Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tổng quan về Biển Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.17 KB, 7 trang )

BIỂN ĐÔNG
I.
Khái quát về biển Đông
1. Vị Trí địa lí
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 3° lên
đến vĩ độ 26° Bắc và từ kinh độ 100° đến 121° Đông. Biển Đông được bao bọc bởi 9 nước là
Việt Nam, Trung Quốc, Phi-lip-pin, In-đô-nê-xia, Bờ-ru- nây, Ma-lai-xia, Xing-ga-po, Thái
Lan, Căm-pu-chia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. Biển Đông là một trong các khu vực có
tầm quan trọng chiến lược đối với các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói
riêng và các quốc gia khác trên thế giới.
2. Vị trí chiến lược và tiềm năng
Là vùng có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng hải sản.
Biển Đông cung cấp nguồn lợi hài sản rất quan trọng. Theo các điều tra về nguồn lợi hải sản,
tính đa dạng sinh học, trong vùng biển nước ta dã phát hiện dược khoảng 11.000 loài sinh vật cư
trú, trong đó có 6.000 loài dộng vật đáy, 2.400 loài cá (trong đó có 130 loài cá kinh tế), 653 loài
rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển... Trữ lượng cá
biển ước tính trong khoảng 3,1 - 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác là 1,4 - 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi
hải sản phong phú đã góp phần đira ngành thuỷ sản trở thành một trong những ngành kinh tế chù
đạo với giá trị xuất khẩu đứng thứ ba cả nước.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới.
Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm chiến lược quan trọng. Đến nay,
chúng ta đã xác dịnh được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn ... được đánh
giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn
thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác 4 - 5 tỷ tấn. Trữ lượng
khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3.
Là cùng biển có sự đa dạng sinh học cao so với các nước trên thế giới
Là tuyến giao thông huyết mạch , là tuyến đường vận tải hàng nhộn nhịp thứ hai trên thế
giới.
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ
Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Đây được coi là tuyến dường vận tải quốc tế
nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông,


trong đó có khoảng 50% là làu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000
tấn trở lên. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ
Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốcvùng biển này hết sức


quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng
hải và kinh tế.
Có ưu thế về tài nguyên du lịch biển.
Biển Việt Nam (Hình 2) đã cho thấy nhiều điều kiện để phát triển du lịch, ngành công nghiệp
không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế cùa đất nước. Do đặc điểm kiến tạo
khu vực, các dãy núi dá vôi vươn ra sát bờ biển đã tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên sơn thủy rất
đa dạng, nhiều vụng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với
nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long dược
UNESCO xếp hạng.

Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như Phong Nha, Bích Động, Non Nước..., các di tích lịch
sử và văn hoá như cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm ... đều được
phân bố ở vùng ven biển.

Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch
hiện đại như nghỉ ngơi; dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái; nghiên cứu khoa học vùng ven
bờ, hải đảo, ngầm dưới nước; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền có
thể tổ chức các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm; dịch vụ hội nghị, hội thảo
trong nước và quốc tế.
3. Tầm quan trọng chiến lược của quần đảo Hoàng Sa Trường Sa
Nằm ở trung tâm Biển Đông: - là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển
nhất trên thế giới
-




II.
1.



Có vị trí chiến lược quan trọng dùng để kiểm soát các tuyến
hàng hải qua lại biển Đông.
Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo
Trường Sa sẽ khống chế được cả biển Đông.
Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối
với nhiều nước. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, thuận
lợi cho việc đặt các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho
tàu bè... phục vụ cho tuyến đường hàng hải trên Biển Đông.
Vấn đề tranh chấp trên Biển Đông
Bối cảnh
Diễn ra từ sau thế chiến 2
Ban đầu các quốc gia tranh chấp vì vị trí chiến lược của Biển Đông[6]


Đối với Trung Quốc, Biển Đông nói chung cũng như quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa có vị trí quan trọng do nằm giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là một vùng
chiến lược quan trọng, là cổng của lục địa Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài.[7]. Đối với
Nhật Bản thì Biển Đông là con đường giao thông huyết mạch, không chỉ với Đông Nam Á
mà cả với Trung Đông và châu Âu. Nền kinh tế Nhật Bản gắn liền với sự giao thông này." .
Vì lợi ích chiến lược, trong Thế chiến 2 Nhật đã cho xây căn cứ tàu ngầm tại đảo Ba Bình
trong quần đảo Trường Sa.
 Tranh chấp về tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên, đặc biệt là đánh cá và
khai thác dầu khí
Sau khi Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định về Vùng đặc quyền

kinh tế thì tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên, đặc biệt là đánh cá và khai thác dầu
khí là nguyên nhân bổ sung cho mục đích tranh chấpTheo Bộ Tài nguyên, Địa chất Trung
Quốc ước tính trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông ước khoảng 17,7 tỷ tấn [11], so với trữ lượng 13
tỷ tấn của Kuwait. Ngày 11 tháng 3 năm 1976, lần đầu tiên công ty dầu Philippines phát hiện
một mỏ dầu ngoài khơi đảo Palawan. Mỏ dầu này đang cung cấp 15% lượng dầu mỏ tiêu thụ
hàng năm ở Philippines Một số nguồn khác cho rằng trữ lượng dầu mỏ xác minh trong Biển
Đông là 7,5 tỷ thùng . Trung Quốc gọi Biển Đông là "vịnh Ba Tư thứ hai". Tập đoàn Khai
thác dầu khí ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC) dự tính chi 200 tỷ nhân dân tệ (tương đương
30 tỷ đô la Mỹ) trong vòng 20 năm để khai thác dầu khí trên khu vực Biển Đông, với độ sâu
lên đến 2000 mét trong 5 năm tới với sản lượng khai thác 25 triệu tấn dầu và khí. Tuy nhiên
nhiều chuyên gia dầu khí phương Tây hoài nghi con số dự báo của Trung Quốc về trữ lượng
dầu khí ở Biển Đông, tập trung chủ yếu ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như không
tính đến trữ lượng có thể khai thác thương mại
 Tuy nhiên, chưa quốc gia nào tiến hành khai thác tài nguyên trên quy mô lớn
không quốc gia nào trong số các quốc gia tuyên bố chủ quyền các đảo Trường Sa tiến hành
khai thác tài nguyên trên quy mô lớn để tránh gây ra một cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, các
công ty dầu quốc tế vẫn chưa được thực hiện các cam kết và hy vọng rằng các tranh chấp
lãnh thổ sẽ được giải quyết.
2. Tuyên bố chủ quyền trên biển Đông
+ Theo Luật biển năm 1982 của Liên hiệp quốc cho phép các nước có vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) mở rộng 200 dặm biển (370.6 km) từ lãnh hải.
+ Nhưng Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ vùng
biển mặc dù các tuyên bố đều chưa được cộng đồng quốc tế công nhận.
_ Năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền trên Biển
Đông với đường lưỡi bò 11 đoạn, sau này còn 9 đoạn,
. Đường lưỡi bò bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông (biển Nam Trung
Hoa) là quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi Macclesfield với
khoảng 75% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ chừa lại khoảng 25% cho tất cả các
nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi nước được trung bình
5%[20].



_ Năm .1974 quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm được 6 đảo và 18 binh sĩ đã
thiệt mạng.
_ Tháng 3 năm 1988 Quần đảo Trường Sa là nơi đã xảy ra xung đột hải quân, hơn bảy
mươi lính thủy Việt Nam đã bị giết hại ở phía nam bãi đá Gạc Ma.
Trận chiến Gạc Ma :
Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo
Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa,
khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và
bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên
hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của
Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt
Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng
lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ
thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng : “ Trung Quốc buộc phải
phản kích để tự vệ ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai
tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Trung Quốc sử dụng một biên đội
tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và
pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở
các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển
Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã
làm cả thế giới quan tâm theo dõi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị
bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo
đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605
thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận tải của Việt Nam vời các tầu
chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có
một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn

phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra
không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là « đánh gọn
và đẹp mắt » (sic). Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động
tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên,
Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được trong năm
1988 : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
3. Tranh chấp chủ quyền đảo
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.[21]
Vào năm 1932, chính quyền Pháp ở Đông Dương chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, và Việt
Nam tiếp tục nắm giữ chủ quyền một nửa cho đến năm 1974
Năm 11/1/1974 Trung Quốc tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc và
dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần Đảo Hoàng Sa và chiếm đóng cho tới ngày nay.


_ Tháng 3 năm 1988 Quần đảo Trường Sa là nơi đã xảy ra xung đột hải quân, hơn bảy
mươi lính thủy Việt Nam đã bị giết hại ở phía nam bãi đá Gạc Ma. Sau trận chiến Trung
Quốc chiếm đóng 6 đảo tại Trường Sa
Trận chiến Gạc Ma :
Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo
Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa,
khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và
bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên
hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của
Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt
Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng
lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ
thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng : “ Trung Quốc buộc phải
phản kích để tự vệ ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai
tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Trung Quốc sử dụng một biên đội
tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và
pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở
các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển
Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã
làm cả thế giới quan tâm theo dõi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị
bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo
đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605
thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận tải của Việt Nam vời các tầu
chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có
một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn
phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra
không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là « đánh gọn
và đẹp mắt » (sic). Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động
tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên,
Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được trong năm
1988 : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Tháng 11 năm 2007, Quốc vụ viện Trung Quốc lại phê chuẩn việc lập thành phố Tam Sa,
nhằm trực tiếp quản lý các quần đảo trên biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa
mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa.[22]
Năm 2007, đã có vài cuộc biểu tình diễn ra ở Việt Nam để phản đối việc Trung Quốc chiếm
đóng Hoàng Sa, Trường Sa cũng như thành lập Tam Sa.
Tháng 5 năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực
Biển Đông vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, dẫn tới việc nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu thuyền của hai quốc gia đã có một số va chạm.

Trung Quốc ngang nhiên xây dựng những công trình lớn như khu tổ hợp, đường băng, hệ thống
ra-đa[23], hải đăng.[24] Ngoài Trung Quốc, Đài Loan cũng tham gia xây dựng hải đăng.[25]


4 Tình hình hiện tại.
Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa
Trên quần đảo Trường Sa :Việt Nam kiểm soát 21 điểm , Philippines kiểm soát 10 điểm,
mallaysia 7 điểm, Trung Quốc 7 điểm, Đài Loan 2 điểm.
III.

Quan điểm chủ trương của Đảng

+ Giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan
đến biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn
trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế.
Tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc
quyền kinh tế về thềm lục địa;
Nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy
trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình,
không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Tuyên truyền sâu rộng cho ngư dân ta về các thỏa thuận quốc tế hữu quan để hạn chế các
vụ việc vi phạm trên biển.
Thực hiện các hiệp định thỏa thuận nhằm giải quyết một cách căn bản các tranh chấp về
biên giới lãnh thổ trên bộ, tiến tới xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị,
hợp tác với các nước láng giềng.
Tuy nhiên
Từ đầu năm 2007 đến nay, tình hình Biển Đông diễn biến theo chiều hướng phức tạp,
Trung Quốc liên tiếp có các hoạt động vi phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông.
Việt Nam kiên quyết, đấu tranh phản đối, kết hợp chặt chẽ trên mặt trận ngoại giao với
việc ngăn cản quyết liệt trên biển, buộc phía Trung Quốc phải dừng các hoạt động bất hợp

pháp này.
Phía ta cũng có nhiều biện pháp bảo vệ hoạt động bình thường của ngư dân ta trên biển,
kiên quyết phản đối và bồi thường đối với các hoạt động xâm hại đến tính mạng và phương
tiện của ngư dân ta.
Trong thời gian tới,
Tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc
gia trên biển; đồng thời đẩy mạnh công tác đàm phán, phân định biển với các nước láng
giềng.


Đối với trong nước: chúng ta đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh - quốc
phòng trên biển; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức về chủ
quyền biển đảo quốc gia.
Mặt khác, chúng ta cũng cần đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu của các thế lực cơ hội,
cực đoan, thù địch lợi dụng vấn đề bất đồng về chủ quyền lãnh thổ để kích động, chia rẽ quan
hệ giữa nước ta với các nước láng giềng; công kích, xuyên tạc chủ trương, đường lối đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×