Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.6 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÒ THUẬN HẢI

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ QUỲNH CHI

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi trên cơ
sở định hướng của người hướng dẫn khoa học là TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi.
Các số liệu và kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn
gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác.
Tác giả luận văn

Lò Thuận Hải


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ..................................................6
1.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất .........6
1.2. Khái quát sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất ................................................................................ 17
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI TỈNH SƠN LA ........................................................................30
2.1. Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất ........................................................................................................ 30
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại tỉnh Sơn La ................................................................ 40
Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH SƠN LA .......................... 60
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Sơn La ................................ 60
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Sơn La ................................ 66
KẾT LUẬN ..................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................79
PHỤ LỤC .....................................................................................................83


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đã khẳng định rằng, mọi hoạt động của con người đều bắt nguồn
từ đất đai. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là không gian cư trú, là
nguồn sống, tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài sản và là nguồn lực quan trọng để phát
triển đất nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của đất đai
đối với cuộc sống con người, nó có ý nghĩa hàng đầu về mọi mặt, mọi lĩnh vực
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia.
Hiến pháp 1980 ra đời đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đến nay
quyền của người sử dụng đất không ngừng được phát triển. Từ chỗ người sử dụng
đất chỉ có quyền khai thác các công dụng của đất đai, không có quyền thực hiện
các giao dịch dân sự về đất đai, đến khi có Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm

1993 và đặc biệt là khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời thì Nhà nước đã thừa nhận
cho người dân có năm quyền sử dụng đất là chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
tặng cho, thừa kế. Quyền năng của người quản lý, sử dụng đất hợp pháp sẽ ngày
càng được đảm bảo tốt hơn, thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể và cũng là để
quản lý, khai thác đất đai có hiệu quả hơn. Luật Đất đai năm 2013 thay thế cho
Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự năm 2015 thay thế cho Bộ luật Dân sự
năm 2005 đã giải quyết được phần nào những hạn chế, vướng mắc trong việc đảm
bảo thực hiện quyền của người sử dụng đất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất. Hiện nay ở nước ta các văn bản pháp luật điều
chỉnh việc tranh chấp quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất tuy có nhiều nhưng vẫn chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo nhau; nhiều
quy định không còn phù hợp, có sự mâu thuẫn với đời sống xã hội gây khó khăn
cho tòa án trong công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
Tranh chấp quyền sử dụng đất là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã
hội. Đặc biệt, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành
một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị thì các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất có xu

1


hướng ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất, nhất là ở những
địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh. Mỗi năm, Tòa án nhân dân các cấp phải
thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất. Nhìn chung,
ngành Tòa án nhân dân đã giải quyết thành công một lượng lớn các vụ tranh chấp
về quyền sử dụng đất, chất lượng xét xử ngày càng cao, phần nào bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác
nhau mà tại nhiều nơi hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất chưa
thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi, trong đó có cả yếu tố khách quan như: Cơ
chế quản lý đất đai còn nhiều bất cập, thiếu sót; chính sách, pháp luật không đồng
bộ, còn chồng chéo nhau nhưng lại chậm được sửa đổi bổ sung… Và yếu tố chủ

quan như: Trình độ chuyên môn của một số thẩm phán còn hạn chế; trong quá
trình giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất còn chậm khắc phục những tồn
tại, vướng mắc gặp phải. Là một trong những cơ quan nhà nước được giao thẩm
quyền giải quyết các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất, Tòa án nhân dân đã có
nhiều đóng góp và giữ vai trò ngày càng quan trọng trong công tác giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các
quy định của pháp luật hiện hành về quyền sử dụng đất và thực tiễn áp dụng của
Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tại tỉnh Sơn La) vào giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất, để từ đó phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập của hệ thống
pháp luật và trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, các giải pháp giúp cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đưa ra những điều chỉnh phù hợp, góp phần tiếp tục hoàn
thiện các văn bản pháp luật về quyền sử dụng đất để phù hợp với tình hình kinh tế
- xã hội của nước ta trong quá trình hội nhập hiện nay.
Có thể nhận thấy rằng việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất
hiện nay là công tác khó khăn, phức tạp nhất trong các tranh chấp dân sự nói
chung, kết quả giải quyết ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Do đó,
để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp
luật về quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, cũng như
nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án
nhân dân và xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất có hiệu quả

2


nhằm phát huy hết giá trị của quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất là một việc làm có ý nghĩa to lớn, quan trọng cả về
mặt thực tiễn và lý luận hiện nay. Nhận thức được điều đó, tôi đã lựa chọn vấn đề
“Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa
học pháp lý nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp về
giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam với phạm vi và mức độ khác nhau. Có
thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Hướng dẫn và tìm hiểu các vấn đề về
tranh chấp, khiếu kiện đất đai của TS Nguyễn Ngọc Điện, Nhà xuất bản trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996; Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp
đất đai bằng tòa án ở nước ta, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Mai Thị Tú
Oanh, năm 2013. Sát hơn với đề tài nghiên cứu của Luận văn là các bài viết, các
công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí, các báo có uy tín trong
nước như: Tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính
lịch sử của tác giả Nguyễn Quang Tuyến trong báo cáo tham luận tại hội thảo
“Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”
năm 2008; Tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 23 và
24 năm 2006 với chủ đề: Một vài suy nghĩ về những quy định chung trong phần
chuyển quyền sử dụng đất, thẩm quyền giải quyết và hướng xử lý một vài tranh
chấp chuyển quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005...
Các đề tài và bài viết trên đã cung cấp một lượng lớn thông tin, phong phú và đa
dạng dưới các góc nhìn, các quan điểm khác nhau về những khía cạnh và những
nội dung có liên quan đến đề tài luận văn. Qua đó, có cái nhìn sâu sắc và nhận
diện vấn đề nghiên cứu một cách khoa học hơn.
Tuy các đề tài và bài viết kể trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh và ở những
mức độ khác nhau của vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai nhưng nếu nhìn một
cách tổng thể, hệ thống thì mỗi tác giả lại có những quan điểm chủ quan, hơi thiên
lệch về một góc độ nào đó, chưa xem xét vấn đề trong mối hài hòa, giao thoa giữa

3


các ngành luật. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội vẫn đang có những
thay đổi nhanh chóng thì các kết quả mà giới khoa học pháp lý nước ta đã đạt

được vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện. Hơn nữa, dưới góc
độ nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn tại tỉnh Sơn La thì vẫn chưa có một công
trình nào. Bởi vậy, trong một chừng mực nào đó, việc nghiên cứu thành công đề
tài “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La” trong khuôn khổ luận văn luật học vẫn là một công
việc có ý nghĩa lý luận và mang tính thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận, đánh giá thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La. Qua đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật để giải quyết có
hiệu quả hơn các tranh chấp về quyền sử dụng đất.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu, làm sáng tỏ
những quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất; phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở
tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong quá trình giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất; đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp
cụ thể, thích hợp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất, giúp Tòa án nhân dân nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp này, tránh việc khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt
của đời sống xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến tranh chấp quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất qua
các thời kỳ lịch sử khác nhau; thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự ở tỉnh Sơn La thông qua một số vụ án cụ
thể trong những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về một số dạng

4



tranh chấp quyền sử dụng đất điển hình, các quy định về giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và cơ chế thực hiện
tương ứng của Tòa án nhân dân qua thực tiễn áp dụng pháp luật ở tỉnh Sơn La (từ
năm 2012 đến năm 2017). Qua đó đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề đặt ra, người viết luận văn sử dụng phương pháp
lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng
hợp, trao đổi chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị của
đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật
trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền sử
dụng đất nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng
ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và khái quát sự phát triển của pháp luật tố
tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Sơn La.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Sơn La.

5



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sử dụng đất và
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
1.1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất
Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận sự
tồn tại của nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai (sở hữu nhà nước, sở hữu
tập thể và sở hữu tư nhân). Theo đó, Điều 31 Luật Cải cách ruộng đất năm 1953
quy định: “Người được chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất đó... Chính
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho người được chia. Mọi khế ước cũ
đều huỷ bỏ. Người được chia có quyền chia gia tài, cầm, bán, cho... ruộng đất
được chia”. Tuy nhiên, kể từ khi Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực thì tại Điều
19: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở
vùng biển và thềm lục địa... đều thuộc sở hữu toàn dân” và Điều 20: “Những tập
thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao
động của mình theo quy định của pháp luật”. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất
đai tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp năm 1992 (Điều 17) và Hiến pháp năm
2013 (Điều 53). Trên tinh thần đó, Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993
(sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 đã
cụ thể hóa chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, trong đó đặc biệt là quy định về
quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai. Các quy định
của pháp luật đất đai cho thấy, chỉ khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mới được thực hiện
quyền của người sử dụng đất. Trên nguyên lý đó, mặc dù là chủ thể trực tiếp khai
thác, sử dụng đất đai, nhưng người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đất đai

và khi thực hiện các quyền của mình (chuyển nhượng, cho, tặng, cho thuê... quyền

6


sử dụng đất) thì phải được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với
các điều kiện đã được pháp luật đất đai quy định. Tuy không đồng nhất các khái
niệm về quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, nhưng trong số 05 quyền của
người sử dụng đất tại Luật Đất đai năm 1993, sau đó mở rộng đến 10 quyền tại
Luật Đất đai năm 2003 và 08 quyền tại Luật Đất đai năm 2013 có nhiều quyền
mang tính chất định đoạt tài sản (giống như chủ sở hữu), nghĩa là việc thực hiện
quyền dẫn đến thay đổi người sử dụng đất với tư cách là chủ thể trực tiếp quản lý,
khai thác thửa đất, đó là quyền trao đổi, tặng cho, chuyển nhượng, góp vốn, thừa
kế bằng quyền sử dụng đất. Mặc dù thủ tục thực hiện các quyền nêu trên của
người sử dụng đất tuy phức tạp hơn so với việc định đoạt các loại tài sản thông
thường khác, nhưng nếu nhìn từ góc độ khoa học pháp lý thì sẽ dễ dàng nhận thấy
quyền của người sử dụng đất thực chất là một tập hợp nhiều quyền năng về tài
sản, trong đó bao gồm cả quyền định đoạt. Chính vì vậy, “sáng t o ra khái niệm
quyền sử dụng đất, người iệt Nam dường như đ t o ra một khái niệm sở hữu
k p, một khái niệm sở hữu đa tầng: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song quyền sử
dụng đất l i thuộc về cá nhân ho c t chức” [8, tr.169]. Sự tồn tại thiếu rõ ràng
của khái niệm “sở hữu k p” cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến
quá trình thực hiện quyền dân sự của người sử dụng đất, sự vận hành của thị
trường quyền sử dụng đất ở nước ta thời gian qua đã không phản ánh đúng bản
chất khách quan và bị bóp méo bởi các quyết định mang tính hành chính của các
chủ thể có thẩm quyền tại nhiều thời điểm, trong khi “yêu cầu số một đối với dự
án cải cách pháp luật dân sự, về phần liên quan đến quyền sở hữu là phải minh
định vị trí trung tâm của quyền sử dụng đất trong chế độ pháp lý về sở hữu tư
nhân, đ c biệt là trong chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân đối với bất động sản”
[Xem 4].

Nhìn từ phương diện lịch sử thì khái niệm “quyền sử dụng đất” đã được đề
cập trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, bắt đầu từ thập niên 70
của thế kỷ XX với tên gọi ban đầu là “quyền quản lý và sử dụng ruộng đất” [Xem
7]. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, pháp luật thực định của Việt Nam vẫn chưa
có định nghĩa chính thức về nội hàm của khái niệm quyền sử dụng đất. Theo Từ

7


điển Luật học năm 2006 thì "quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể được
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được Nhà nước
giao, cho thuê ho c được chuyển giao từ chủ thể khác thông qua việc chuyển đ i,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê l i, thừa kế, t ng cho...” [47, tr.655]. Trong
khi đó, Giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội thì cho
rằng: "Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để
phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” [44,
tr.92]. Mặc dù nghiên cứu ở các giác độ khác nhau, nhưng nội hàm của các khái
niệm về quyền sử dụng đất nêu trên có các đặc điểm chủ yếu như: quyền sử dụng
đất là quyền khai thác giá trị của đất đai; chủ thể thực hiện việc khai thác chính là
người sử dụng đất (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) và quyền sử dụng đất không
phải là quyền sở hữu đất đai.
1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất
Khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, đất đai trở thành tư liệu sản xuất
quan trọng, trở thành một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị và có thể giao dịch trên
thị trường thì việc xảy ra các mâu thuẫn, những bất đồng trong quan hệ giữa các
chủ thể về lợi ích và quyền sử dụng đất là điều không tránh khỏi. Để giải quyết
những mâu thuẫn đó các chủ thể có thể tự mình hòa giải hoặc nhờ đến sự can thiệp
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, tất cả các thủ tục, trình tự, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp khi mâu thuẫn giữa các chủ thể xảy ra đều phải được
điều chỉnh bằng pháp luật và các bên tham gia quan hệ giải quyết tranh chấp đất

đai phải nghiêm chỉnh chấp hành, đảm bảo pháp chế.
Về mặt lý luận, các nhà khoa học đã định nghĩa về tranh chấp đất đai như
sau: “Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai”
[44, tr.455]. Theo quan điểm này thì tranh chấp đất đai có khái niệm tương đối
rộng, các chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp là các chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật đất đai bao gồm Nhà nước và người sử dụng đất; đối tượng của tranh
chấp đất đai là những bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa
vụ giữa các chủ thể là Nhà nước và người sử dụng đất khi tham gia vào quan hệ

8


pháp luật đất đai.
Về mặt pháp lý, tại Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định
“Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa
hai ho c nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Theo khái niệm này, tranh chấp đất
đai là tranh chấp về “quyền” và tranh chấp về “nghĩa vụ” liên quan đến đất đai của
người hiện đang quản lý, sử dụng đất với những người có liên quan trong quan hệ
đất đai, trong đó có cả các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Nếu
hiểu một cách thuần túy tranh chấp đất đai là tranh chấp “giữa hai hoặc nhiều bên
trong quan hệ đất đai” thì đồng nghĩa sẽ có loại tranh chấp đất đai giữa cơ quan
quản lý Nhà nước về đất đai với người sử dụng đất. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn
với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Bởi lẽ, theo Điều 4 Luật Đất đai năm 2013
quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đ i diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo
quy định của Luật này”. Như vậy, định nghĩa tranh chấp đất đai theo Khoản 24
Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 sẽ gây nhiều cách hiểu không chính xác do có nội
hàm rộng. Nhiều quan điểm đã đồng tình với cách hiểu rằng: “Tranh chấp đất đai
là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về

quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất” [46, tr.74]. Bên cạnh
đó, các tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất cũng
đã từng được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến
quyền sử dụng đất chứ không phải là tranh chấp đất đai một cách chung chung.
Theo đó, tranh chấp đất đai được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện
tích đất cụ thể giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý và sử dụng đất.
Như vậy, tranh chấp đất đai ở nước ta chính là tranh chấp quyền sử dụng
đất hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp khác có liên
quan đến quyền sử dụng đất. Hiện nay, ngành tòa án ở nước ta vẫn thống kê các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói chung.
Vì vậy, tranh chấp đất đai là bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và tất cả các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và trong điều kiện của nước ta hiện

9


nay, cũng nên hiểu tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng đất và
các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì phù hợp hơn. Như vậy,
có thể hiểu tranh chấp quyền sử dụng đất là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột
về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai
trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
1.1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học: “Giải quyết tranh chấp đất đai
là giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, t chức trong quá trình
quản lý và sử dụng đất đai và trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị
xâm h i đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi ph m pháp luật
về đất đai” [43, tr.74].
Như vậy, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là hoạt động của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn của các

chủ thể trong quan hệ đất đai trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bên bị xâm hại, đồng thời buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu
quả pháp lý do hành vi của họ gây ra, góp phần tăng cường pháp chế trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất là việc áp dụng các quy định của pháp luật vào giải quyết các xung đột giữa
các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai nhằm bảo vệ các quyền vào lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất là một trong những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai
phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất, Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội và của người sử dụng đất. Đồng thời, giáo
dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, ngăn ngừa những
hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra, mang lại sự ổn định trong nội bộ nhân
dân, làm cho những quy định của pháp luật đất đai được thực hiện hiệu quả trong
cuộc sống.

10


1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp quyền sử dụng đất là một hiện tượng xã hội, có thể xảy ra ở
mọi lúc, mọi nơi. Theo Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì “tranh chấp
đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai ho c
nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Nói cách khác, tranh chấp quyền sử dụng đất là
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất trong quá trình quản lý
và sử dụng đất. Rõ ràng, các tranh chấp dạng này là những tranh chấp thuần túy,
mang đặc điểm chung của các tranh chấp kinh tế, dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh
những đặc điểm chung đó thì tranh chấp quyền sử dụng đất cũng có những đặc
điểm riêng để phân biệt với những dạng tranh chấp khác:

Thứ nhất, các chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất,
không có quyền sở hữu đối với đất đai [44, tr.456]. Các chủ thể chỉ được xác lập
quyền quản lý, sử dụng đất khi được Nhà nước có quyết định giao đất, cho thuê đất
hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng.
Như vậy, chủ thể của quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất là các cá nhân, tổ chức,
hộ gia đình tham gia với tư cách là người quản lý hoặc sử dụng đất.
Thứ hai, nội dung của tranh chấp quyền sử dụng đất rất đa dạng và phức
tạp. Hoạt động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa
dạng, phong phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích
và nhu cầu sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử
dụng đất không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất
thông thường mà đất đai đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương
mại. Đã là một loại hàng hóa thì đất đai cũng phải biến động theo quy luật cung
cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng đất không chỉ đơn thuần là việc
khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất. Tất nhiên, khi
nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những xung đột
xung quanh việc quản lý và sử dụng đất cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.
Thứ ba, tranh chấp đất đai phản ánh phong tục, tập quán, hành vi ứng xử
khác nhau của từng cộng đồng người, từng vùng miền. Do đó, tranh chấp quyền
sử dụng đất có tính chất phức tạp và thường gay gắt hơn các loại tranh chấp khác.

11


Tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội như: gây mất ổn định về chính trị, làm căng thẳng, mất đoàn
kết, phá vỡ các mối quan hệ xã hội; phá vỡ trật tự quản lý đất đai, sản xuất bị trì
trệ, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tranh chấp và gián tiếp gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu

và thống nhất quản lý nên đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp. Do
vậy, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những
lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng [44, tr.456].
1.1.3. Phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất và các hình thức giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
1.1.3.1. Phân lo i tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp quyền sử dụng đất diễn ra phổ biến và phức tạp. Do đó, để giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, cần phải xác định được các dạng tranh chấp
quyền sử dụng đất. Việc phân loại chính xác các dạng tranh chấp quyền sử dụng
đất có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định chính xác việc đương sự có quyền khởi
kiện tranh chấp tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự hay tố tụng hành chính, tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân hay Uỷ ban nhân dân, xác
định thời hiệu khởi kiện, đồng thời là cơ sở để xác định trình tự, thủ tục và phương
hướng giải quyết tranh chấp.
Việc phân loại quan hệ pháp luật tranh chấp liên quan đến đất đai là vấn đề
tương đối. Trên thực tế có những vụ án, tính chất của quan hệ pháp luật tranh chấp
có cả dấu hiệu của tất cả các dạng tranh chấp. Để xác định tranh chấp thuộc dạng
tranh chấp quyền sử dụng đất nào, ngoài các quy định của Luật Đất đai cần căn cứ
vào các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam để xác định ai kiện, kiện
ai, kiện về vấn đề gì và kiện như thế nào để xác định quan hệ pháp luật.
Căn cứ theo Luật Đất đai năm 2013, có thể phân loại các dạng tranh chấp
liên quan đến đất đai như sau:
- Nhóm thứ nhất, tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất
Đây là tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan

12


đến các giao dịch về đất và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi
giải quyết các tranh chấp này, toà án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai.

Theo điểm a Khoản 3 Điều 159 BLTTDS đã được sửa đồi, bổ sung năm 2011, có
hiệu lực kề từ ngày 01/01/2012 thì dạng tranh chấp này không áp dụng thời hiệu
khởi kiện.
Các tranh chấp phổ biến trong trường hợp này là tranh chấp về ranh giới
đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng bị trùng diện tích, người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là không đúng.
- Nhóm thứ hai, tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng
đất (chuyển nhượng, chuyển đ i, cho thuê, cho thuê l i quyền sử dụng đất, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,…)
Các tranh chấp này có thể yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, công
nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu… Bản chất của
tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Thời hiệu
khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi
kiện đối với các tranh chấp về hợp đồng nói chung.
- Nhóm thứ ba, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
Đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định
của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về
phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp. Bản chất
của dạng tranh chấp này là tranh chấp thừa kế có đối tượng là quyền sử dụng đất
và Tòa án phải xác định ranh giới đất để phân chia. Thời hiệu khởi kiện đối với
dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối với các
tranh chấp về thừa kế tài sản nói chung.
- Nhóm thứ tư, tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất
Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, bao gồm: Tranh chấp tài sản về nhà

13



ở, vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô,
nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở; các công trình xây dựng trên đất
được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho
tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc
trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp
hay các cây lâu năm khác… gắn liền với quyền sử dụng đất đó. Tranh chấp trong
trường hợp này có thể là tranh chấp về ai là người có quyền sử dụng đất gắn liền
với tài sản, thừa kế hoặc tranh chấp về các hợp đồng liên quan đến tài sản gắn liền
với đất.
1.1.3.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp quyền sử dụng đất là một trong những vấn đề thường hay xảy
ra trong cuộc sống của chúng ta. Có rất nhiều mâu thuẫn dẫn đến vụ việc không
đáng có này, nếu cứ để cho mọi thứ tiếp diễn thì xã hội sẽ trở nên hỗn loạn, mất
ổn định về chính trị, xã hội. Chính vì thế, việc đưa ra cách giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất phải dựa trên cơ sở pháp luật, qua đó sẽ giúp cho mọi người
nhìn nhận đúng hành vi tranh chấp của mình là đúng hay sai, từ đó, đưa vụ việc
trở về đúng với trạng thái mà vốn dĩ nó phải có.
Khi có tranh chấp quyền sử dụng đất xảy ra trong cộng đồng dân cư, thì
theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
sẽ tiến hành giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó theo quy định của pháp luật
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Trên cơ sở Luật Đất
đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành có thể phân loại phương thức
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất như sau:
- Thứ nhất, giải quyết bằng biện pháp hòa giải
Hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất là biện pháp pháp lý giải quyết các
tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc lập giữ vai trò
trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích
hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến quyền sử

dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết quyền lợi của mình. Hòa
giải tranh chấp quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm

14


2013; bên cạnh đó tại Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/05/2014 cũng quy định chi tiết thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai.
Hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt
và hiệu quả nhằm giúp cho các bên tranh chấp tìm ra một giải pháp thống nhất để
tháo gỡ những mâu thuẫn, bất đồng trong tranh chấp quyền sử dụng đất trên cơ sở
tự nguyện, tự thỏa thuận. Hòa giải không chỉ mang lại ý nghĩa cho Tòa án, cho
bản thân đương sự mà còn có ý nghĩa đối với trật tự xã hội.
- Thứ hai, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng biện pháp khác
khi không hòa giải được
Luật Đất đai năm 2013 và những văn bản luật cũ đều ghi nhận thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đối với đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các
giấy tờ khác theo quy định của pháp luật (các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật
Đất đai năm 2013), nếu hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã không thành thì theo
Khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai mà
đương sự có Giấy chứng nhận ho c có một trong các lo i giấy tờ quy định t i
Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án
nhân dân giải quyết”. Đối với trường hợp tranh chấp đất đai mà không có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ theo quy định
của pháp luật thì Luật Đất đai năm 2013 đã có những sửa đổi bổ sung mới về thẩm
quyền giải quyết được quy định tại Khoản 2 Điều 203.
Hơn nữa, Luật Đất đai năm 2013 cũng cho phép các bên tranh chấp khi lựa
chọn giải quyết tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền, nếu không đồng ý với quyết
định giải quyết lần đầu bên cạnh việc khiếu nại lên cấp trên trực tiếp thì có thể
khởi kiện ra Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng hành chính. Đây là điểm mới cơ

bản so với luật cũ năm 2003 về thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất,
tạo ra nhiều phương thức giải quyết tranh chấp cho các bên và để giải quyết tranh
chấp một cách triệt để nhất.
Khác với Luật Đất đai năm 2003, thì Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ
ràng tại Khoản 3 Điều 203 về các loại vụ việc tranh chấp tương ứng với thẩm quyền
giải quyết của từng cấp Ủy ban nhân dân. Việc quy định cụ thể như hiện nay là phù

15


hợp, đảm bảo cho các bên tranh chấp có thể dễ dàng trong việc xác định cơ quan có
thẩm quyền, tránh tình trạng cơ quan nhà nước cố tình gây phiền toái kiểu thuộc thẩm
quyền của mình nhưng cũng thuộc thẩm quyền của cơ quan khác nên từ chối tiếp nhận.
- Thứ ba, áp dụng tập quán và án lệ vào giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá
nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần
trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân
tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Trường hợp các bên không có
thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp
dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3
của Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra, án lệ cũng có thể được sử dụng để giải quyết tranh chấp liên quan đến
quyền sử dụng đất. Theo Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày
28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán thì án lệ được định nghĩa là: “Những lập
luận, phán quyết trong bản án, quyết định đ có hiệu lực pháp luật của Tòa án về
một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn
và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên
cứu, áp dụng trong xét xử”. Việc áp dụng án lệ là phương thức hiệu quả để góp
phần nâng cao năng lực của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự,
thương mại, đặc biệt là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, bảo đảm việc áp

dụng pháp luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và tiên
liệu được trong các phán quyết của Tòa án.
Việc áp dụng tập quán và án lệ vào giải quyết các giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất nói riêng và các vụ việc dân sự nói chung là một quy định
nhằm hạn chế những “kẽ hở” của pháp luật dân sự, bảo đảm giải quyết triệt để
nhất các quan hệ pháp luật dân sự xảy ra trên thực tế.
1.1.4. Hậu quả của tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp quyền sử dụng đất đang là một trong những vấn đề gây bức xúc ở
nhiều địa phương. Từ những vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn về nhà, đất không được
giải quyết dứt điểm đã gây ra hậu quả nặng nề, ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội.

16


Thứ nhất, về m t chính trị: Khi các tranh chấp xảy ra có thể gây ảnh hưởng
xấu, làm mất ổn định tình hình chính trị - xã hội; hiệu quả thực hiện các đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước bị suy giảm. Nếu các tranh chấp xảy
ra không được giải quyết kịp thời, triệt để thì có thể làm mất lòng tin trong nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, về m t xã hội: Tranh chấp sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
các mối quan hệ trong xã hội như: Tình cảm giữa cha - con, vợ - chồng, anh - em,
bạn bè... bị rạn nứt. Lợi ích kinh tế có thể làm lu mờ các chuẩn mực đạo đức xã
hội, trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến việc vi phạm pháp luật hình sự của các
bên, dẫn đến hàng loạt các vấn đề phức tạp khác.
Thứ ba, về m t kinh tế: Các tranh chấp phát sinh sẽ làm ảnh hưởng đến tâm
lý, thời gian và tiền bạc của các bên tranh chấp. Bên cạnh đó, nó ảnh hưởng đến
hoạt động của các cơ quan nhà nước do phải duy trì một bộ máy không nhỏ để giải
quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Điều này không những gây tốn kém
cho Nhà nước mà còn ảnh hưởng đến kinh tế của nhân dân do phải chi trả cho các
khoản chi phí khi xảy ra tranh chấp. Hơn nữa, các tranh chấp về quyền sử dụng

đất còn có thể làm ngừng trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh, gây thiệt hai đến
lợi ích của các bên, lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội.
Như vậy, khi đánh giá tác động của tranh chấp đất đai đối với các mặt của
đời sống kinh tế - xã hội, chúng ta càng thấy được mức độ nguy hại của các tranh
chấp quyền sử dụng đất cũng như tính cấp bách trong việc giải quyết có hiệu quả
các tranh chấp này nhằm ổn định xã hội, tạo đà phát triển cho nền kinh tế của đất
nước: “Dân có giàu thì nước mới m nh”.
1.2. Khái quát sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất

1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.2.1.1. Nguồn của luật tố tụng dân sự iệt Nam
Nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm các văn bản pháp luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án,

17


người tham gia tố tụng và người liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự. Các văn
bản pháp luật là nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều
loại như Hiến pháp; Bộ Luật tố tụng dân sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ Luật tố tụng dân sự; Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Luật Tổ chức viện kiểm sát
nhân dân và các văn bản pháp luật khác [45, tr.17].
Hiến pháp là một nguồn quan trọng của luật tố tụng dân sự. Trong Hiến
pháp có nhiều quy định về nguyên tắc của hoạt động tố tụng dân sự như quy định
về hoạt động xét xử của tòa án có hội thẩm nhân dân tham gia; thẩm phán, hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tòa án xét xử công khai,
xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 103 Hiến pháp Nước CHXHCN iệt
Nam năm 2013)… Trên cơ sở những quy định này của Hiến pháp, các văn bản

pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể trình tự, thủ tục tố tụng dân sự.
Bộ Luật tố tụng dân sự là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của luật tố tụng
dân sự. Trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự thì BLTTDS là văn bản pháp
luật tố tụng dân sự có hiệu lực cao nhất, có phạm vi điều chỉnh rộng nhất, quy định
trực tiếp và có hệ thống về tất cả các vấn đề của tố tụng dân sự [45, tr.18].
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật khác như BLDS, BLLĐ, LHN&GĐ,
LTM, LTTTM,… tuy không phải là các văn bản tố tụng dân sự nhưng vẫn có
những quy định về tố tụng dân sự. Ngoài ra, Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS; Nghị quyết số 02/2016/NQHĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của
Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật TTHC… cũng là một trong các
nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam.
1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của luật tố tụng dân sự iệt Nam
* Giai đo n trước năm 1945
Trước thời Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển
nên pháp luật cũng chưa phát triển. Trong các văn bản pháp luật được ban hành
chưa có sự phân biệt rõ ràng các lĩnh vực về hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng.

18


Qua các văn bản pháp luật còn lưu giữ đến ngày nay cho thấy các quy định về tố
tụng dân sự của nhà nước phong kiến chịu ảnh hưởng rất lớn của quan điểm nho
giáo, ghi nhận cả những hủ tục, tập quán lạc hậu [45, tr.19].
Những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành
được hàng loạt các văn bản pháp luật có quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc
dân sự như Bộ Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thương sự tố
tụng Bắc kỳ năm 1921, Bộ Trung kỳ pháp viện biên chế năm 1935, Bộ luật dân sự,
thương sự tố tụng Trung kỳ năm 1935,… Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đã

quy định tương đối đầy đủ, cụ thể được các vấn đề về tố tụng dân sự, có tính đến
điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy vậy, chúng vẫn còn mang tư tưởng
phong kiến lạc hậu và nhiều dấu ấn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 1806 của Pháp
[45, tr.20].
* Giai đo n từ năm 1945 đến năm 1989
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang sử mới trong
lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ ngày đầu
được thành lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới. Trong đó, có
nhiều văn bản có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự như Sắc lệnh số 34 ngày
13/4/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp; Sắc lệnh số 46 ngày
10/10/1945 quy định tổ chức các đoàn thể luật sư; Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945
cho giữ tạm các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành
những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc, nếu những quy định trong luật lệ cũ
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng
hòa; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các tòa án; Sắc lệnh số
144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng quyền bào chữa cho các đương sự; Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng,… Tuy những vấn
đề về tố tụng dân sự còn được các văn bản đó quy định tản mạn nhưng đây là những
quy định mang tính nguyên tắc đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật
tố tụng XHCN ở Việt Nam [45, tr.20].
Sau khi Hiến pháp năm 1959 ra đời, Luật tổ chức tòa án nhân dân 1960; Luật
tổ chức viện kiểm sát nhân dân 1960 được ban hành; nhiều thông tư hướng dẫn về

19


công tác xét xử dân sự cũng được ban hành như Thông tư số 614/DS1 ngày
24/4/1963 hướng dẫn một số thủ tục tố tụng cho tòa án địa phương; Thông tư số
594/NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa
kế; Thông tư số 06/TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn về công tác điều tra trong tố

tụng dân sự; Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 hướng dẫn về công tác hòa
giải trong tố tụng dân sự, Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự ban
hành kèm theo Thông tư số 96/NCPL ngày 08/02/1977 của Tòa án nhân dân tối
cao,… Đến năm 1980, sau khi Hiến pháp được ban hành, nhằm cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật quy định về tố tụng dân sự cũng được
ban hành như Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981; Luật tổ chức viện kiểm sát
nhân dân năm 1981,… Nhìn chung, các văn bản pháp luật được Nhà nước ban hành
trong thời gian từ 1954 đến 1989 đã quy định được tương đối đầy đủ, hợp lý các
vấn đề về tố tụng dân sự. Tuy vậy, các vấn đề về tố tụng dân sự vẫn còn được quy
định tản mạn, chủ yếu được quy định trong các thông tư do Tòa án nhân dân tối cao
ban hành nên hiệu lực chưa cao [45, tr. 23].
* Giai đo n từ năm 1990 đến năm 2004
Năm 1989, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự đã tạo bước phát triển mới của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam. Đây là các văn bản pháp luật tố tụng dân sự đầu tiên được Nhà
nước ta ban hành quy định các vấn đề về tố tụng dân sự có hiệu lực cao. Tiếp theo
đó, nhiều văn bản pháp luật khác cũng được ban hành như Luật tổ chức tòa án nhân
dân năm 1992, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996,… Để thể chế hóa đường
lối cải cách tư pháp của Đảng, năm 2002 sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Nhà
nước ta đã ban hành Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh thi hành án
dân sự năm 2004. Như vậy, trong giai đoạn này nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực
cao quy định về các vấn đề về tố tụng dân sự đã được ban hành. Tuy vậy, các quy
định này vẫn còn khá tản mạn như các giai đoạn trước. Đặc biệt, với sự ra đời của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải

20



quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đã dẫn đến các quy định về tố tụng dân sự
bị xé lẻ, thiếu tập trung, chồng chéo, mâu thuẫn [45, tr.23].
* Giai đo n từ năm 2005 trở đi
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế - xã hội Việt Nam trong
những năm đầu của thế kỷ XXI đã không ngừng phát triển. Tuy vậy, sự phát triển
kinh tế - xã hội cũng đặt ra những yêu cầu mới về giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong đời sống xã hội. Để góp phần thực hiện thắng lợi đường lối phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các tranh
chấp, ngày 15/6/2004, Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XI đã thông qua Bộ Luật
tố tụng dân sự đầu tiên của nước CHXHCNVN tại kỳ họp thứ 5. Bộ luật này có
hiệu lực từ ngày 01/01/2005.
Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 gồm 418 điều được cơ cấu thành 9 phần,
36 chương. Nội dung của nó đã quy định được khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân
sự như các nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền dân sự của tòa án; cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; chứng minh và chứng cứ
trong tố tụng dân sự; biện pháp khẩn cấp tạm thời; cấp, tống đạt và thông báo các
văn bản tố tụng; án phí, lệ phí và chi phí tố tụng; thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi
kiện và thời hiệu yêu cầu; thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự; thủ tục thi hành án,
quyết định của tòa án; xử lý các hành vi cản trở tố tụng; khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng dân sự; tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự,… [45, tr.24]. Việc ban hành Bộ
Luật tố tụng dân sự năm 2004 đã đánh dấu bước phát triển của hệ thống pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, khắc phục được tình trạng tản mạn, mâu thuẫn, khiếm
khuyết của các quy định tố tụng dân sự trước đây, đồng thời cũng thể chế hóa được
quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp. Từ đó, tạo
điều kiện thuận lợi cần thiết cho tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ
việc dân sự; bảo đảm cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước tòa. Theo các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự, quy
trình tố tụng dân sự tại tòa án có sự thay đổi căn bản theo hướng dân chủ, công khai,
minh bạch. Trong đó, đương sự được có vai trò quyết định và chủ động trong việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước tòa án.


21


×