn cân nhắc để đưa ra
được loại và mức hình phạt tương xứng bảo đảm hai mục đích trừng trị và
giáo dục của hình phạt. Trừng trị và giáo dục là chức năng của pháp luật, thể
hiện rõ sự tiến bộ trong hoạt động lập pháp và thể hiện bản chất nhân đạo của
nhà nước ta. Nếu Tòa án quyết định hình phạt thiên về tính trừng trị sẽ làm
cho hình phạt quá nặng, người phạm tội có thể nảy sinh tâm lý tiêu cực không
chấp hành hoặc chấp hành hình phạt một cách miễn cưỡng mà không thực sự
nhận ra lỗi lầm để tự mình lao động, cải tạo, hoàn lương. Ngược lại, nếu Tòa
án quyết định hình phạt quá thiên về tính giáo dục sẽ làm cho pháp luật thiếu
tính mạnh mẽ, người phạm tội coi thường pháp luật, mất niềm tin đối với
quần chúng nhân dân, không thể hiện được tính răn đe, phòng ngừa đối với
những người có ý định phạm tội. Do đó, Tòa án không được đề cao hay coi
nhẹ mặt nào mà phải đặt trong mối liên hệ tổng quát trên cơ sở các căn cứ
quyết định hình phạt để áp dụng một hình phạt cụ thể tương xứng dành cho
người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Quyết định hình phạt đúng còn góp phần quan trọng vào việc duy trì,
củng cố nền pháp chế XHCN. Trong hoạt động QĐHP đòi hỏi các Thẩm

11


phán, Hội thẩm nhân dân phải nhận thức sâu sắc, thống nhất và tuyệt đối tuân
thủ các quy định về QĐHP cũng như các quy định pháp luật có liên quan
nhằm bảo đảm hình phạt đã tuyên phải có tính thống nhất, phù hợp với tình

hình, tương xứng với người đã thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm mục đích
của hình phạt. Hơn nữa, việc Tòa án tuyên một hình phạt thỏa đáng dành cho
người phạm tội sẽ có tác dụng giáo dục sâu rộng trong nhân dân, làm cho
quần chúng thấy được sự nghiêm minh của pháp luật để từ đó tự giác tuân thủ
pháp luật, tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.2. Các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu
1.2.1 Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu
Các nguyên tắc của luật hình sự là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt
toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng luật hình sự. Các nguyên tắc này
không những được tuân thủ khi xây dựng các văn bản pháp luật hình sự mà
còn đòi hỏi phải được triệt để tuân thủ khi áp dụng những văn bản này vào
thực tế. QĐHP là một khâu quan trọng trong quá trình áp dụng luật hình sự.
Vì nếu như việc cân nhắc các mục đích của hình phạt một mặt cho phép xác
định được loại và mức hình phạt nào trong những trường hợp cụ thể đó có khả
năng tối ưu nhất trong việc bảo vệ các quan hệ xã hội, mặt khác, cũng có khả
năng tốt nhất là thỏa mãn ý thức pháp luật của nhân dân, cải tạo và giáo dục
người bị kết án thì việc tuân theo các nguyên tắc của luật hình sự nói chung
và những nguyên tắc QĐHP nói riêng sẽ bảo đảm hoạt động đúng đắn của
Tòa án khi áp dụng các chế tài hình sự, tạo điều kiện cho việc đạt được mục
đích và nâng cao hiệu quả của hình phạt. Điều này làm cho việc QĐHP của
Tòa án có một cơ sở xã hội, chính trị, pháp lý và đạo đức vững chắc phù hợp

12


với các giá trị tư tưởng, đạo đức tồn tại trong xã hội chúng ta hơn nữa nó còn
làm nâng cao uy tín của Tòa án, của các cơ quan bảo vệ pháp luật và của Nhà
nước nói chung.

Do vậy, trong khi quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình phạt
đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng đòi hỏi cũng phải tuân thủ triệt để
theo các nguyên tắc của BLHS. Những nguyên tắc này đảm bảo cho việc
QĐHP được công minh, có căn cứ, đúng pháp luật, đạt được mục đích của
hình phạt. Cụ thể là:
- Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc công bằng
- Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
1.2.1.1. Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế trong quyết định hình phạt đòi hỏi các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong hoạt động xét xử và QĐHP
phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Hiến pháp, pháp luật. Trong hoạt
động xét xử của Tòa án, việc QĐHP nói chung, quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu nói riêng là hoạt động trọng tâm cốt lõi của Tòa án.
Nguyên tắc pháp chế XHCN yêu cầu trong khi xét xử, nghị án Tòa án phải
tuân thủ các quy định của luật hình thức - BLTTHS; tuân thủ các quy định
của luật nội dung - BLHS. Tất cả các hình phạt được áp dụng đối với người
có hành vi phạm tội đều phải trải qua quá trình tố tụng nghiêm ngặt từ khâu
điều tra, truy tố, xét xử và quá trình này phải được thực hiện theo đúng các
quy định của BLHS. Đặc biệt là trong khâu xét xử, nghị án, tuyên án.

13


Đối với các tội xâm phạm sở hữu, tính chất và mức độ nghiêm khắc của
hình phạt, loại và mức hình phạt được quy định cụ thể tùy thuộc vào mức độ
hậu quả thiệt hại về tài sản cụ thể do hành vi phạm tội gây ra; tính chất, động
cơ của người phạm tội; nhân thân người phạm tội. Tất cả những yếu tố trên đã
được nhà làm luật xác định và quy định cụ thể trong các điều luật tương ứng

cụ thể trong Chương XIV BLHS năm 1999. Do đó, nguyên tắc pháp chế trong
quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu cũng đòi hỏi hình phạt
đã tuyên đối với người có hành vi phạm tội cũng phải nằm trong hệ thống
hình phạt do BLHS quy định mà cụ thể là nằm trong các điều luật tương ứng
của Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999. Hình phạt
được Tòa án áp dụng không những phải nằm trong các quy định cụ thể như đã
nêu trên mà còn phải tương xứng với tính chất mức, độ thiệt hại cụ thể trong
các hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu, bảo đảm đạt được các mục đích của
hình phạt (phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng). Hình phạt trong BLHS
hiện hành nói chung, hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
không được quy định những loại hình phạt không xác định đối với tội phạm.
Vì vậy, khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu Tòa án
cũng phải quyết định áp dụng một loại và mức hình phạt cụ thể.
Nguyên tắc pháp chế về hình phạt cũng đòi hỏi nhà làm luật quy định
loại hình phạt áp dụng cũng như mức tối đa và tối thiểu của nó phải được quy
định rõ ràng trong các điều luật cụ thể, chỉ có luật mới quy định tội phạm và
hình phạt. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi QĐHP không những không
có quyền thiết lập hình phạt mới và cũng không thể áp dụng tương tự về hình
phạt mà phải hành động trong những giới hạn mà nhà làm luật đã định. Điều
đó có nghĩa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có nghĩa vụ phải tôn trọng mức
giới hạn của hình phạt đã xác định bởi luật. Đây cũng là một điểm thể hiện
nguyên tắc pháp chế trong quyết định hình phạt. Cụ thể, khi xét xử và quyết
14


định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu Hội đồng xét xử phải căn cứ
vào các quy định cụ thể của Chương IV để cân nhắc lựa chọn loại hình phạt
và mức hình phạt tương xứng được quy định trong các điều luật cụ thể, trong
các điểm khoản cụ thể. Người phạm tội bị xét xử về tội danh gì thì hình phạt
được áp dụng đối với họ phải theo đúng tội danh đó. Hội đồng xét xử không

có quyền QĐHP vượt mức tối đa mà khung hình phạt quy định đối với tội
phạm mà họ xét xử, nhưng trong những trường hợp nhất định họ có quyền
QĐHP dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định hoặc chuyển sang một hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (Điều 47 BLHS năm 1999).
Theo nguyên tắc pháp chế, đạo luật hình sự Việt Nam có hiệu lực hồi tố
trong trường hợp liên quan tới đạo luật hình sự mới nhưng nhẹ hơn, ít nghiêm
khắc hơn so với đạo luật cũ, đó là vì lợi ích xã hội và lợi ích của chính cá
nhân người phạm tội. Điều này đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 7 BLHS
năm 1999. Do đó, khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
Tòa án cũng cần triệt để tuân thủ áp dụng những trường hợp này cho phù hợp
với các nguyên tắc khác của luật hình sự.
Một yêu cầu khác của nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu còn thể hiện ở chỗ hình phạt chỉ có thể
do Tòa án quyết định đối với cá nhân người phạm tội và việc tuyên hình phạt
phải công khai tại phiên tòa và bằng một bản án. Nguyên tắc pháp chế còn thể
hiện ở tính chính xác của hình phạt được tuyên, tính lập luận và bắt buộc có lý
do trong bản án được tuyên, tính hợp lý của việc QĐHP. Trước hết là hình
phạt quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại và mức hình phạt, hai là Tòa
án phải làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ án để làm căn cứ cho việc QĐHP.
Tuy nhiên, những tình tiết đó phải được thẩm vấn, kiểm tra lại trong quá trình
xét xử đồng thời phải chỉ rõ lý do của việc QĐHP.

15


Như vậy, quá trình xét xử và QĐHP đối với các tội xâm phạm sở hữu
phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục được quy định trong BLTTHS, bảo đảm
tuân thủ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự: “Mọi
hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật

này” [21]. Toàn bộ quá trình tố tụng đi đến phiên tòa xét xử để định tội và áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước tiến hành, đó là: Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra
tội phạm; Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành quyền
công tố của Nhà nước, hay mặt Nhà nước truy tố người phạm tội và buộc tội
họ trước Tòa án. Còn Tòa án thực hiện hoạt động xét xử theo trình tự luật
TTHS quy định.
Nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt nói chung, quyết
định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng còn thể hiện ở việc
hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với chính người có hành vi phạm tội. Bởi
theo luật hình sự Việt Nam thì TNHS là TNHS cá nhân. Vì vậy, hình phạt chỉ
có thể áp dụng đối với chính cá nhân người phạm tội, chứ không được phép
áp dụng với tập thể, với các thành viên trong gia đình hoặc đối với những
người thân thiết khác của người phạm tội. Khẳng định và quy định nguyên tắc
pháp chế về hình phạt và QĐHP trong BLHS là đòi hỏi khách quan đối với
các hoạt động bảo vệ pháp luật của các cơ quan chức năng và cả đối với hành
vi của công dân. Xác định và thực hiện đầy đủ nguyên tắc này là tạo lập và
khẳng định trật tự, kỷ cương phép nước, không ngừng nâng cao trình độ văn
hoá chính trị và văn hoá pháp lý trong xã hội. Đồng thời cũng là sự thể hiện
yêu cầu bảo vệ quyền con người trong xã hội ta.

16


1.2.1.2. Nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc nhân đạo của việc quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ Tòa
án phải cân nhắc lợi ích của các bên trong một tổng thể biện chứng, hài hòa,
hợp lý giữa nhà nước và người phạm tội. Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi khi
QĐHP Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để áp dụng và tuân thủ
triệt để các quy định của luật hình sự về hình phạt cũng như về QĐHP.

Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện trước hết là thái độ khoan hồng; là việc
đặt mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội lên hàng đầu; là việc cân nhắc
tất cả các đặc điểm tốt về nhân thân của người phạm tội trong phạm vi luật
định; là việc xem xét những đặc điểm tâm sinh lý cũng như hoàn cảnh cụ thể
của người phạm tội để có thể quyết định một hình phạt ở mức cần thiết thấp
nhất vừa đủ bảo đảm mục đích ngăn ngừa người khác phạm tội và mục đích
giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong việc quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của BLHS cũng đòi hỏi
khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu, những người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền khi cân nhắc QĐHP cũng luôn luôn đặt mục đích
giáo dục, cải tạo người phạm tội lên hàng đầu, cân nhắc tất cả các đặc điểm
tốt về nhân thân của người phạm tội trong phạm vi luật định và xem xét
những đặc điểm tâm sinh lý cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để
quyết định một hình phạt ở mức cần thiết thấp nhất bảo đảm mục đích ngăn
ngừa chung và mục đích giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, thực hiện
nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu không đồng nghĩa với việc bỏ qua các quy định chung về quyết

17


định hình phạt để quyết định hình phạt một cách tùy tiện, mà ngoài việc phải
tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt bên cạnh đó Tòa án còn
cần phải tuân thủ các quy định cụ thể của các Điều luật tương ứng trong
Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999.
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa cũng là một trong những nguyên
tắc bảo đảm cho hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội đạt được

mục đích của hình phạt. Bởi, mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội.Trong
khi pháp luật hình sự của Nhà nước ta coi trọng chính sách giáo dục, cải tạo
hơn răn đe, trừng trị. Vì vậy, trong một số trường hợp người phạm tội xâm
phạm sở hữu thuộc một trong những trường hợp cụ thể như: là người chưa
thành niên, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, phạm tội chưa đạt... thì
khi xét xử và quyết định hình phạt ngoài việc áp dụng các quy định chung về
quyết định hình phạt Tòa án cũng cần em xét áp dụng các quy định khác đối
với họ khi quyết định hình phạt như các quy định tại Điều 52, các quy định từ
Điều 71 đến Điều 75 BLHS. Việc áp dụng tổng thể các quy định này của Tòa
án khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu không chỉ bảo
đảm nguyên tắc pháp chế XHCN, mà còn bảo đảm nguyên tắc nhân đạo
XHCN ưu tiên tính giáo dục trong mục đích của hình phạt.
Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu còn thể hiện ở khía cạnh. Các nhà làm luật đã xác định mức
độ chiếm đoạt hoặc mức độ thiệt hại về tài sản để làm căn cứ xác định mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội, từ đó quy định các hình phạt tương ứng
với mức độ thiệt hại trong các khung, khoản cụ thể của điều luật. Do đó, khi
quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu, nguyên tắc nhân đạo
XHCN đòi hỏi Tòa án phải căn cứ vào các điểm, khoản cụ thể của các điều
luật tại Chương XIV của BLHS để quyết định hình phạt theo nguyên tắc tội
18


phạm chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại cho xã hội ở mức độ càng cao thì hình
phạt được áp dụng càng nặng và ngược lại.
1.2.1.3. Nguyên tắc công bằng
Đề cập đến vấn đề công bằng là đề cập đến vấn đề xã hội, con người.
Trong tất cả các giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn coi con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển của xã hội. Nội

dung công bằng xã hội được Đảng và Nhà nước ta quan niệm trên tất cả các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ “Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo
cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” [1]. Trong lĩnh vực hình sự,
nguyên tắc công bằng được thể hiện bằng sự tương xứng giữa tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và TNHS của người vi phạm phải chịu.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu nguyên tắc công bằng được tuân thủ
triệt để ngay từ khâu xây dựng pháp luật. Các nhà làm luật đã thể hiện tính
công bằng thông qua việc xem xét đánh giá mức độ chiếm đoạt hoặc gây thiệt
hại về tài sản của người phạm tội để phân loại tội phạm và quy định cụ thể
trong các điểm, khoản khác nhau của các điều luật.
Nguyên tắc công bằng trong việc quyết định hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của BLHS được bảo đảm thực
hiện bằng một loạt chế định, quy phạm khác nhau. Khi xem xét quyết định
hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu, những người tiến hành tố
tụng chỉ được xem xét các chế tài hình sự được quy định trong các điều luật
cụ thể của Chương XIV để áp dụng đối với người có hành vi phạm tội theo
nguyên tắc: Hình phạt được áp dụng không chỉ công bằng giữa hành vi phạm
tội và tính chất, mức độ gây thiệt hại hoặc giá trị chiếm đoạt do hành vi phạm
tội gây ra mà còn công bằng giữa những người có hành vi phạm tội gây hậu
19


×