1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ THƢƠNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ THƢƠNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT H ÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
HÀ NỘI - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Đinh Thị Th-ơng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc nghiên cứu trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt tài sản
8
1.1.1.
Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
8
1.1.2.
Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
12
1.1.3.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
15
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật hình sự
Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
17
1.2.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
17
1.2.2.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
21
1.2.3.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
24
1.3.
Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt trong luật hình sự một số nước
26
5
1.3.1.
Luật hình sự của Liên bang Nga
26
1.3.2.
Luật hình sự của Nhật Bản
27
1.3.3.
Luật hình sự của Trung Quốc
29
1.3.4.
Luật hình sự của Thái Lan
31
1.3.5.
Luật hình sự của Malaysia
32
Chương 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
34
2.1.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
34
2.1.1.
Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất
chiếm đoạt tài sản
34
2.1.2.
Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản
35
2.1.3.
Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất
chiếm đoạt tài sản
37
2.1.4.
Mặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt
38
2.2.
Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và một số
trường hợp đặc biệt
39
2.2.1.
Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
29
2.2.2.
Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong một số trường
hợp đặc biệt
42
2.3.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về
trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt tài sản
48
6
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
58
3.1.
Sự cần thiết và cơ sở để hoàn thiện pháp luật hình sự, áp
dụng pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
58
3.2.
Hoàn thiện pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
65
3.3.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản
73
KẾT LUẬN
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Bảng thống kê tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng
số vụ, số bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt phải giải quyết trong cả nước từ năm
2009-2013
49
2.2
Bảng thống kê cơ cấu về các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt tài sản phải xét xử trong cả nước
từ năm 2009 đến năm 2013
50
2.3
Số vụ, số bị cáo phải xét xử về về các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt tương quan với số vụ, số bị
cáo phải xét xử về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chiếm đoạt tài sản trong cả nước từ năm 2009 đến
năm 2013
51
2.4
Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản từ
năm 2009 đến năm 2013
52
2.5
Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án đối với các
tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài
sản từ năm 2009 đến năm 2013
54
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã cho thấy vấn đề lợi ích vật
chất luôn là tâm điểm của mọi xung đột trong xã hội. Do đó, việc đảm bảo
quyền sở hữu về tài sản luôn được các Nhà nước quan tâm. Ngay sau Cách
mạng tháng Tám 1945 Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp cùng các đạo luật
để ghi nhận và bảo vệ quyền tài sản của các chủ sở hữu; trong đó, luật hình sự
thể hiện chức năng bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành
vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy
định các mức hình phạt tương ứng.
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định các tội
xâm phạm quyền sở hữu tại Chương XIV từ Điều 133 đến Điều 145. Tùy theo
tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội và giá trị tài sản xâm phạm
mà mỗi hành vi có hình phạt tương ứng. Căn cứ vào tính chất của mục đích
phạm tội, có thể chia 13 tội danh thuộc chương sở hữu thành hai nhóm là các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản và các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản.
Sau gần 30 năm đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường, các trường
hợp phạm tội xâm phạm sở hữu diễn biến ngày càng phức tạp về cả số lượng
lẫn chất lượng, gây thiệt hại lớn cho chủ sở hữu tài sản. Các quy định của
pháp luật hình sự giữ một vai trò rất quan trọng, góp phần bảo vệ tối đa
quyền, lợi ích vật chất của các chủ thể là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản;
chống lại các hành vi xâm phạm sở hữu dù đó là hành vi có mang tính chất
chiếm đoạt hay không. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự đã cho thấy,
Tòa án cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng khác còn gặp nhiều khó khăn
vướng mắc trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản. Mặc dù Bộ luật hình sự
9
hiện hành của nước ta quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm và hình phạt đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đã phần nào
giải quyết được vấn đề trừng trị tội phạm. Tuy nhiên, trong một số chừng mực
nhất định còn tồn tại nhiều tranh cãi và vướng mắc xung quanh vấn đề trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm
đoạt. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản cả trên khía cạnh lập pháp và áp
dụng pháp luật cũng như việc xác định các nguyên nhân, điều kiện của loại tội
này để từ đó có những biện pháp phòng, chống có hiệu quả là cần thiết. Để
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những vấn đề đó, chúng tôi chọn "Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm
đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của luận văn
thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, ở các góc độ khác nhau, đã có một số công trình nghiên cứu
được công bố, đồng thời được thể hiện ở một số luận văn, luận án, sách
chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình như: TS. Nguyễn Ngọc Chí,
Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu (Luận án Tiến sĩ); ThS.
Nguyễn Mai Bộ, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999
được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản chính trị
Quốc gia; TS. Nguyễn Ngọc Chí, Vấn đề định tội danh trong các tội xâm
phạm sở hữu (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, 6, 2, 8 - 1997; GS.TSKH
Lê Văn Cảm (2004), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
Tập thể tác giả do TSKH.PGS Lê Văn Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên) GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh - TS. Trần Văn
Luyện - TS. Trần Quang Tiệp - ThS. Nguyễn Mai Bộ - ThS. Nguyễn Văn
10
Huấn, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm
2009 (phần các tội phạm); ThS.Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
2006; PGS.TS. Lê Thị Sơn, Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình
sự, Tạp chí Luật học, số 5/1997; Nguyễn Ngọc Chí, Đối tượng của các tội
xâm phạm sở hữu, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 2/1998; Trương Quang
Vinh, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 4/2000; Nguyễn Thanh Hải, Cần sửa
đổi, bổ sung một số điều luật qui định về tội xâm phạm sở hữu tại chương XIV
Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Số 1/2003; Nguyễn Ngọc Anh, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
về các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao, Số 1/2009; Trần Vi Dân, Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Thanh tra, Thanh tra Chính
phủ, số 3/2013; Tưởng Bằng Lượng, Những điểm mới của chương "Các tội
xâm phạm sở hữu" trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí Khoa học pháp lý,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 2/2000; Nguyễn Văn
Trượng, Những vấn đề cần hoàn thiện đối với các tội xâm phạm sở hữu,Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 3/2008; Trang Thu, Về hình phạt
đối với một số tội xâm phạm sở hữu của công dân, Tạp chí Toà án nhân dân,
Toà án nhân dân tối cao, số 11/1998; Đỗ Ngọc Lợi, Xác định hành vi chiếm
đoạt của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Tạp chí Kiểm sát,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2013; Trần Thị Phường, Định tội danh
đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và thực tiễn áp
dụng trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006 - 2011 (Luận văn thạc sĩ luật
học), Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, vv… Trong số các công trình nghiên cứu
này, mặc dù đã có luận án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu" của tác giả Nguyễn Ngọc Chí nghiên cứu một cách khái quát
11
nhất vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung
song công trình này được thực hiện cách đây đã lâu, khi tình hình xã hội nước ta
còn chưa có nhiều chuyển biến và Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn chưa được sửa
đổi, bổ sung. Mặt khác, vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản vẫn chưa được đề cập một cách cụ
thể và sâu sắc trong luận án tiến sĩ này. Qua nghiên cứu cho thấy đa số các
công trình chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu hẹp về một hay một vài tội xâm
phạm sở hữu. Ngoài ra, việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản chỉ được đề cập gián
tiếp qua một số tài liệu luật học hay qua một số bài viết đơn lẻ trên các tạp
chí. Chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích sâu về mặt lý luận, thực tiễn,
đặc biệt là nghiên cứu thành hệ thống và đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án
nước ta về việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội
này. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam"
là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" vừa
có ý nghĩa thiết thực cho việc xử lý và phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt tài sản, vừa làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và
thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt tài sản. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn pháp luật và việc
áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sở hữu từ năm 2009-2013, đề tài nghiên cứu nhằm mục
đích: làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
12
chất chiếm đoạt tài sản, góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự đồng thời tìm ra
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành các quy định của pháp
luật về trách nhiệm hình sự đối với các tội này.
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài làm rõ một số
vấn đề sau:
- Các vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
- Những quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và thực
tiễn áp dụng các quy định đó trong xét xử từ năm 2009 đến năm 2013.
- Chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng các
quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt tài sản; từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy
định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và thực tiễn xét xử từ năm
2009 đến năm 2013 trên cơ sở của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
ngày 19/6/2009 và những văn bản pháp luật có liên quan.
Về phạm vi nghiên cứu:
Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan, các tội xâm phạm sở
hữu có thể được chia làm 2 nhóm:
+ Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản được quy
định từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự.
+ Các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt được quy
định từ Điều 141 đến Điều 145 Bộ luật hình sự.
13
Việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản là một vấn đề hết sức phức
tạp và liên quan nhiều lĩnh vực. Căn cứ vào tình hình thực tế trong xét xử,
luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản từ năm
2009 đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm
đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam; khái quát lịch sử hình
thành và phát triển về vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội này từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; khái quát trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình
sự của một số nước; phân tích số liệu thực tiễn xét xử và việc áp dụng các quy
định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản trên cả nước từ năm 2009 đến năm 2013, nghiên cứu
một số bản án hình sự của Tòa án để từ đó chỉ ra những tồn tại, vướng mắc
14
trong áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt và đề ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự quy định về trách nhiệm hình sự
đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt cũng như
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và học
tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ
khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ
luật hình sự Việt Nam liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn
xét xử.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng.
15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ của khoa học luật hình sự. Trong
khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay nhiều quan điểm khác nhau về
trách nhiệm hình sự. Vì vậy, chúng tôi tiếp cận các khái niệm trách nhiệm
hình sự chung, từ đó đưa ra khái niệm trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản theo nghĩa tương ứng.
TS. Trịnh Tiến Việt có quan điểm:
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và
là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện
bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước
do Bộ luật hình sự quy định đối với người phạm tội [51, tr. 224].
Với định nghĩa này, tác giả đã chỉ ra rằng trách nhiệm hình sự là khái
niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm hình phạt. Trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự
quy định đối với người phạm tội, còn hình phạt chỉ là một trong những biện
pháp cưỡng chế chủ yếu và là một dạng của trách nhiệm hình sự.
Do đó, theo nghĩa này, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản là một dạng của trách nhiệm
16
pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, đồng thời được thực hiện bằng
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật
hình sự quy định đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất
chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, cách hiểu này về trách nhiệm hình sự còn chung, ở một góc
độ nào đó chưa phân định rõ bản chất của trách nhiệm hình sự với hình thức
biểu hiện của trách nhiệm hình sự, đặc biệt là vấn đề hậu quả của những người
phạm các tội này (hình phạt, biện pháp tư pháp, việc truy cứu, chịu án tích…).
TS. Phạm Mạnh Hùng thì cho rằng:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý bất
lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc
người đó thực hiện tội phạm và là kết quả của việc áp dụng các quy
phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án
có hiệu lực pháp luật và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác
do luật hình sự quy định [23, tr. 156].
Như vậy, khái niệm về trách nhiệm hình sự này được xây dựng dựa
trên cơ sở sự tổng hợp các đặc điểm cấu thành của nó bao gồm: trách nhiệm
hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội
phạm; trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội; trách
nhiệm hình sự được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật
và; trách nhiệm hình sự là trách nhiệm trước Nhà nước chứ không phải là
trách nhiệm trước cá nhân người bị hại.
Theo đó, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt tài sản được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà người
phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và là kết quả của việc
Tòa án áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội đó.
17
Ngoài ra, phổ biến hơn là các khái niệm về trách nhiệm hình sự theo
nghĩa tổng thể (nghĩa rộng) và nghĩa trực tiếp. Theo nghĩa tổng thể, trách nhiệm
hình sự bao gồm hai mặt đan xen thống nhất là: 1) thực hiện trách nhiệm hình
sự từ phía Nhà nước; và 2) chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Tuy
đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng việc thực hiện truy cứu trách nhiệm
hình sự từ phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu trách nhiệm hình sự
của người phạm tội. Trách nhiệm hình sự thực chất là nội dung của mối quan
hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm được
thực hiện, và được cụ thể hóa bằng các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và
người phạm tội. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn đã có quan
điểm như sau:
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý
bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu
trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của
trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án
tích… [22, tr. 126]
Có thể nói rằng, ở chừng mực nhất định quan điểm này có những
nhân tố hợp lý, được xem xét trong phạm vi mở rộng hai chiều cả hai phía
chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, đồng thời gắn với thực tiễn thực hiện
trách nhiệm hình sự về mặt hình thức (cả góc độ luật tố tụng hình sự).
Theo nghĩa này, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt tài sản là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của
các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự - phát sinh trên cơ sở một
hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản của
công dân được thực hiện. Các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình
sự này, cũng như các quan hệ pháp luật hình sự nói chung là Nhà nước và
người phạm tội.
Như vậy, theo khái niệm này, Nhà nước và người phạm tội đồng thời
là hai bên chủ thể của trách nhiệm hình sự. Nhà nước, đại diện là các cơ quan
18
tiến hành tố tụng có quyền truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chịu
hình phạt tương xứng và có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người phạm tội không bị xâm phạm. Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự
tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, các biện pháp cưỡng
chế Nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Ngoài ra, theo nghĩa trực tiếp, trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của
người phạm tội đối với Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội, bao
hàm nghĩa vụ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp luật quy
định đối với hành vi phạm tội đó [44, tr. 210].
Tương tự, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt tài sản là nghĩa vụ của người phạm tội đối với
Nhà nước phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi
bị coi là tội phạm xâm phạm tài sản không có tính chất chiếm đoạt tài sản.
Với những cách hiểu như trên, khái niệm trách nhiệm hình sự theo
nghĩa trực tiếp không hề mâu thuẫn với khái niệm trách nhiệm hình sự theo
nghĩa rộng. Nghĩa vụ của người phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất
lợi do việc đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm xâm phạm tài sản không có
tính chất chiếm đoạt đồng thời cũng chính là quyền và nghĩa vụ của Nhà nước
buộc người phạm tội phải gánh chịu các hậu quả bất lợi đó. Tuy nhiên, cách
tiếp cận và diễn đạt trách nhiệm hình sự theo nghĩa trực tiếp không phản ánh
được hết mối quan hệ giữa các bên chủ thể của trách nhiệm hình sự. Khái
niệm trách nhiệm hình sự theo nghĩa rộng lại chưa phản ánh được nội dung
trực tiếp của trách nhiệm hình sự.
Gắn với cách hiểu về trách nhiệm hình sự theo nghĩa trực tiếp, thuật
ngữ trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản mang tính quy ước và đã được sử dụng thành thông lệ
trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Thực chất
19
đây là trách nhiệm hình sự của người phạm tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt.
Như vậy, chúng tôi cho rằng có thể đưa ra một cách diễn đạt về trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm
đoạt vừa trực tiếp vừa gián tiếp thể hiện nội dung cơ bản của trách nhiệm hình
sự vừa phản ánh được mối quan hệ giữa các bên chủ thể của trách nhiệm hình
sự, thông qua khái niệm cơ bản và tổng quát như sau:
Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt là nghĩa vụ pháp lý mà người đã thực hiện hành vi bị coi là
tội phạm, xâm phạm sở hữu nhưng không có tính chất chiếm đoạt phải thực
hiện theo quy định của pháp luật hình sự, thể hiện trong sự tác động mang
tính cưỡng chế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
1.1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
Có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt tài sản mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm nói chung, do đó:
- Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp
luật hình sự giữa hai bên chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối nhau: Nhà nước và
người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản. Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm
đoạt tài sản phát sinh khi có hành vi bị coi là xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản.
- Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản được biểu hiện cụ thể ở việc Nhà nước cưỡng chế và
20
người phạm tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt phải gánh chịu
các hậu quả pháp lý bất lợi do việc thực hiện hành vi phạm tội. Các hậu quả
mà người phạm tội phải gánh chịu với ý nghĩa là hình thức biểu hiện cụ thể
của trách nhiệm hình sự phải mang tính pháp lý, nghĩa là phải được quy định
trong luật hình sự hoặc luật tố tụng hình sự. Đó là hậu quả phải chịu sự tác
động của các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu
biện pháp cưỡng chế của của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư
pháp) và mang án tích. Trong đó hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước
nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Hình phạt là một dạng (hình thức)
phổ biến và chủ yếu của trách nhiệm hình sự. Hình phạt có thể được áp dụng
đối với người phạm các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt
tài sản, và được quy định trong từng điều luật cụ thể.
Việc áp dụng các biện pháp tác động của trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản được thực hiện
thông qua trình tự và thủ tục tố tụng chặt chẽ, bởi Tòa án và các cơ quan tiến
hành tố tụng khác.
Cũng như trách nhiệm hình sự đối với các tội khác, khi người phạm
tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt tài sản bị tác động bằng hình
phạt hoặc miễn hình phạt thì đều mang án tích và ghi vào lý lịch tư pháp. Hậu
quả pháp lý nó nếu chưa được xóa án mà phạm tội thì bị coi là tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm. Đặc điểm này thể hiện tính nghiêm khắc của trách nhiệm
hình sự so với các trách nhiệm pháp lý khác.
- Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chiếm đoạt tài sản là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội phải gánh chịu
trực tiếp và trước Nhà nước và chỉ được đặt ra đối với cá nhân người phạm tội
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt chứ không thể là tổ chức hay
pháp nhân nào khác. Vấn đề trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không còn
xa lạ với pháp luật hình sự nhiều quốc gia trên thế giới, song vẫn chưa được ghi
21
nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Trong trường hợp tội phạm do người
người đại diện pháp nhân thực hiện không chỉ vì lợi ích của cá nhân người đó
mà còn vì lợi ích của các pháp nhân thì trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản cũng chỉ có thể áp dụng
đối với cá nhân người phạm tội. Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải
gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải đối với người mà
quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại.
- Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chất chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước
đặc biệt là hình phạt. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước so với các biện pháp cưỡng chế pháp lý khác. Người chịu trách
nhiệm hình sự phải bị tước bỏ hoặc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp về
vật chất hoặc tinh thần và việc đó được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy
cưỡng chế của Nhà nước.
Thứ hai, trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt cũng mang những đặc điểm riêng. Theo đó, nội dung
của đặc điểm này được phản ánh như sau:
- Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới và Việt Nam hầu như
không có sự khác biệt trong việc nhìn nhận và xử lý đối với một số nhóm tội
khác như: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhân thân, sở hữu…, cho dù
các nước này có khác nhau về chế độ chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ phát
triển kinh tế…Tuy nhiên, nếu nền văn minh, dân chủ, tiến bộ xã hội ở mỗi
quốc gia đạt được ở mức độ phát triển khác nhau thì tất yếu dẫn đến quy định
khác nhau về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra, ở cùng một quốc gia với sự xác lập ổn định về
thể chế chính trị, chế độ kinh tế, nhưng trong các giai đoạn phát triển khác
nhau, giai cấp cầm quyền cũng có thể đưa ra các chính sách hình sự xử lý đối
với hành vi xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản và do đó
22
cũng có thể kéo theo những sửa đổi về trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt để phù hợp với điều kiện
phát triển xã hội trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, luôn theo chiều hướng, đất
nước, xã hội ngày càng văn minh, hiện đại, tiến bộ, tăng cường hội nhập quốc
tế bao nhiêu thì việc đòi hỏi bảo đảm các quyền của công dân tăng lên bấy
nhiêu, trong đó đặc biệt là các quyền về tài sản ngày càng phải được tôn trọng
và bảo vệ, thì việc sửa đổi, bổ sung những quy định về các tội phạm liên quan
xâm phạm quyền về tài sản công dân và trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm này cũng là một đòi hỏi tất yếu, khách quan nhằm thích ứng, phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện chính trị - kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia trong
từng giai đoạn phát triển.
- Lý luận cũng như thực tiễn đã chỉ ra rằng tội phạm nói chung đều có
tính lịch sử và tính phụ thuộc pháp lý, nghĩa là có tính "động". Đối với những
nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung , các đặc tính này thường chỉ thể hiện
sau một thời gian dài vận động, gắn liền với các biến cố chính trị, kinh tế xã
hội rõ nét. Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt,
nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế, tăng cường hội nhập quốc tế như hiện nay, chúng ta không thể không
nhắc đến tính "động" trong các quy định về tội phạm và chính sách tội phạm
nói chung, đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài
sản nói riêng.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm nói chung, về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt nói
riêng phải đặt trong mối liên hệ tổng thể với chính sách hình sự về tội phạm, với
chính sách hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và chính sách
hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt nói
23
riêng. Những thay đổi của chính sách hình sự về các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt qua các thời kỳ được phản ánh qua quá trình
sửa đổi, bổ sung, pháp điển hóa các quy định pháp luật liên quan, tội phạm hóa
và phi tội phạm hóa, hình sự hóa và phi hình sự hóa đối với các hành vi xâm
phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt của Nhà nước, và được cụ thể hóa
bằng việc quy định vấn đề trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội phạm này: tội
danh và các dấu hiệu pháp lý xác định tội phạm (định tội); các dấu hiệu định
khung tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt; cũng như loại và mức hình phạt áp
dụng đối với các tội phạm này (định khung hình phạt và quyết định hình phạt).
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình
sự nói chung và trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt tài sản nói riêng có ý nghĩa trên các mặt lập pháp,
khoa học và thực tiễn.
Về mặt lập pháp, trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền đích thực nào,
các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và các quy
định của pháp luật hình sự nói riêng đều phải nhằm mục đích hàng đầu là bảo
vệ các quyền và tự do của con người với tư cách là những giá trị xã hội cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại tránh khỏi sự
xâm hại có tính chất tội phạm của công dân khác, mà còn của một số quan
chức trong bộ máy công quyền đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm thô
bạo pháp chế và dân chủ, thực hiện những hành vi độc đoán và tùy tiện theo ý
chí cá nhân vì các mục đích vụ lợi, xấu xa hoặc thấp hèn. Vì vậy, các quy
phạm pháp luật hình sự của một quốc gia về trách nhiệm hình sự như thế nào
chính là một trong những tiêu chí cơ bản và quan trọng để đánh giá mức độ
dân chủ và nhân đạo, pháp chế và nhân văn trong quốc gia đó ra sao.
Về mặt lý luận, hiện nay trong khoa học luật hình sự nói riêng và các
chuyên ngành khoa học pháp lý thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung một
24
loạt những vấn đề liên quan đến trách nhiệm (như trách nhiệm hình sự của
một công dân được đặt ra khi nào, tại sao một công dân lại phải chịu trách
nhiệm hình sự, trình tự xác định trách nhiệm hình sự đối với một công dân ra
sao, từ thời điểm nào trách nhiệm hình sự bắt đầu thực hiện, việc thực hiện
trách nhiệm hình sự trải qua mấy giai đoạn, hậu quả pháp lý của người đã bị
truy cứu trách nhiệm hình sự là gì, khi một người thực hiện hành vi tuy có dấu
hiệu của tội phạm nhưng trong những trường hợp nào thì không có trách
nhiệm hình sự…) vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến và cách hiểu khác nhau, mà
vẫn chưa có một quan điểm chính thống.
Và cuối cùng, về mặt thực tiễn, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
nói riêng và hoạt động bảo về pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự nói
chung ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức
xúc và nhức nhối liên quan thiết thực đến cuộc sống hàng ngày của những
người dân lương thiện đã bị xâm hại thô bạo đến quyền và tự do bởi hậu quả
truy cứu trách nhiệm hình sự oan do những vi phạm của những người tiến
hành tố tụng. Vì vậy nghiên cứu về trách nhiệm hình sự không chỉ cho phép
khẳng định ý nghĩa khoa học - thực tiễn của việc lý giải và làm sáng tỏ về mặt
lý luận xung quanh những vấn đề về trách nhiệm hình sự, mà còn là lý do
luận chứng cho sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định này với tư cách là
một chế định trung tâm, chủ yếu và đồng thời là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn
bộ các quy phạm của Phần chung và Phần riêng luật hình sự.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 2-9-1945 sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa thì bấy giờ, nước ta vẫn chưa có Bộ luật hình sự. Do
25
hoàn cảnh lịch sử đất nước còn gặp nhiều khó khăn nên nhiệm vụ trọng tâm
lúc bấy giờ tập trung vào việc củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ,
việc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm tuy được Nhà nước quan tâm
nhưng chủ yếu tập trung ở các loại tội phạm xâm hại về an ninh chính trị, các
tội xâm phạm sở hữu công cộng và các loại tội đặc biệt nghiêm trọng khác.
Trong quá trình phát triển từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình
sự (1985), Nhà nước ta đã có nhiều văn bản quy định các tội xâm phạm sở
hữu với những tên gọi khác nhau, quy định phần lớn các hành vi xâm phạm
sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu công dân, đã đáp ứng được phần nào
nhiệm vụ của cách mạng lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện được chính sách hình
sự của Nhà nước đối với các tội xâm phạm sở hữu, góp phần vào công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế, ngăn chặn các hành vi xâm
phạm đến quan hệ sở hữu. Các văn bản pháp luật này cũng đã thể hiện được
đường lối, chính sách của Nhà nước ta trong việc đề cao vai trò của chế độ sở
hữu tài sản trong đó đặc biệt coi trọng đến sở hữu xã hội chủ nghĩa. Văn bản
pháp luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta là Sắc lệnh số 26 ban hành ngày
25/2/1946 quy định các tội phá hủy công sản nhằm trừng trị những hành vi
phá hoại tài sản công cộng. Như vậy, pháp luật hình sự nước ta thời bấy giờ
cũng đã quan tâm đến hành vi xâm phạm sở hữu dù đó là hành vi không mang
tính chất chiếm đoạt tài sản.
Trong thời kỳ đầu từ năm 1945 đến năm 1954, Nhà nước ta còn tạm
thời sử dụng pháp luật của chính quyền cũ đồng thời đã ban hành các văn bản
pháp luật mới quy định những hành vi xâm phạm đến sở hữu của Nhà nước
và sở hữu của công dân. Những văn bản này xuất phát từ nhu cầu bảo vệ các
quan hệ xã hội tiến bộ trong xã hội mới, đấu tranh phòng chống các hành vi
nguy hiểm xâm hại tới tài sản của Nhà nước, của công dân góp phần vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trước tình hình đất nước bị chia cắt sau năm 1954, miền Bắc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc