Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.53 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
....…../………

BỘ NỘI VỤ
…….../………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ THỊ THỤC

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI TÀI
LIỆU, HIỆN VẬT Ở BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
....…../………

BỘ NỘI VỤ
…….../………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ THỊ THỤC

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI TÀI
LIỆU, HIỆN VẬT Ở BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH

HÀ NỘI – NĂM 2017


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia.
Địa điểm: Phòng

, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,

viện Hành chính Quốc gia.
Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP. Hà Nội.
Thời gian: vào hồi

giờ

phút


ngày

1

tháng

năm 2017.

Học


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Di sản văn hóa chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm tàng
to lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và
phát huy trong các giai đoạn phát triển xã hội sau này. Trong xu thế giao lưu
hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm gìn giữ và phát triển bản sắc văn
hoá dân tộc, để hội nhập mà không bị hoà tan. Di sản văn hóa trở thành điểm
tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho hiện tại và tương lai của mỗi quốc
gia, dân tộc. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu được công bố gần đây đã cho thấy
một bộ phận không nhỏ di sản văn hóa của nước ta đang trong tình trạng
xuống cấp trầm trọng.
Với Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi lưu giữ hàng vạn tài liệu, hiện vật về
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ thiên tài và người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, Người đã để lại cho chúng ta một gia tài vô cùng đồ sộ, một
di sản hết sức quý báu, đó là: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Thời đại Hồ Chí Minh,
và Tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Những tài liệu, hiện vật
này là một phần không thể tách rời của di sản văn hóa dân tộc ta nếu như
không được bảo quản tốt nó sẽ xóa sạch cả một mảng ký ức về Người. Chính

vì vậy, việc gìn giữ, bảo quản một khối lượng đồ sộ tài liệu, hiện vật để giảm
thiểu mức thấp nhất những tác động của môi trường, của thời gian là vấn đề
sống còn và được đặt ra vô cùng cấp thiết đối với Bảo tàng Hồ Chí Minh. Vì
những lý do trên mà tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Bảo tồn di sản văn hóa
đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ chuyên ngành chính sách công, với mong muốn kết quả nghiên cứu
luận văn sẽ đề xuất được những giải pháp thiết thực góp phần bảo tồn phát
huy tốt hơn những tài liệu, hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan
Việc nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa nói chung và bảo tồn di sản
văn hóa đối với tài liệu, hiện vật nói riêng không còn là một vấn đề mới,
nhưng luôn là đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề
này đã được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và hoạt
động thực tiễn tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát. Đến nay đã có
nhiều công trình được công bố dưới những góc độ, mức độ, khía cạnh, hình
thức thể hiện khác nhau đã được đăng tải và công bố trên một số sách, báo,
tạp chí ở trung ương và địa phương có thể kể đến trên hai phương diện sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung bảo tồn
di sản văn hóa.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung bảo tồn
di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật bảo tàng.
Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với
tài liệu, hiện vật tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Để thực hiện luận văn, tác giả tiếp
thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học liên quan
đến đề tài. Đây cũng là lý do để đề tài này được lựa chọn bởi sự không trùng
lặp của đề tài với các công trình có liên quan được công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở phân tích việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa
đối với công tác bảo quản tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh, luận văn
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo quản tài liệu,
hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa trong
công tác bảo quản tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh.
2


- Nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường công tác bảo
quản tài liệu hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác bảo quản tài liệu, hiện
vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Thời gian: từ năm 1990 - 2015
- Nội dung: luận văn chỉ nghiên cứu giai đoạn thực hiện chính sách
trong quy trình chính sách.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử;
Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích hệ thống

- Phương pháp thống kê
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án có những ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
- Khẳng định việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với
công tác bảo quản tài liệu hiện vật là cần thiết và khả thi.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập việc thực hiện chính sách đối công tác bảo quản tài liệu hiện vật.
- Luận văn cũng có giá trị tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý
trong việc nâng cao chất lượng bảo quản di sản văn hóa.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương,
nội dung cụ thể:
3


Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với
tài liệu, hiện vật
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa
đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo
tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh.

4


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN DI SẢN
VĂN HÓA ĐỐI VỚI TÀI LIỆU, HIỆN VẬT
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan tới chính sách bảo tồn di sản
văn hóa đối với tài liệu, hiện vật

1.1.1. Khái niệm chính sách công
1.1.1.1 Khái niệm chính sách công
Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu
và trên các phương tiện truyền thông, tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn khó có
thể đưa ra một định nghĩa duy nhất.
Theo Từ điển Tiếng Anh (Oxford English Dictionary), chính sách là
một đường lối hành động được thông qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng,
nhà cai trị, chính khách ... Với sự giải thích này, chính sách không đơn thuần
chỉ là một quyết định, mà nó là một đường lối hay phương hướng hành động.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một
thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa”. Hoặc theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải “Chính
sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”.
Qua cách hiểu như trên về chính sách công, có thể khái quát rằng:
Chính sách công là phương hướng hành động của Nhà nước, thể hiện qua
một tập hợp các quyết định của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể
với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết một vấn đề của xã hội trong một
giai đoạn nhất định.
Các quyết định ở đây thể hiện trước hết ở các văn bản quy phạm pháp
luật. Các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo
5


thẩm quyền, trình tự, hình thức và thủ tục được quy định trong Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật. Ở nước ta, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm: văn bản luật (Hiến pháp, Luật, Bộ luật) và văn bản dưới luật (Nghị

định, Quyết định, Thông tư...).
1.1.1.2 Khái niệm chu trình chính sách công
Chu trình chính sách công được hiểu là quá trình luân chuyển các bước
từ khởi sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời
sống xã hội. Theo cách hiểu này, chu trình chính sách công gồm các bước sau:
Tìm kiếm, xác định vấn đề chính sách công; Hoạch định chính sách công;
Đánh giá chính sách công; Phân tích chính sách công
1.1.2. Khái niệm di sản văn hóa
Năm 2001 Việt Nam ban hành Luật Di sản văn hóa (sửa đổi năm 2009)
trong đó khẳng định: Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại có vai trò to lớn trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Tại Điều 1, Luật Di sản
văn hóa ghi rõ: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản
văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [10, tr.12]. Cùng
với đó Việt Nam đã phê chuẩn Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể
của UNESCO.
1.1.3. Khái niệm tài liệu, hiện vật
Theo quy định của Luật lưu trữ số 01/2011/QH13 thông qua tại kỳ họp
thứ 2 ngày 11/11/2011 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 25/11/2011
thì “Tài liệu lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên
cứu khoa học, lịch sử được lựa chọn để lưu trữ. Tài liệu lưu trữ bao gồm bản
gốc, bản chính; trong trường hợp không có bản gốc, bản chính thì được thay
thế bằng bản sao hợp pháp”.
Cùng với tài liệu lưu trữ là các hiện vật được lưu trữ trong bảo tàng.
Theo Quyết định số 70/2006/QĐ-BVHTT ngày 15/9/2006 của Bộ trưởng Bộ
6


văn hóa Thể thao và Du lịch về việc ban hành Quy chế kiểm kê, bảo tồn hiện

vật bảo tàng thì “hiện vật bảo tàng là di sản văn hóa gồm di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia, các tư liệu về di sản văn hóa phi vật thể đã được vật thể hóa và
các mẫu vật tự nhiên, thuộc đối tượng nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, giới
thiệu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và loại hình bảo tàng”].
1.1.4. Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa đối
với tài liệu, hiện vật
Theo Từ điển Tiếng Việt “bảo tồn” là giữ lại không để cho mất đi, bảo
tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức vốn
có của nó. Bảo tồn là không để mai một không để bị thay đổi, biến hóa hay
biến thái. Đối tượng “bảo tồn” phải được nhìn nhận là tinh hoa chúng đã
khẳng định được giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian dưới
nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn.
1.1.5. Khái niệm chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu,
hiện vật
Chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật là tổng thể
các phương hướng, mục tiêu và giải pháp của Nhà nước thể hiện qua các
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm gìn giữ các tài liệu,
hiện vật phục vụ cho mục đích phát triển xã hội.
1.2. Chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở
nước ta hiện nay
1.2.1. Vai trò của hoạt động bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu,
hiện vật trong xã hội hiện đại
Giá trị của tài liệu, hiện vật trên nhiều mặt đã được chấp nhận không
chỉ ở nước ta mà còn ở trên toàn thế giới. Chính vì vậy bảo tồn di sản văn hóa
đối với tài liệu, hiện vật trong xã hội hiện đại đóng vai trò hết sức quan trọng
xuất phát từ giá trị của tài liệu, hiện vật trên các phương diện sau:
* Trong lĩnh vực chính trị
* Trong lĩnh vực kinh tế
7



* Đối với nghiên cứu khoa học
* Trong hoạt động quản lý
* Dưới giác độ xã hội
1.2.2.Cơ sở pháp lý của chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài
liệu, hiện vật
Năm 1986, trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VI đưa ra khái niệm Bản sắc văn hoá dân tộc. Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992 đã quy định trách nhiệm của Nhà nước
và xã hội trong bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại,
nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân…
1.2.3. Nội dung của chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu,
hiện vật ở nước ta hiện nay
1.2.3.1. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đối với
tài liệu, hiện vật
1.2.3.2. Chính sách tài chính cho hoạt động bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
1.2.3.3. Chính sách bồi dưỡng, phát triển đội ngũ viên chức trong lĩnh
vực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
1.2.3.4. Chính sách tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
1.2.3.5. Chính sách thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa đối với
tài liệu, hiện vật
* Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã trình bày rất cơ bản về chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối
với tài liệu, hiện vật. Ngoài ra, luận văn còn làm rõ vai trò của chính sách bảo
tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật thể hiện trên các lĩnh vực: chính trị,

8


kinh tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa-xã hội và hoạt động quản lý. Với những
vai trò đặc biệt quan trọng của hoạt động bảo tồn di sản văn hóa trong đời sống
xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối, chính sách về
công tác bảo tồn di sản văn hóa. Luận văn điểm lại những chủ chương, đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước nhằm chỉ đạo công tác bảo tồn di sản văn
hóa thể hiện qua các văn kiện của Đảng, văn bản quản lý của Nhà nước. Chương
1 của luận văn cũng giới thiệu nội dung cơ bản của chính sách bảo tồn di sản văn
hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Việt Nam hiện nay.

9


Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI TÀI LIỆU, HIỆN VẬT
Ở BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về Bảo tàng Hồ Chí Minh
2.1.1. Quá trình hình thành Bảo tàng Hồ Chí Minh
Bảo tàng Hồ Chí Minh, thuộc loại hình bảo tàng lưu niệm danh nhân, là
công trình văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau ngày Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra đi vào cõi vĩnh hằng (2-9-1969), Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra Nghị quyết số 206-NQ/TW, ngày 25-11-1970, thành lập Ban Phụ
trách xây dựng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, trực thuộc Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Bắt đầu từ đây ghi dấu sự phát triển của Bảo tàng qua từng bước
đi đan xen khó khăn và thuận lợi.
Ngày 19-5-1990, công trình Bảo tàng Hồ Chí Minh đã khánh thành
đúng dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 195-1990 là mốc quan trọng đánh dấu Bảo tàng Hồ Chí Minh chuyển sang một
giai đoạn mới: Chính thức mở cửa phục vụ khách tham quan đến nghiên cứu

và học tập. Toà nhà mang biểu tượng bông sen trắng tượng trưng cho cuộc
đời giản dị thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện lòng kính
trọng, biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu,
quyết tâm đi theo con đường mà Người đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam.
Trưng bày chính của Bảo tàng Hồ Chí Minh thể hiện 3 nội dung:
1. Giới thiệu tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tuổi ấu thơ cho đến khi
Người qua đời và nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc của Người.
2. Giới thiệu về cuộc sống, chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam.
3. Giới thiệu một số sự kiện lịch sử thế giới (từ cuối thế kỷ 19 và trong
thế kỷ 20) có tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của
Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam.
Ba nội dung trên là một tổng thể không thể tách rời khắc họa huyền
thoại Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn,
10


như tổ chức UNESCO đã tôn vinh Người tháng 11 năm 1987, một lãnh tụ,
một con người luôn gắn với dân tộc, đất nước và thời đại.
2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo tàng Hồ Chí Minh
Quyết định 437/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa Thể thao và Du dịch
đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
2.1.3. Khái quát về tài liệu, hiện vật và phân loại hiện vật tại Bảo
tàng Hồ Chí Minh
2.1.3.1. Khái quát về tài liệu, hiện vật của Bảo tàng Hồ Chí Minh
Tài liệu, hiện vật của Bảo tàng Hồ Chí Minh được lưu giữ tại Kho cơ
sở của Bảo tàng. Hiện nay, Bảo tàng Hồ Chí Minh lưu giữ tại Kho cơ sở gần
13 vạn tài liệu hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng mới chỉ giới thiệu
được trên trưng bày hơn 2000 tài liệu hiện vật. Với hàng vạn tài liệu, hiện vật,
phim ảnh…. lưu giữ trong kho cơ sở của Bảo tàng Hồ Chí Minh là những tài

sản vô giá của quốc gia, là những bằng chứng sinh động giới thiệu về cuộc
đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.1.3.2. Phân loại tài liệu, hiện vật tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Theo Quy định về hệ thống Kho và thành phần hiện vật trong Kho Bảo
tàng Hồ Chí Minh, tài liệu, hiện vật ở đây được chia thành 3 khối chính.
- Khối hiện vật gốc lưu niệm: Bao gồm các hiện vật trực tiếp liên quan
đến Chủ tịch Hồ Chí Minh như các văn bản, tài liệu, thư điện do Người dự
thảo, các tài liệu Người đã xem và để lại bút tích; các đồ dùng hàng ngày, các
tặng phẩm trong và ngoài nước tặng Bác, các phim ảnh ghi lại hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, các phim chụp hoạt động của Bảo tàng Hồ Chí Minh
và các băng ghi âm tiếng nói của Người.
- Khối tài liệu không phải là gốc nhưng có giá trị về mặt so sánh, đối
chiếu. Đó là những bản sao tài liệu, hiện vật, phim ảnh liên quan đến Chủ tịch
Hồ Chí Minh và một dạng hiện vật đồng thời với hiện vật gốc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng được lưu giữ trong kho cơ sở của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
11


- Khối hiện vật, tài liệu trung gian. Đó là các tài liệu khoa học phụ như
sơ đồ, biểu đồ, bản thống kê và các tài liệu liên quan khác, các tác phẩm nghệ
thuật được sáng tác phục vụ theo yêu cầu của công tác trưng bày, triển lãm ở
Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Ngoài ra trong kho cơ sở của Bảo tàng Hồ Chí Minh còn có một số tài
liệu, hiện vật liên quan đến các nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta đã sử
dụng trong quá trình gặp gỡ, trao đổi, làm việc cùng với Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong lúc sinh thời. Số tài liệu hiện vật này được phân loại bảo quản và
quản lý riêng.
2.2. Thực trạng bảo quản tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh
2.2.1. Công tác sưu tầm và bảo quản tài liệu, hiện vật
* Về công tác sưu tầm:

Trong mỗi bảo tàng, công tác sưu tầm là một trong những hoạt động
khoa học giữ vai trò quan trọng, công tác sưu tầm được tiến hành sớm ngay từ
những ngày đầu sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, bắt đầu từ việc sắp xếp,
chọn lựa, thống kê để bảo quản lâu dài những kỷ vật, tài liệu của Bác kính yêu.
Hơn 25 năm hoạt động, trong điều kiện mới, cùng với việc ổn định, sắp xếp
lại việc tổ chức sưu tầm, tiếp nhận tài liệu hiện vật trong nước, hoạt động sưu
tầm đã bước đầu chủ động xây dựng và tổ chức những đợt sưu tầm độc lập
hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện các chuyến khảo sát, sưu
tầm tài liệu, hiện vật của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trong và ngoài nước.
* Về công tác bảo quản:
Tài liệu hiện vật trong kho cơ sở của Bảo tàng Hồ Chí Minh là tài sản
vô cùng quý giá, mỗi một hiện vật gắn với một sự kiện lịch sử nhất định, có
liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi
vậy, bảo vệ sự toàn vẹn của chúng, không bị hư hỏng theo thời gian làm
nhiệm vụ cơ bản trước hết đối với công tác bảo quản hiện vật của mỗi bảo
tàng nói chung và của Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng.
Để đảm bảo công tác bảo quản được thực hiện một cách tốt nhất, Bảo
tàng Hồ Chí Minh quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
12


cán bộ bảo quản. Mỗi cán bộ bảo quản thường được giao phụ trách một hoặc
một số kho hiện vật. Sự phân công này tùy theo lực lượng cán bộ bảo quản
nhiều hay ít và số lượng kho và khối lượng tài liệu hiện vật nhiều hay ít. Cán
bộ bảo quản thường được lựa từ những cán bộ nghiệp vụ có tinh thần trách
nhiệm cao, cần mẫn và trung thực.
2.2.2. Công tác kiểm kê, tổ chức hệ thống kho bảo quản, lưu trữ tài
liệu, hiện vật
Tại Kho cơ sở, cán bộ Phòng Kiểm kê - Bảo quản tổ chức lập danh mục
tài liệu, hiện vật theo các chuyên đề để phục vụ cho công tác nghiên cứu và

quản lý hiện vật. Việc xây dựng các danh mục tài liệu hiện vật theo chuyên đề
nghiên cứu sẽ giúp cho Bảo tàng Hồ Chí Minh triển khai có hiệu quả công tác
nghiên cứu và phục vụ trưng bày, triển lãm. Hiện nay, bảo tàng Hồ Chí Minh
cũng như các bảo tàng khác trong toàn quốc đang từng bước thực hiện áp
dụng các thành tựu khoa học công nghệ thông tin vào việc quản lý tài liệu,
hiện vật trong Kho cơ sở.
2.2.3. Nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào bảo
tồn tài liệu, hiện vật
Công tác nghiên cứu khoa học là hoạt động cơ bản, là mắt xích quan
trọng trong hoạt động của Bảo tàng Hồ Chí Minh, tạo tiền đề cho nhiều khâu
công tác khác của Bảo tàng. Các bộ phận công tác đều có nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học, thực hiện các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, cấp cơ sở, triển khai
đồng bộ và thu được nhiều kết quả. Những thành quả được ghi nhận là các đề
tài nghiên cứu, hội nghị, hội thảo, ấn phẩm … Bảo tàng đã chủ động nghiên
cứu, biên soạn, xuất bản nhiều đầu sách với nguồn tài liệu tin cậy, biên soạn
công phu, chất lượng. Nhiều cuốn sách đã được tái bản nhiều lần, được bạn
đọc hoan nghênh, đánh giá cao.
2.3. Tình hình thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với
tài liệu hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh
2.3.1. Thực hiện chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
đối với tài liệu, hiện vật
13


Thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị tài liệu,
hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và
chỉ đạo tổ chức thực hiện các chiến lược, đề án, quy hoạch, kế hoạch của nhà
nước về bảo tồn và phát huy các giá trị tài liệu, hiện vật, đồng thời Bảo tàng
Hồ Chí Minh cũng đã ban hành, hướng dẫn tổ chức thực hiện nhiều chính
sách.

2.3.2. Thực hiện chính sách tài chính cho hoạt động bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
Trên cơ sở Quyết định 156/2005/QĐ-TTg ngày 23/6/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng
Việt Nam đến năm 2020, và các văn bản hướng dẫn của Bộ Văn hóa Thể thao
và Du lịch và các văn bản liên quan khác, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã ban hành
và thực hiện chính sách tài chính cho hoạt động bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa đối với tài liệu, hiện vật trong Bảo tàng như xác định nguồn thu, chi
phù hợp với quy định của pháp luật.
2.3.3. Thực hiện chính sách bồi dưỡng, phát triển đội ngũ công chức,
viên chức bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
Bảo tàng Hồ chí Minh hiện có 168 công chức, viên chức và người lao
động làm việc tại 12 phòng, ban, Trung tâm của bảo tàng. Trong những năm
qua, Bảo tàng từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý và bổ sung viên
chức và người lao động phù hợp với khối lượng công việc của Bảo tàng.
Những năm gần đây, lãnh đạo Bảo tàng đã cử viên chức tham gia các khóa học
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tính đến nay, Bảo tàng có 02 người có
trình độ tiến sĩ, 28 người trình độ thạc sĩ, 72 người có trình độ đại học và 02
người có trình độ cao đẳng. Ngoài ra, còn có 05 người đang được đào tạo trình
độ tiến sĩ, 05 người đang học trình độ thạc sĩ.
Đối với trình độ hiện tại của công chức, viên chức và người lao động
của Bảo tàng có thể tương đối đảm bảo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn. Tuy nhiên, trong những năm tới, Bảo tàng Hồ Chí Minh tiếp tục coi
14


trọng và đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ. Phấn đấu trong 05 năm tới Bảo
tàng sẽ có từ 05-07 tiến sĩ, từ 45 - 50 thạc sĩ và có khoảng 90 cử nhân.
2.3.4. Thực hiện chính sách tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về
bảo vệ và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật

Quán triệt quan điểm của Bác Hồ “Hòa bình và hữu nghị với nhân dân
toàn thế giới” trong mọi lĩnh vực hoạt động. Năm 2009, Bộ Ngoại giao phát
động chương trình “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng
dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài” và Đảng ủy ngoài nước phát
động cuộc vận động “Sáng tác quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
báo chí về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và sưu tầm tư liệu, hiện vật về
cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ ở nước ngoài” đã được triển khai
tại tất cả các châu lục trên thế giới dưới những hình thức phong phú, đạt nhiều
kết quả quan trọng. Hai cuộc vận động đã thu hút được đông đảo bà con Việt
kiều làm ăn sinh sống tại nước ngoài hưởng ứng sôi nổi, bước đầu đã sưu tầm
nhiều tài liệu, hiện vật quý về Người.
Tại hội nghị tổng kết đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”, Bộ
Ngoại giao đã trao bộ kỷ vật liên quan đến hoạt động cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh ở Hoa Kỳ cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lưu giữ, bảo tồn
và khai thác, phục vụ trực tiếp việc giáo dục thế hệ trẻ về sự nghiệp và di sản
của Người.
Thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về hợp tác quốc
tế đối với công tác sưu tầm, bảo tồn tài liệu, hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Quán triệt quan điểm của Đảng, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã chủ động hợp tác
quốc tế để triển khai công tác sưu tầm, bảo tồn tài liệu, hiện vật về Bác.
Có thể nói, uy tín và ảnh hưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thời
đại, tình cảm kính yêu vô hạn của nhân dân Việt Nam và bè bạn quốc tế đối
với Người đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đối ngoại của Bảo
tàng Hồ Chí Minh.
15


Việc thực hiện chính sách tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ
và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật đã được Bảo tàng Hồ Chí

Minh thực hiện một cách hiệu quả, thiết thực góp phần bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa Hồ Chí Minh ở ngoài nước.
2.3.5. Thực hiện chính sách thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp
luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn
hóa đối với tài liệu, hiện vật
Công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp là
Thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, hoạt động kiểm tra nội bộ của Bảo
tàng Hồ Chí Minh về việc chấp hành các quy định của pháp luật trong công
tác sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, triển lãm các tài liệu hiện vật về
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thanh tra việc thực hiện các khoản thu chi của Bảo
tàng theo Nghị định 43/NĐ-CP về tự chủ tài chính (nay là Nghị định
16/2015NĐ-CP).
Công tác kiểm tra của Bảo tàng Hồ Chí Minh trong những năm qua về
cơ bản được thực hiện tốt, hoạt động kiểm tra việc chấp hành các quy định của
pháp luật, đặc biệt là các quy định về quy trình sưu tầm, kiểm kê, bảo quản tài
liệu, hiện vật được thực hiện nghiêm túc đảm bảo tăng tuổi thọ cho các tài liệu,
hiện vật được bảo quản trong Bảo tàng.
Trong hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh, hoạt động thanh tra,
kiểm tra được tiến hành nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý về các hành vi vi
phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý giúp cho việc quản lý điều hành đạt đúng mục tiêu
đề ra. Việc thực hiện thanh tra, kiểm tra tại Bảo tàng Hồ Chí Minh cho thấy
Bảo tàng đã tiến hành các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, hoạt động thu chi
tài chính đã tuân thủ các quy định của pháp luật.

16



2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối
với tài liệu hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh từ năm 1990-2015
2.4.1. Những kết quả đạt được
Trong thời gian qua, chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu,
hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh đã được thực hiện khá tốt, góp phần nâng
cao chất lượng về:
- Hệ thống chính sách, văn bản pháp luật về bảo tồn di sản văn hóa đối
với tài liệu, hiện vật được ban hành tương đối đầy đủ.
- Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư rất lớn vào lĩnh vực bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh. Từ việc
huy động mọi nguồn lực của Nhà nước và nhân dân nhiều tài liệu, hiện vật đã
được bảo tồn trong điều kiện thuận lợi nhất.
- Thông qua đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đã góp
phần cải thiện chất lượng đội ngũ viên chức làm việc trong Bảo tàng đáp ứng
với đòi hỏi ngày càng cao trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa đối với tài liệu, hiện vật trong thời kỳ mới
- Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi
phạm pháp luật về di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật được thực hiện
tương đối tốt ở Bảo tàng Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm
tra đã giúp công tác quản lý, sử dụng nguồn tài chính trong Bảo tàng được
thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật. Công tác sưu tầm, tiếp nhận,
bảo quản tài liệu, hiện vật được thực hiện theo đúng quy trình.
2.4.2. Những hạn chế, yếu kém
- Quản lý thông tin về hệ thống hóa di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện
vật còn hạn chế. Hiện nay tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chưa thực sự có hoạt động
nghiên cứu, đánh giá hệ thống tài liệu, hiện vật, chưa có chế tài bảo vệ phù hợp,
chính vì vậy đã đưa đến thực trạng nhiều di sản tài liệu, hiện vật đang bị mai
một chưa phát huy được giá trị vốn có của bản thân tài liệu, hiện vật.

17



- Công tác đầu tư, huy động sử dụng các nguồn lực phục vụ cho bảo
tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật chưa được thực hiện tích cực.
Nguồn vốn huy động hàng năm chưa đáp ứng được việc bảo quản, phục chế
nên nhiều di sản vẫn đang trong tình trạng xuống cấp.
- Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với viên chức làm việc trong các kho
cơ sở của Bảo tàng thời gian qua đã được Đảng bộ, Ban Giám đốc quan tâm,
tuy nhiên, chính sách đãi ngộ chung của Nhà nước đối với bộ phận viên chức
này chưa thật sự thoả đáng chưa tạo được đòn bẩy để viên chức hăng say làm
việc, cống hiến cho Bảo tàng.
- Việc giao lưu trao đổi kinh nghiệm và áp dụng có chọn lọc kinh
nghiệm về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật ở
Bảo tàng Hồ Chí Minh chưa được đẩy mạnh.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát còn tiến hành chưa thường
xuyên, công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra về hoạt động bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
với các cơ quan cùng cấp, với Bảo tàng Hồ Chí Minh chưa chặt chẽ nên hiện
lực, hiệu quả chưa cao.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
- Hệ thống văn bản về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
nói chung, với tài liệu, hiện vật nói chung vẫn còn nhiều nội dung chưa phù
hợp, còn nhiều bất cập, nhiều quy định chưa rõ ràng, chưa có hướng dẫn cụ
thể khiến cho các Bảo tàng vận dụng khác nhau.
- Một số nơi việc triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa nói chung, với tài liệu, hiện vật nói riêng còn rập khuôn, máy
móc, thiếu những giải pháp hợp lý, chưa biết vận dụng sáng tạo phù hợp với
điều kiện đặc thù của tổ chức mình nên hiệu quả của việc thực hiện chính
sách chưa cao.
- Hiện có khoảng 13 vạn tài liệu, hiện vật đang được giữ tại Kho cơ sở

của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Mặc dù là một trong những bảo tàng đầu hệ trong
18


cả nước nhưng với số lượng tài liệu, hiện vật quá lớn như vậy thì việc bảo
quản không hề đơn giản.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa của cấp trên, của tổ chức, cán bộ chủ chốt các cấp có
lúc, có nơi còn buông lỏng, chưa sâu sát
- Việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và thông tin về di sản
văn hóa đối với tài liệu, hiện vật chưa kịp thời và thường xuyên liên tục. Còn
thiếu những cuốn sách cẩm nang về di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
trong Bảo tàng để phục vụ du khách đặc biệt là du khách nước ngoài.
* Tiểu kết chương 2
Chương 2 đã khái quát quá trình hình thành, phát triển của Bảo tàng Hồ
Chí Minh, khái quát về tài liệu, hiện vật và phân loại tài liệu, hiện vật nhằm
cung cấp một cái nhìn tương đối đầy đủ về Bảo tàng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở
đó, luận văn văn phân tích thực trạng công tác bảo quản tài liệu, hiện vật và
tình hình thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu hiện vật
ở Bảo tàng Hồ Chí Minh. Từ đó, luận văn đã đưa ra đánh giá chung về những
kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém của việc thực hiện chính sách bảo
tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Đồng thời luận văn cũng phân
tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó. Đây là cơ sở, tiền đề cho
việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo quản tài
liệu, hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh và hoàn thiện việc thực hiện chính
sách bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật nói chung ở chương 3.

19



Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI
TÀI LIỆU, HIỆN VẬT Ở BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
3.1. Mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách bảo tồn di sản văn
hóa đối với tài liệu, hiện vật
Di sản văn hóa là đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, nó được hun
đúc, kết tinh từ những giá trị chuẩn mực của văn hóa. Bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa chính là hoạt động nhằm khơi dậy sức mạnh dân tộc, tạo đã
cho sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội hài hòa.
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được quan tâm
khởi nguồn từ Nghị quyết Đại hội Khóa VII của Đảng và thực sự nhấn
mạnh trong Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII khi xác định: “Di sản
văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết dân tộc, là cốt lõi của bản sắc văn hóa
dân tộc, cơ sở sáng tạo ra giá trị mới và giao lưu văn hóa…”.
Xuyên suốt sau đó tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI,
XII đã khẳng định tầm quan trọng của hoạt động bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa trong đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc hại. Trong sự
nghiệp phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, di sản văn hóa
đóng vai trò quan trọng hàng đầu và phải kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát
huy di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch.
Định hướng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong những năm
tới bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa.
- Ngành văn hoá đã tiến hành nhiều hình thức tuyên truyền về Luật Di
sản văn hoá và các văn bản pháp quy liên quan bằng panô, khẩu hiệu, tài liệu
thông qua các cuộc họp của nhân dân... nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm
của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân đối với di sản văn hoá.
20



- Tăng cường áp dụng tin học hóa, khoa học kỹ thuật công nghệ cao
trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật.
Trong những năm tới Bảo tàng Hồ Chí Minh giữ vững quan điểm tiếp
tục tăng cường nghiên cứu, sưu tầm, đa dạng hóa hơn nữa công tác tuyên
truyền giáo dục, chú trọng đầu tư nghiên cứu để nâng cao hơn nữa chất lượng
các hoạt động nghiệp vụ đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao về hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần tuyên truyền, giáo dục
truyền thống cách mạng, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tới công
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa đối với tài liệu hiện vật ở Bảo tàng Hồ Chí Minh
3.2.1. Hoàn thiện việc xây dựng nội quy, quy chế hoạt động nâng cao
chất lượng công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu,
hiện vật
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, căn cứ những chính sách chung
của Nhà nước, hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về về gìn giữ
và phát huy di sản văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh sẽ tập trung xây dựng,
hoàn thiện các văn bản để thực hiện những định hướng đó trong phạm vi hoạt
động của mình. Tập trung vào các công việc sau:
- Xây dựng quy định thống nhất về trang thiết bị bảo quản tài liệu, hiện
vật.
- Xây dựng định mức lao động, định mức kinh tế kỹ thuật trong bảo
quản tài liệu, hiện vật.
- Xây dựng danh mục tài liệu hạn chế sử dụng và công bố những tài
liệu đã giải mật để cho công chúng biết những tài liệu đó có thể khai thác, sử
dụng được trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Quy định về tiêu chuẩn xác định tài liệu, hiện vật quý hiếm thuộc diện
hạn chế khai thác sử dụng. Hiện nay việc xác định tính chất quý hiếm của tài
liệu, hiện vật còn hạn chế theo ý kiến chủ quan của người quản lý. Nhiều nhà

21


quản lý vẫn giữ quan niệm rằng những tài liệu nào có số lượng ít thì là quý
hiếm, dẫn đến việc xác định tính chất quý hiếm của tài liệu là không thống nhất.
3.2.2. Tăng cường đầu tư tài chính cho hoạt động bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
- Thực hiện chính sách xã hội hóa, huy động toàn bộ các nguồn lực của
xã hội vào bảo tồn di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật. Thực tế cho thấy
cả những nước phát triển có tiềm lực kinh tế rất lớn cũng không bao giờ có đủ
kinh phí nguồn lực để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa. Chính vì vậy việc
ban hành và thực hiện chính sách xã hội hóa - huy động toàn xã hội bổ sung
thêm nguồn lực cho nhà nước, bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực.
Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa vừa giúp Nhà nước giảm bớt
gánh nặng tài chính, khai thác được tiềm lực tài chính, khai thác được tiềm
lực của toàn xã hội vừa tạo điều kiện để nhà nước đầu tư vào các công trình,
dự án bảo tồn di sản trọng điểm. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành
và tầng lớp nhân dân trong xã hội về chính sách xã hội hóa.
Vấn đề thu phí ở các bảo tàng công lập nói chung, Bảo tàng Hồ Chí
Minh nói riêng cũng cần nghiên cứu thực hiện theo tinh thần Nghị quyết
05/2006/NQ-CP: “Đổi mới chế độ thu phí đi đôi với việc thực hiện tốt chính
sách ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo. Mức phí quy
định theo nguyên tắc đủ trang trải các chi phí cần thiết, có tích luỹ để đầu tư
phát triển và xoá bỏ mọi khoản thu khác”.
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa đối với tài liệu, hiện vật
Đội ngũ công chức, viên chức có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
hiệu lực và hiệu quả của hoạt động công vụ. Phần lớn các thất bại của công
việc là do những người tham gia vào công việc đã hoặc không có đủ năng lực
hoặc không có động cơ làm việc tốt. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công

chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước và cán bộ khoa học chuyên
môn hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng có vai trò đặc biệt quan trọng
22


×