Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai,–từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
------/------

BỘ NỘI VỤ
---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN MẠNH HÙNG

PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
------/------

BỘ NỘI VỤ
----/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN MẠNH HÙNG

PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính


Mã số

: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
văn là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Mạnh Hùng


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1:


1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ ĐẤT ĐAI

7

1.1.

Giải quyết khiếu nại về đất đai

7

1.2.

Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

12

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỪ TỈNH
VĨNH PHÚC

2.1.

Pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại đất đai

2.2.


Thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh
Vĩnh Phúc

33
33

51

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI

70

3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

70

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

74

KẾT LUẬN

85


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GQKN

: Giải quyết khiếu nại

HĐND

: Hội đồng nhân dân

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

SDĐ

: Sử dụng đất

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Tên biểu đồ

Số hiệu

Trang

biểu đồ
2.1

Tỉ lệ khiếu nại ở Vĩnh Phúc

2.2

Tình hình tiếp nhận đơn, giải quyết khiếu nại ở tỉnh
Vĩnh Phúc

55

64


1

MỞ ĐẦU
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi
nhận tại Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN)

Việt Nam năm 2013. Đây là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội như là
một phản ứng của con người trước một quyết định, một hành vi nào đó mà
người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là không phù hợp với các
quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Việc thực hiện quyền khiếu nại là một hình thức dân
chủ trực tiếp để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã
hội giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Giải
quyết khiếu nại (GQKN) là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước,
giải quyết tốt khiếu nại của công dân nhằm phát huy dân chủ xã hội; góp phần
đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan nhà nước,
góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong quá trình xây dựng phát triển và bảo vệ đất nước, Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác GQKN của công dân qua đó đã ban
hành nhiều văn bản, pháp luật quy định về vấn đề này. Chính sách, pháp luật
về GQKN ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức, cá
nhân thực hiện quyền khiếu nại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Trong những năm gần đây, tình hình khiếu nại có chiều hướng gia
tăng, trong đó khiếu nại về đất đai luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số đơn thư
khiếu nại đây là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội, đặc biệt khi
nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai là tài sản quý giá, vừa
là tư liệu sản xuất vừa là điều kiện cần thiết trong đời sống xã hội ở nước ta,
Theo Hiến pháp năm 2013, "người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng
đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng
đất được pháp luật bảo hộ". Người sử dụng đất (SDĐ) có các quyền chung


2

như: được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), quyền sở hữu

nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu
tư trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo
vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc
cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình; được bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất; có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi
phạm QSDĐ hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về
đất đai. Chính vì vậy lĩnh vực đất đai luôn là một lĩnh vực quan trọng phát
sinh nhiều mâu thuẫn tranh chấp, khiếu nại, đặc biệt là các vụ việc liên quan
đến vấn đề thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng. Việc giải quyết các
khiếu nại trong lĩnh vực này là hết sức khó khăn, phức tạp; không ít các vụ
việc trở thành điểm nóng, dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp,
gây mất ổn định chính trị, tình hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp của
khiếu nại về đất đai không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi ích
kinh tế, từ hệ quả của sự quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự
bất hợp lý và thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách mà còn do những hạn chế
của hệ thống pháp luật GQKN về đất đai.
Từ thực tiễn trên cần thiết phải có những nghiên cứu về thực trạng
pháp luật GQKN để minh chứng làm căn cứ hoàn thiện hệ thống pháp luật về
GQKN đất đai trên cơ sở đáp ứng yêu cầu nhà nước pháp quyền XHCN, bảo
đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tạo điều kiện cho các cơ
quan có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết ngày càng tốt
hơn các vụ khiếu nại về đất đai hiện nay trên địa bàn quản lý.
Vĩnh Phúc là một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ
của Thủ đô, gần sân bay quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây
Bắc với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, do vậy có vai trò rất quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc gia. Là địa phương
đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, Vĩnh Phúc cũng có nhu cầu lớn về



3

SDĐ làm cho giá trị QSDĐ trên địa bàn cũng tăng lên nhanh chóng. Điều này
đã dẫn đến một thực tế là khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc cũng đang diễn ra
hết sức phức tạp, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ trên cơ sở pháp
luật GQKN về đất đai để tháo gỡ những vướng mắc cho người dân góp phần
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người SDĐ.
Xuất phát từ bối cảnh đó tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Pháp
luật giải quyết khiếu nại về đất đai - từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc" làm đề tài
Luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, nhằm tìm
kiếm những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật GQKN
về đất đai ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật GQKN nói chung và pháp luật GQKN về đất đai nói riêng
là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Hiện nay đã có một số
lượng lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về GQKN và pháp luật GQKN,
GQKN về đất đai, trong đó có một số công trình tiêu biểu sau:
- Phạm Văn Long (2005), "Việc thực hiện thẩm quyền giải quyết của
thủ trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà
nước trong giải quyết khiếu nại hành chính", Đề tài khoa học cấp Bộ;
- Ngô Mạnh Toan (2005), "Xây dựng quy trình giải quyết khiếu nại
hành chính", Đề tài khoa học cấp cơ sở;
- Nguyễn Tuấn Khanh (2008), "Việc áp dụng pháp luật để giải quyết
khiếu nại về đất đai", Tạp chí Thanh tra, số 5/2008;
- Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), "Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa", Luận
văn Thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia;
- Phạm Anh Tuấn (2011), "Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở
Việt Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;



4

- Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2012), Khiếu nại
hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam hiện nay;
- Đỗ Văn Tuấn (2013), "Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của
cơ quan hành chính nhà nước, thực tiễn tại Tỉnh Hưng Yên", Luận văn Thạc
sĩ Hành chính công, Học viện Hành chính.
- Trần Ngân Hà (2013), "Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở
Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Doãn Hồng Nhung (2014), "Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Phi (2015), "Giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa
bàn huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính Quốc gia;...
Nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên mới dừng lại ở mức
độ chung nhất về GQKN hành chính và hoạt động GQKN về đất đai trên một
số địa bàn. Tuy nhiên chưa nhiều công trình nghiên cứu cụ thể về pháp luật
GQKN về đất đai trực tiếp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
về pháp luật GQKN về đất đai, đánh giá đúng thực trạng pháp luật GQKN về
đất đai và thực tiễn thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, tìm ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phù
hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của

pháp luật GQKN về đất đai như: Khái niệm, đặc điểm của GQKN về đất đai;
khái niệm, đặc điểm pháp luật GQKN về đất đai, nội dung, vai trò của pháp
luật GQKN về đất đai.


5

Hai là, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật GQKN về đất đai và
thực trạng việc thực hiện pháp luật GQKN về đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc, qua đó thấy được những ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên nhân dẫn
tới những hạn chế đó.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật thực định về
GQKN đất đai và việc thực tiễn thực hiện các quy định đó trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng pháp luật GQKN về đất đai
trước và sau khi Luật GQKN năm 2011 có hiệu lực, tập trung chủ yếu vào
giai đoạn từ 2011 đến nay.
- Về không gian: Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật GQKN
về đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại của công dân và GQKN của
công dân; chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
GQKN đất đai, về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu

vấn đề hoàn thiện pháp luật GQKN về đất ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, lôgic,


6

kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, chú trọng việc thu thập các
số liệu từ các báo cáo thực tế về GQKN đất đai ở trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về
pháp luật GQKN về đất đai từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc nên có những đóng
góp mới như sau:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về pháp luật
GQKN về đất đai.
- Làm rõ thực trạng pháp luật GQKN về đất đai từ thực tiễn tỉnh Vĩnh
Phúc qua việc phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân. Từ đó, làm tiền đề đưa ra quan điểm và giải pháp có tính khả thi
nhằm hoàn thiện pháp luật GQKN về đất đai, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung, hoàn thiện pháp luật về GQKN nói riêng, đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hệ thống, xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật GQKN đất đai.
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu lập pháp
và các nhà thực tiễn áp dụng pháp luật về GQKN đất đai trong việc thực hiện
thẩm quyền quản lý và SDĐ có hiệu quả; ngăn ngừa, hạn chế nguyên nhân
gây nên khiếu nại về đất đai cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
GQKN về đất đai.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai và
thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết
khiếu nại về đất đai.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI

1.1.1. Khiếu nại đất đai
Khiếu nại là một hiện tượng được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã
hội. Khiếu nại được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, khiếu nại là hiện tượng phát sinh trong đời sống
xã hội đó là sự phản ứng có tính tự nhiên của một người đối với hành vi của
người khác khi họ cho rằng hành vi đó không phù hợp với quy tắc chuẩn mực
trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình. Về góc
độ này khiếu nại phản ánh hiện tượng vi phạm những quy tắc của xã hội, của
cộng đồng và xã hội cần phải có phương thức giải quyết.
Về góc độ chính trị - pháp lý, khiếu nại là quyền tự do, quyền dân chủ
quan trọng của công dân được pháp luật quy định và được bảo đảm thực hiện
bằng bộ máy nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là "quyền để bảo vệ
quyền", là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi bị hành vi của người khác xâm phạm, nghĩa là khiếu nại được sử

dụng khi quyền chủ thể của bản thân công dân khiếu nại hoặc người do mình
bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước hoặc nhân viên nhà nước. Ở
đây khiếu nại được coi là phương tiện để công dân tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, phản ánh giá trị của nền dân chủ của một quốc gia.
Dưới góc độ khoa học luật học, khiếu nại được đặt trong mối quan hệ
giữa một bên là Nhà nước và một bên là công dân. Vì vậy, khiếu nại được hiểu
là việc công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính hành vi hành chính


8

hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Theo Luật Khiếu nại năm 2011, khiếu nại lại được định nghĩa là việc
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, khiếu nại được coi là quyền cơ bản của công dân, là một
trong các hình thức để công dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình,
thông qua việc khiếu nại mà công dân phản ánh ý chí, nguyện vọng của mình
tới các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và đấu
tranh chống các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật, góp phần
dân chủ, lành mạnh hóa các hoạt động của cơ quan thực thi quyền lực công.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân. ở

nước ta, mặc dù trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau từ việc công nhận
các hình thức sở hữu đối với đất đai cho đến việc lựa chọn hình thức sở hữu
toàn dân đối với đất đai hiện nay. Tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 quy
định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất
theo quy định của Luật đất đai" [39]. Người SDĐ, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đến SDĐ có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai. Có thể thấy khiếu nại về đất
đai là một dạng khiếu nại hành chính, chỉ việc khiếu nại của các chủ thể là
người nhằm hướng tới lợi ích của họ trong lĩnh vực đất đai. Chủ thể khiếu nại
đất đai rất đa dạng, là người SDĐ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công


9

nhận QSDĐ, nhận chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai. Các
chủ thể có quyền khiếu nại đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai khi có căn cứ cho
rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó xâm phạm trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khiếu nại về đất đai là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
theo thủ tục do Luật Khiếu nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan
đến lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khiếu nại về đất đai có các đặc điểm sau:
- Đối tượng khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính đều liên quan tới quản lý đất đai của nhà nước mang tính đặc thù, bao
gồm: Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép

chuyển mục đích SDĐ; quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng,
tái định cư; quyết định về cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ; quyết
định gia hạn thời hạn SDĐ;
- Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của
cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc hành chính trong quản lý
đất đai;
- Việc GQKN, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của nhiều
cơ quan khác nhau: Cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng
quản lý đất đai, cơ quan tài chính quản lý chính sách tài chính về đất đai, cơ quan
xây dựng quản lý về nhà ở; thanh tra và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp…
- Phương thức giải quyết được thực hiện dưới nhiều phương diện khác
nhau thông qua mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội.


10

1.1.2. Giải quyết khiếu nại về đất đai
Giải quyết khiếu nại được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bằng các hoạt động thẩm tra, xác minh, kết luận và ra quyết định
GQKN của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xem xét lại các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan có thẩm quyền ban hành khi
có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm
tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Tại Điều 2, Khoản 11 Luật Khiếu nại năm 2011 thì giải quyết khiếu
nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Ở
đây có thể thấy GQKN bao gồm các công việc: Xác minh để làm rõ các tình
tiết sự việc; kết luận về nội dung khiếu nại, trong đó xác định rõ khiếu nại của
cơ quan, tổ chức, cá nhân là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ; căn cứ
vào quy định của pháp luật xử lý từng vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại

từ đó quyết định giữ nguyên, sửa đổi hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết
định hành chính bị khiếu nại, chấm dứt quyết định hành chính, bị khiếu nại;
quyết định việc bồi thường thiệt hại cho người khiếu nại (nếu có) hoặc giải
quyết các vấn đề cụ thể khác trong nội dung khiếu nại. Yêu cầu của việc
GQKN là phải tuân theo đúng quy định của pháp luật; tức là phải đúng thẩm
quyền, trình tự thủ tục giải quyết; trong đó việc xác định đúng cơ quan có
thẩm quyền là vấn đề rất quan trọng. Tại Khoản 2 Điều 204 Luật Đất đai năm
2013 quy định về trình tự, thủ tục GQKN quyết định hành chính, hành vi
hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Các "quyết định hành chính về đất đai", "hành vi hành chính về đất đai"
nêu trên của cơ quan hành chính nhà nước vừa là đối tượng vừa là khách thể
của quản lý hành chính nhà nước. Khi ban hành các quyết định cũng như hành
vi hành chính của người có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền không phù
hợp với các quy định của pháp luật về đất đai, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân thì việc công dân có thể phản ứng lại những quyết


11

định này nhằm yêu cầu người ra quyết định hoặc có hành vi không đúng xem
xét và sửa đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, GQKN từ phương diện pháp lý nêu
trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trong việc tiến hành
thẩm tra, xác minh (thông qua các hoạt động tác nghiệp) để xác định rõ bản
chất sự việc, nội dung khiếu nại kết luận về tính đúng sai của sự việc, yêu cầu
của người khiếu nại, từ đó đề xuất với thủ trưởng hướng GQKN.
Việc GQKN về đất đai hình thành trên cơ sở phát sinh từ việc yêu cầu
thực hiện quyền khiếu nại của công dân. Công dân có quyền yêu cầu từ phía
nhà nước cụ thể từ các cơ quan, người có thẩm quyền GQKN về đất đai giải
quyết theo trình tự việc khiếu nại. Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền
GQKN về đất đai căn cứ vào nội dung, tính chất vụ việc khiếu nại.

Theo đó khái niệm GQKN về đất đai được hiểu là việc thụ lý, xác
minh, kết luận và ra quyết định GQKN đối với các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong quản lý và sử dụng đất của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, người có thẩm quyền.
Bản chất việc GQKN về đất đai là một hoạt động quản lý nhà nước trong
lĩnh vực đất đai. Do đó đòi hỏi hoạt động này phải tuân thủ theo những nguyên tắc
và trình tự thủ tục nhất định nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt
động quản lý nhà nước về đất đai. GQKN về đất đai là một hình thức GQKN
nói chung vì vậy, GQKN về đất đai mang các đặc điểm của GQKN đó là:
Thứ nhất, GQKN về đất đai là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước. Tính quyền lực nhà nước thể hiện qua hoạt động xem xét, đánh giá, giải
quyết theo trình tự thủ tục của người có thẩm quyền như thủ trưởng các cơ
quan quản lý nhà nước (Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước về đất đai như cơ quan tài nguyên môi trường các cấp, cơ quan
thanh tra nhà nước…) về tính đúng sai, tính hợp pháp, hợp lý của quyết định
hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Mặt khác, kết quả GQKN về đất
đai là quyết định bằng văn bản, khi quyết định có hiệu lực buộc các chủ thể có


12

liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, trong một số trường hợp được Nhà
nước bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế.
Thứ hai, GQKN về đất đai phải tuân theo những hình thức, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự thủ tục phải công khai, dân chủ, bảo
đảm đúng thẩm quyền. Khiếu nại cấp dưới do cơ quan cấp trên giải quyết và
đến một cấp nhất định thì chấm dứt việc giải quyết, nếu người khiếu nại
không đồng ý thì vụ việc được đưa ra tòa án để giải quyết. GQKN về đất đai
bao gồm GQKN lần đầu và GQKN lần hai. Đây là điểm khác biệt so với giải
quyết tố cáo. Giải quyết tố cáo được phân theo luồng, đồng thời không có

điểm dừng, trường hợp giải quyết không đúng, người dân tố cáo tiếp thì cơ
quan nhà nước phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết tiếp.
Thứ ba, GQKN về đất đai mang tính cá biệt, cụ thể. Việc GQKN về
đất đai được thực hiện đối với từng trường hợp cụ thể. Quyết định về kết quả
GQKN được áp dụng cho từng đối tượng được xác định trong văn bản và có
hiệu lực ngay sau đó. Việc thực hiện và áp dụng nó không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể khác.
Thứ tư, GQKN về đất đai phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định
bao gồm nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc công khai
minh bạch, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kịp thời, nguyên tắc đối thoại. Các
nguyên tắc cơ bản là những định hướng, những tư tưởng xuyên suốt trong quá
trình GQKN về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những tư tưởng
đó phải trên cơ sở định hướng của Đảng, của Nhà nước về bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, về tính công bằng của pháp luật, về tính công khai minh
bạch trong hoạt động quản lý nhà nước, về tính dân chủ nhân dân.
1.2. PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
Khi các chủ thể thực hiện quyền khiếu nại thì giữa họ với cơ quan nhà
nước sẽ phát sinh những quan hệ pháp luật khiếu nại. Khi có khiếu nại phát


13

sinh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm xem xét giải quyết
để thực hiện đúng chức năng và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Trong quá trình GQKN, cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền không chỉ xem xét tính hợp lý của các quyết định, hành vi hành
chính đó. Từ đó đưa ra các giải pháp để khắc phục, xử lý phù hợp để có thể
chấn chỉnh những sai phạm xảy ra, cũng như dự báo được các tình huống có

thể xảy đến trong tương lai.
Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ về
GQKN. Có thể hiểu pháp luật là công cụ hữu hiệu trong hoạt động quản lý
nhà nước. Vai trò điều chỉnh đó chủ yếu được thể hiện thông qua việc Nhà
nước ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể nhằm điều chỉnh từng nhóm
các quan hệ xã hội.
Nhóm quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về
đất đai tạo thành nhóm quan hệ pháp luật về đất đai bao gồm nhiều quy định
pháp luật như nội dung khiếu nại đất đai, trình tự thủ tục GQKN đất đai…
Quan hệ pháp luật về đất đai được hình thành trên các yếu tố cấu thành gồm
chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai, khách thể quan hệ pháp luật đất đai và
nội dung quan hệ pháp luật đất đai. Trong đó chủ thể của quan hệ pháp luật
đất đai là các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai thông qua việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ.
Pháp luật quy định về chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai gồm có
Nhà nước và người SDĐ. Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai
với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý
nhà nước về đất đai. Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai thông
qua hoạt động thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định như
ban hành các quyết định hành chính về đất đai, hành vi hành chính về đất đai
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mối quan hệ này rất dễ xảy ra tranh
chấp bởi một bên mang tính quyền lực nhà nước trong việc thực hiện nhiệm


14

vụ quản lý của mình. Chủ thể SDĐ là người đang thực tế chiếm hữu đất đai
do Nhà nước giao, cho thuê, cho phép nhận QSDĐ hoặc được Nhà nước công
nhận QSDĐ. Các chủ thể SDĐ này gồm các tổ chức trong nước; cá nhân, hộ
gia đình trong nước; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo; tổ chức nước ngoài có

chức năng ngoại giao; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá
nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, các chủ thể này có thể không đồng ý
với những nội dung quyết định hành chính về đất đai hoặc hành vi hành chính
về đất đai của người có thẩm quyền, từ đó phát sinh hoạt động khiếu nại về
đất đai và hoạt động GQKN về đất đai.
Về nội dung của quan hệ pháp luật đất đai là tổng thể quyền hạn và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai. Các quyền hạn,
nghĩa vụ này được pháp luật quy định và bảo vệ trong đó có quyền và nghĩa
vụ về khiếu nại của các chủ thể, quyền được yêu cầu GQKN và nghĩa vụ
GQKN của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.Khách thể của quan hệ pháp luật
đất đai là đối tượng mà các chủ thể nhằm hướng tới, đạt được khi tham gia
vào quan hệ pháp luật đất đai.
Có thể thấy khiếu nại về đất đai là một dạng khiếu nại hành chính, chỉ
việc khiếu nại của các chủ thể là người nhằm hướng tới lợi ích của họ cho
rằng bị vi phạm trong lĩnh vực đất đai và yêu cầu cần có sự giải quyết từ cơ
quan có thẩm quyền. Khi có khiếu nại về đất đai phát sinh trong quá trình cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành, quản lý
hành chính nhà nước về đất đai, khi đó cơ quan hành chính nhà nước phải có
trách nhiệm giải quyết những vấn đề phát sinh do chính hoạt động quản lý của
mình gây ra. Khi phát hiện khiếu nại về đất đai cơ quan hành chính nhà nước
có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá, kết luận, phán quyết về phương diện pháp lý
của các quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai bị khiếu nại.
Đáng chú ý là trong quá trình GQKN cơ quan hành chính nhà nước phải căn
cứ vào pháp luật để xem xét tính hợp lý, cân nhắc tình hình thực tiễn nơi xảy
ra vụ việc và yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về đất đai để giải quyết.


15

Như vậy, việc GQKN đất đai được hình thành trên cơ sở các quy định

pháp luật về GQKN hành chính nói chung và pháp luật về GQKN về đất đai
nói riêng bao gồm: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh về nguyên tắc giải
quyết, chủ thể có thẩm quyền giải quyết, trình tự thủ tục giải quyết, nội dung
của việc giải quyết, mối quan hệ phối hợp trong việc giải quyết... Các quy
phạm này đều mang tính bắt buộc chung, là khuôn mẫu cho mọi chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật khiếu nại về đất đai. Các quy phạm này được ghi
nhận trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau như: Luật Đất
đai, Luật Khiếu nại,... và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Từ những phân tích trên ta thấy pháp luật GQKN về đất đai được cấu
thành bởi rất nhiều nhóm quy phạm tuy nhiên có thể khái quát thành hai
nhóm chính:
Một là, nhóm quy phạm điều chỉnh về quyền chủ thể có thẩm quyền
trong việc GQKN về đất đai. Cụ thể về thẩm quyền GQKN đất đai của các cơ
quan quản lý hành chính.
Hai là, nhóm quy phạm điều chỉnh về nội dung, trình tự, thủ tục
GQKN về đất đai. Ví dụ như hiệu lực GQKN, trình tự khiếu nại.
Tóm lại có thể đưa ra quan niệm: Pháp luật GQKN về đất đai là bộ
phận của pháp luật về GQKN hành chính bao gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình GQKN về
đất đai của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền với chủ thể khiếu nại,
như bao gồm các nhóm quy định về thẩm quyền GQKN về đất đai; quy định
về nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục GQKN về đất đai.
Xuất phát từ quan niệm như trên có thể nhận thấy pháp luật GQKN về
đất đai có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật GQKN về đất đai là bộ phận hợp thành của pháp
luật GQKN hành chính.
Pháp luật GQKN về đất đai vừa thỏa mãn một số đặc điểm của pháp
luật GQKN hành chính nói chung, vừa mang nét đặc thù của pháp luật GQKN



16

về đất đai thể hiện trong các quy định về nguyên tắc GQKN như nguyên tắc
pháp chế trong việc tuân thủ hình thức và trình tự thủ tục GQKN về đất đai
hay nguyên tắc khách quan xuất phát từ sự vận động khách quan của đời sống
xã hội, từ quyền con người được thừa nhận và bảo đảm. Nguyên tắc đối thoại,
nguyên tắc công khai minh bạch, nguyên tắc kịp thời... xuất phát từ quyền tự
nhiên, quyền dân chủ và nguyên tắc này hình thành nhằm nâng cao chất lượng
GQKN... và còn thể hiện trong các quy định về thẩm quyền giải quyết và trình
tự thủ tục tiến hành việc GQKN về đất đai.
Thứ hai, pháp luật GQKN về đất đai vừa mang tính quy phạm hành
chính, quy phạm thủ tục và quy phạm chuyên môn.
Tính quy phạm hành chính được thể hiện chủ yếu trong các quy định
về thẩm quyền giải quyết mang tính thứ bậc, về mối quan hệ quản lý, mối
quan hệ phối hợp trong việc giải quyết giữa cơ quan có thẩm quyền với các cơ
quan khác có liên quan.
Tính quy phạm thủ tục thể hiện trong các quy định về hình thức, trình
tự, thủ tục giải quyết như thời hạn,thời hiệu, khiếu nại lần một và khiếu nại
lần hai.
Tính quy phạm chuyên môn thể hiện qua tính chất chuyên sâu của nội
dung quản lý nhà nước về đất đai như: Ban hành văn bản quản lý, SDĐ và tổ
chức thực hiện văn bản đó; xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ
địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa
chính, bản đồ hiện trạng SDĐ và bản đồ quy hoạch SDĐ; điều tra, đánh giá
tài nguyên đất; điều tra xây dựng giá đất; quản lý quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích SDĐ; quản
lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất; đăng ký đất đai, lập và
quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất; thống kê, kiểm kê đất đai; xây dựng hệ thống thông
tin đất đai; quản lý tài chính về đất đai và giá đất; quản lý, giám sát việc thực



17

hiện quyền và nghĩa vụ của người SDĐ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi,
đánh giá việc chấp hành quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp
luật về đất đai; phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai; giải quyết tranh chấp về
đất đai; GQKN trong quản lý và SDĐ; quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
Thứ ba, nguồn pháp luật GQKN về đất đai được ghi nhận trong nhiều
văn bản có hiệu lực khác nhau
Hoạt động GQKN về đất đai là hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền. Khi có khiếu nại phát sinh trong quá trình cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành, quản lý hành chính
nhà nước, thực hiện quyền hành pháp thì cơ quan hành chính nhà nước phải có
trách nhiệm giải quyết những vấn đề phát sinh do chính hoạt động quản lý của
mình gây ra. Khi quyền khiếu nại hành chính của công dân được hình thành, khi
đó cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá, kết luận, phán
quyết về phương diện pháp lý của các quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khiếu nại. Đáng chú ý là trong quá trình GQKN hành chính cơ quan hành chính
nhà nước phải căn cứ vào pháp luật, xem xét tính hợp lý, cân nhắc tình hình thực
tiễn nơi xảy ra vụ việc và yêu cầu của công tác quản lý nhà nước để giải quyết.
Chính vì vậy hoạt động GQKN về đất đai được quy định trực tiếp
trong rất nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý cao như Hiến pháp, các đạo luật:
Luật đất đai năm 2013, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tổ chức và hoạt động
chính quyền địa phương năm năm 2015, Luật cán bộ công chức năm 2010...
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ tư, đối tượng điều chỉnh của pháp luật GQKN về đất đai là các
quan hệ giữa một bên là người khiếu nại với một bên là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền GQKN trên cơ sở khiếu nại về quyết định hành chính và
hành vi hành chính về đất đai.

Khiếu nại về đất đai là một dạng khiếu nại hành chính, đây là quyền
cơ bản của công dân, nó là nhu cầu tất yếu của thực tiễn đời sống, trong quản


18

lý hành chính nhà nước về đất đai; công dân có thể tự định đoạt quyền khiếu
nại của mình đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nhằm yêu cầu họ
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình về đất đai; đến lượt các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định. Thực hiện việc GQKN về đất đai trên cơ sở đối tượng của
khiếu nại là các quyết định hành chính về đất đai bao gồm các quyết định giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích
SDĐ; quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp
hoặc thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ; quyết định gia hạn thời hạn SDĐ… Và
hành vi hành chính về quản lý đất đai là hành vi của cán bộ, công chức Nhà
nước khi giải quyết công việc thuộc phạm vi trách nhiệm trong việc ban hành,
thực hiện quyết định hành chính.
1.2.2. Nội dung pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai
1.2.2.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai
Thẩm quyền GQKN là nội dung quan trọng của pháp luật khiếu nại vì
nó xác định ai là người có thẩm quyền GQKN và giải quyết đối với những
loại khiếu nại nào. Việc quy định thẩm quyền GQKN một cách rành mạch và
khoa học sẽ giúp tránh việc đùn đẩy, thiếu trách nhiệm trong GQKN, đồng
thời tránh được sự chồng chéo, tạo thuận lợi cho cả người dân và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền qua đó nâng cao hiệu quả công tác GQKN hành chính.
Nghiên cứu quy định pháp luật về khiếu nại từ trước tới nay cho thấy thẩm
quyền GQKN hành chính được quy định khác nhau qua các giai đoạn, thậm
chí trong một số thời điểm, người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước cũng
có thẩm quyền GQKN.

Việc xác định thẩm quyền GQKN trước hết phải bảo đảm các yêu
cầu của việc khiếu nại và GQKN hành chính, đồng thời phải phù hợp với
nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước ta, phù hợp với quy định về phân cấp
trong quản lý nhà nước và đặc biệt là phải bảo đảm tính khả thi, hiệu lực,


19

hiệu quả của việc GQKN. Việc xác định thẩm quyền trong Luật khiếu nại
cũng phải xác định được trách nhiệm của nền hành chính trong việc xử lý
vướng mắc phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tức là
việc GQKN đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trước hết
phải do người có quyết định, hành vi đó xem xét, xử lý (trong trường hợp
người khiếu nại lựa chọn con đường giải quyết tại các cơ quan hành chính
nhà nước), đồng thời đảm bảo quyền tự do, dân chủ trong việc thực hiện
quyền khiếu nại của công dân.
Luật khiếu nại không quy định trực tiếp về nguyên tắc xác định thẩm
quyền GQKN, tuy nhiên căn cứ vào các quy định về thẩm quyền giải quyết,
có thể khái quát nguyên tắc xác định thẩm quyền như sau:
- Người có thẩm quyền GQKN lần đầu là người đã ra quyết định hành
chính bị khiếu nại hoặc người đứng đầu cơ quan có hành vi hành chính bị
khiếu nại.
- Người có thẩm quyền GQKN lần hai là Thủ trưởng cấp trên trực tiếp
của người có thẩm quyền GQKN lần đầu.
Thẩm quyền GQKN của các cơ quan hành chính nhà nước
Thẩm quyền GQKN được quy định từ Điều 17 đến Điều 26 Luật
khiếu nại năm 2011, cụ thể như sau:
- Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng cơ quan thuộc
UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền GQKN lần
đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người

có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.
- Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền GQKN lần đầu đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình; GQKN lần hai đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp xã, Thủ
trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn
khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.


×