Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về vai trò của phụ nữ ở tỉnh Bến Tre giai đoạn hiện nay (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.38 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRẦN PHƢƠNG HIỀN

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ Ở TỈNH BẾN TRE
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRẦN PHƢƠNG HIỀN

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ Ở TỈNH BẾN TRE
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN LINH KHIẾU

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Linh Khiếu.
Nội dung luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước,
các số liệu đã trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ
rõ ràng.
Công trình nghiên cứu này chưa từng công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày 7 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Trần Phƣơng Hiền


MỤC LỤC
Mở đầu ............................................................................................................ 1
Chƣơng 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI
TRÒ CỦA PHỤ NỮ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
BẾN TRE ....................................................................................................... 10
1.1. Phụ nữ và vai trò của phụ nữ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin 10
1.2. Đặc điểm, vai trò của phụ nữ tỉnh Bến Tre .............................................. 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
PHỤ NỮ TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................................ 39
2.1. Một số nhân tố tác động đến việc phát huy vai trò của phụ nữ tỉnh Bến
Tre giai đoạn hiện nay ..................................................................................... 39
2.2. Thực trạng, quan điểm và một số vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai
trò phụ nữ tỉnh Bến Tre giai đoạn hiện nay .................................................... 44

2.3. Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò phụ nữ tỉnh Bến Tre giai
đoạn hiện nay………………………………………………………………...56
2.4. Một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò phụ nữ tỉnh Bến Tre giai đoạn
hiện nay ........................................................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW

: Ban chấp hành Trung ương

CTQG

: Chính trị quốc gia

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CLB

: Câu lạc bộ

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội


ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long

HTX

: Hợp tác xã

HLHPNVN

: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

UBND

: Uỷ ban nhân dân

VIFOTEC

: Hỗ trợ Sáng tạo Kỹ thuật Việt Nam

MCNV

: Ủy ban Y tế Hà Lan - Việt Nam



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ giữ vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh vai trò quan trọng của phụ nữ trong quá
trình sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và tái sản xuất bản thân con người.
Các quan điểm trước Mác về vai trò của người phụ nữ cả ở phương Đông lẫn
phương Tây chưa thể hiện được sự thống nhất giữa tính khoa học, tính cách
mạng và tính nhân văn. Từ giữa thế kỷ thứ XIX Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời
đã góp phần quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng
nam nữ như là một trong những nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Khi nhắc đến người phụ nữ truyền thống Việt Nam, chúng ta thường
nhìn nhận vị trí, vai trò của họ từ những khía cạnh bó hẹp trong phạm vi khuôn
khổ gia đình. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, vị trí, vai trò của người phụ
nữ Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới. Vận dụng và phát triển sáng
tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin, về lý luận và phương pháp cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, đề cao vai trò của phụ nữ, Người
khẳng định: “Việt Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới mới thành công”.
Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối, chủ trương, chính
sách phát triển để phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhận thức xã hội về
phụ nữ vẫn còn quá khắt khe, thường có xu hướng kéo lùi và phủ nhận vai trò
của phụ nữ, chưa tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên.
Vừa là một bộ phận của phụ nữ Việt Nam, vừa là một bộ phận nguồn
nhân lực của tỉnh. Chiếm hơn 48% dân số của tỉnh, phụ nữ Bến Tre đã đạt
được nhiều thành tựu đáng tự hào về sự tiến bộ của phụ nữ. Song thực tế phụ
1



nữ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại trên bước đường phấn đấu để đáp
ứng yêu cầu của đất nước. Phụ nữ Bến Tre chưa chủ động trong nhận thức về
giới, trau dồi trình độ, khẳng định năng lực, vị trí và vai trò của mình.
Do đó, tiếp tục đổi mới nhận thức của xã hội về phụ nữ với tư cách là
một lực lượng sản xuất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh. Phụ nữ luôn phải được bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm để có cơ
hội ngang nhau khi tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phải coi
việc tăng cường và phát huy vai trò phụ nữ hiện nay là nội dung trọng tâm của
hệ thống chính trị, là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, tổ chức Hội
Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, đặc biệt là của chính các thế hệ phụ nữ Bến Tre.
Đến nay tuy đã có công trình nghiên cứu về lĩnh vực phụ nữ Bến Tre
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu để phát huy vai trò của phụ nữ tỉnh
nhà. Trên cơ sở đó, nghiên cứu vấn đề phát huy vai trò phụ nữ Bến Tre nhìn
từ góc độ tác động qua lại giữa điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan và
những đóng góp của phụ nữ tỉnh Bến Tre trong 10 năm, từ năm 2011 đến năm
2021, tìm phương hướng, giải pháp khả thi để phát huy vai trò phụ nữ đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước là vấn đề bức thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn. Vì những lý do nói trên, tôi chọn đề tài: “Vận dụng quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của phụ nữ ở tỉnh Bến Tre giai
đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn cao học của mình với
mong muốn góp một phần nhỏ công sức vào việc phát huy vai trò phụ nữ ở
tỉnh Bến Tre trong ra quân Đồng Khởi mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đóng góp của phụ nữ cho lịch sử dân tộc khá nhiều
nhưng phần lớn ở phạm vi vùng miền hoặc cả nước. Vai trò phụ nữ ở từng địa
phương chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm nên còn nhiều khoảng trống

2



trong lĩnh vực này. Trong đó việc phát huy vai trò phụ nữ Bến Tre cũng
không là ngoại lệ.
Theo tìm hiểu, cho đến nay, đã có một số đề tài, bài viết nghiên cứu về
phụ nữ và vai trò của phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ tỉnh Bến Tre nói
riêng theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau.
2.1. Hƣớng tiếp cận về vai trò phụ nữ trên phƣơng diện lý luận
Nguyễn Hồng Sơn - Phan Chí Anh (2013), Phụ nữ khởi nghiệp tại Việt
Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Công trình giới thiệu tổng quan về vai
trò của nữ doanh nhân khởi nghiệp trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
trên thế giới và Việt Nam. Chương trình đào tạo khởi nghiệp cho phụ nữ theo
kinh nghiệm của trường Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, Việt
Nam và kinh nghiệm từ các nước Australia và Ấn Độ. Những điển hình về
các doanh nhân khởi nghiệp thành công tại Việt Nam và những bài học kinh
nghiệm rút ra từ thành công và chưa thành công trong quá trình khởi nghiệp.
Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội. Luận án góp
phần làm rõ thêm về nguồn nhân lực nữ chất lượng cao và tầm quan trọng của
việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam. Phân tích một
số mâu thuẫn cơ bản từ tiếp cận giới trong việc phát triển nguồn nhân lực nữ
chất lượng cao của Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp thuộc
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thị Vân (2014), Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ,
Hà Nội. Luận án khái quát nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong
Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam. Từ những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực,

3



luận án đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực và
hạn chế của thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Đoàn Anh Phượng (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ
nữ và việc vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc
sĩ, Hà Nội. Luận văn làm rõ nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng phụ nữ. Thực trạng giải phóng phụ nữ ở nước ta thời kỳ đổi mới từ
góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp giải phóng phụ nữ nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bùi Thị Tỉnh (2010), Phụ nữ và giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Công trình đã cung cấp những thông tin về những vấn đề lý luận và thực tiễn
của vấn đề giới và phong trào nữ quyền, trình bày quan điểm về giới và con
đường giải phóng phụ nữ.
Lê Thị Hà (2008), Đảng với cuộc vận động phụ nữ, Luận văn thạc sĩ,
Hà Nội. Luận văn khái quát về quan điểm vận động phụ nữ tham gia cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự vận dụng của Đảng ta trong cuộc vận
động phụ nữ (1930 - 1945). Khẳng định và làm rõ vai trò của Đảng trong việc
định hướng nhận thức, tổ chức, hướng dẫn và lãnh đạo phụ nữ tích cực tham
gia vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Nguyễn Linh Khiếu (2003), Giới và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội. Tác phẩm đã khái quát về gia đình và vai trò của người phụ nữ trong gia
đình, sự bình đẳng của phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng trong
thời đại ngày nay cũng như vai trò của phụ nữ trong việc chăm sóc, nuôi dạy
và giáo dục trẻ em.
Hoàng Bá Thịnh (2002), Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong
công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác
giả đã tập trung nghiên cứu về những đóng góp quan trọng của phụ nữ nông
thôn đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Qua đó kiến nghị một số
4



giải pháp chủ yếu về phát triển chuyên môn - kỹ thuật cho lao động nữ và vấn
đề nâng cao sức khỏe cho phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thị Thập (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, tập II,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp những tư liệu về phong trào phụ
nữ nói chung, những đóng góp của phụ nữ trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc.
Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội. Giới thiệu về phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử, từ buổi đầu chế độ phong kiến đến phong trào cách mạng hiện đại.
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu, bài báo, bài viết của các tác giả
đã làm rõ cơ sở lý luận về vai trò phụ nữ như: Nguyễn Thị Tuyết (2017), Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp trong lĩnh vực nông
nghiệp, Tạp chí Cộng sản, số 893; Trịnh Thị Hồng Hạnh (2016), Công tác nữ
và bước tiến của bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính
trị, số 12; Nguyễn Thị Ninh (2008), Công tác cán bộ nữ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Cộng sản, số 788; Trần Thị Hòe
(2008), Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ trong bối cảnh toàn
cầu hóa ở nước ta hiện nay, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số 3; Trần
Anh Tuấn (2008), Vấn đề bình đẳng giới trong quá trình tiếp tục cải cách chế
độ công vụ, công chức, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8; Võ Thị Mai (2007),
Về công bằng, bình đẳng giới trong hệ thống chính trị ở Việt Nam.
2.2. Hƣớng tiếp cận về vai trò phụ nữ dƣới góc độ thực tiễn tại các
địa phƣơng ở nƣớc ta và tỉnh Bến Tre
Nguyễn Thị Hảo (2015), Vai trò của phụ nữ nông thôn vùng Đồng bằng
sông Hồng trong xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Hà
Nội. Công trình tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò
của phụ nữ nông thôn vùng Đồng Bằng sông Hồng trong xây dựng gia đình
5



văn hóa. Thực trạng vai trò của phụ nữ nông thôn vùng Đồng Bằng sông
Hồng trong xây dựng gia đình văn hóa. Từ đó đề xuất một số quan điểm và
giải pháp cơ bản phát huy vai trò của phụ nữ vùng Đồng Bằng sông Hồng
trong xây dựng gia đình văn hóa hiện nay.
Nguyễn Thị Thúy (2011), Sự tham gia và quyền quyết định của phụ nữ
nông thôn trong gia đình và xã hội (Nghiên cứu trường hợp phụ nữ đang
tham gia trong hệ thống chính trị cơ sở tại 04 xã của tỉnh Thanh Hóa), Luận
án Tiến sĩ, Hà Nội. Nghiên cứu thực trạng, mức độ tham gia và quyền quyết
định trong gia đình và ngoài xã hội của phụ nữ đang tham gia hoạt động trong
hệ thống chính trị cơ sở. Tìm hiểu các yếu tố vĩ mô: Kinh tế, văn hóa và các
yếu tố cá nhân như học vấn, mức sống, nghề nghiệp. Đề xuất các giải pháp
nhằm cải thiện và nâng cao vị thế, sự tham gia và quyền quyết định của phụ
nữ nông thôn.
Võ Thị Mai (2001), Vai trò nữ cán bộ quản lí nhà nước trong quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa (trường hợp tỉnh Quảng Ngãi), Luận án Tiến
sĩ. Công trình làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò nữ cán bộ quản
lí nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đề xuất giải pháp
nâng cao vai trò nữ cán bộ quản lí nhà nước phù hợp yêu cầu đẩy mạnh các
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Phan Thị Thanh Minh (2010), Đóng góp của phụ nữ Bến Tre trong
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975), Luận văn thạc sĩ, Thành phố
Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập một khía cạnh nhỏ trong mảng nghiên cứu về
lịch sử Bến Tre, đóng góp của phụ nữ Bến Tre trong giai đoạn 1954 - 1975.
Nguyễn Trúc Hạnh (2005), Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống
của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. Luận văn nêu lên
nét đặc thù của những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật ở người phụ nữ
Bến Tre và tính tất yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay.
6



Tập hồi ký Không còn con đường nào khác sau đó sữa chữa lấy tên là
Nữ chiến sĩ rừng dừa (1986) của Nguyễn Thị Định, phản ánh đôi nét về
phong trào đấu tranh của nhân dân Bến Tre giai đoạn 1954 - 1960 và cũng
cho chúng ta hiểu phần nào tâm tư tình cảm của người phụ nữ Bến Tre trong
chiến tranh.
Huyền thoại quê hương đồng khởi do Tỉnh ủy Bến Tre biên soạn cũng
thuộc dạng hồi ký, đặc biệt là bài viết của tác giả Thanh Giang về đội quân
tóc dài.
Đồng Khởi Bến Tre - nét đặc trưng sáng tạo của chiến tranh nhân dân
Việt Nam của Nguyễn Văn Kết, một số bài viết bàn về sự đóng góp của phụ
nữ Bến Tre ở một mức độ nhất định.
Thạch Phương (2000), Phụ nữ Bến Tre. Đây là tác phẩm duy nhất cho
đến hiện nay viết riêng về phụ nữ Bến Tre từ những ngày đầu khai hoang
khẩn ấp đến hòa bình xây dựng đất nước. Cuốn sách đã miêu tả lại quá trình
hình thành và phát triển của các phong trào phụ nữ, vai trò của Hội Phụ nữ
cứu quốc, tiền thân của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu “Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò phụ nữ ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay”.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về vai trò của phụ nữ trong lịch sử, nhận diện thực trạng việc phát huy vai trò
của phụ nữ ở tỉnh Bến Tre thời gian qua. Từ đó, nêu một số phương hướng,
quan điểm cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn
nữa vai trò của phụ nữ ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
7



Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của phụ nữ và
một số đặc điểm, vai trò của phụ nữ Bến Tre. Nhận diện các vấn đề đặt ra.
Thứ hai, đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của phụ nữ ở tỉnh Bến
Tre thời gian qua. Những thành công, hạn chế và nguyên nhân thành công,
hạn chế.
Thứ ba, nêu một số phương hướng cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ ở Bến Tre hiện nay. Đề xuất một
số kiến nghị.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò phụ nữ trong lịch sử và việc
phát huy vai trò phụ nữ tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay với những
thành công và hạn chế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Xét về không gian: Phụ nữ ở tỉnh Bến Tre.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng việc phát huy vai trò Phụ
nữ ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016. Từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò phụ nữ ở Bến Tre trong giai
đoạn 2016 đến năm 2021.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, về phụ
nữ và công tác phụ nữ. Ngoài ra luận văn còn chú ý sử dụng các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan trực tiếp đến đề tài.
8



5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bao gồm các phương pháp cụ thể: Phương
pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
lôgic và lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn góp phần làm cơ
sở lý luận để địa phương tham khảo trong việc xây dựng, hoạch định các chủ
trương, chính sách cụ thể góp phần thúc đẩy phát huy vai trò phụ nữ ở tỉnh
Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng
dạy những vấn đề liên quan đến phụ nữ và gia đình ở các trường Chính trị của
tỉnh và các trường, cao đẳng, đại học, cung cấp tư liệu cho các cán bộ lãnh đạo,
quản lý của tỉnh và cán bộ làm công tác liên quan đến chiến lược vì sự tiến bộ
phụ nữ ở tỉnh Bến Tre.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được cấu trúc thành 2 chương với 6 tiết.
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của phụ nữ
và một số đặc điểm, vai trò của phụ nữ Bến Tre.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy vai trò của phụ nữ Bến
Tre giai đoạn hiện nay.

9


Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA

PHỤ NỮ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ BẾN TRE
1.1. Phụ nữ và vai trò của phụ nữ theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin
1.1.1. Phụ nữ
Từ giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời đã góp phần rất quan trọng
đưa sự phát triển lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới sang một giai đoạn phát
triển mới. Các nhà sáng lập ra Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra các quan điểm
về địa vị, vai trò của người phụ nữ ở các chế độ xã hội nói chung, đặc biệt
quan tâm đến số phận của phụ nữ trong chế độ tư bản chủ nghĩa nói riêng,
phân tích những nguyên nhân của sự bất bình đẳng nam - nữ.
Ở giai đoạn đầu của lịch sử, loài người sống trong chế độ thị tộc mẫu
quyền, phụ nữ có vai trò quyết định trong gia đình, thị tộc. Sự xuất hiện và
tồn tại của chế độ thị tộc mẫu quyền là tất yếu trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, bởi lúc đó lực lượng sản xuất còn rất thấp kém, con người sống chủ
yếu dựa vào của cải hái lượm có sẵn trong tự nhiên. Sau nhờ có nghề trồng
trọt, phụ nữ tỏ rõ sự ưu trội trong các công việc này và nhờ đó có vai trò nổi
bật hơn nam giới. Ph.Ăngghen viết: “kinh tế gia đình cộng sản là cơ sở hiện
thực của quyền thống trị của người đàn bà, cái quyền thống trị phổ biến khắp
mọi nơi trong thời nguyên thủy” [12, tr.83]. Tương ứng với trình độ sản xuất
lúc đó là hình thức gia đình quần hôn, con cái chỉ có thể nhận biết mẹ, không
thể biết ai là cha. Vai trò to lớn của người phụ nữ còn được khẳng định bởi
“Họ” của những đứa con chỉ được xác lập theo họ mẹ. Cả hai phương diện tái
sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra con người đều khẳng định uy
quyền của người phụ nữ. Do đó, người phụ nữ được đề cao trong đời sống
hiện thực, trở thành biểu tượng thiêng liêng trong tôn giáo nguyên thuỷ.
10


Nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm cho xã hội chuyển
từ nền kinh tế hái lượm và trồng trọt sang nền kinh tế sản xuất chăn nuôi, săn

bắn với năng suất lao động cao hơn trước. Trong nền sản xuất mới, đàn ông tỏ
rõ ưu thế và do đó có vai trò nổi trội hơn. Cũng lúc đó, sản phẩm “dư thừa” và
sự chênh lệch về của cải trong xã hội đã làm xuất hiện chế độ tư hữu và sự
phân chia giai cấp. Xã hội chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ
quyền. Đó là “sự thất bại có tính chất toàn thế giới của giới nữ” [12, tr.93].
Đàn ông từ địa vị thấp kém phụ thuộc trở thành những người có địa vị cao và
nắm quyền cai quản, còn người đàn bà thì “bị hạ cấp, bị nô dịch, bị biến thành
nô lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần”
[12, tr.93].
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, trong nền kinh tế cộng sản nguyên
thủy do đàn bà nắm giữ kinh tế thì đồng thời họ cũng nắm quyền cai quản xã
hội và gia đình. Nhưng khi sự thống trị kinh tế của đàn bà bị mất và đàn ông
nắm lấy quyền thống trị thì sự thống trị ấy trở nên phổ biến không chỉ trong
sản xuất mà cả trong hôn nhân và gia đình. Quyền chuyên chế của đàn ông
một khi được xác lập thì kết quả đầu tiên của nó thể hiện ra trong hình thức
gia đình gia trưởng. Trong gia đình gia trưởng việc thực hiện nguyện vọng
chuyển giao của cải người cha cho con trai mà người con này phải đích thực
là của mình là một nguyên nhân chính dẫn đến chế độ một vợ một chồng.
Như vậy, khi cơ sở kinh tế biến đổi thì đặc điểm và tính chất của mối quan hệ
tương ứng với nó cũng thay đổi.
Việc nhấn mạnh vai trò quyết định của cơ sở kinh tế không có nghĩa là
xem nhẹ các yếu tố phi kinh tế mà chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau làm
tiền đề cho sự phát triển. Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật là dựa trên sự phát triển kinh tế. Trình độ nhận
thức, thói quen suy nghĩ và các phong tục tập quán đã ăn sâu bám chắc trong
11


đầu óc con người thành tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Những phong tục tập
quán lạc hậu, cổ hủ, đạo đức phong kiến “tam tòng, tứ đức” được khuyến

khích duy trì dần dần thành thói ứng xử thô bạo của nam giới đối với phụ nữ.
Đó cũng chính là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc văn hóa xã hội của sự
bất bình đẳng nam nữ. Tư tưởng này dần dần trở thành quy tắc, thành thông
lệ, không cần có luật pháp bảo vệ, nó vẫn có tác động cưỡng chế, điều chỉnh
hành vi ứng xử của người nam giới đối với phụ nữ.
Điều quan trọng là các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đã vạch rõ
xu hướng biến đổi địa vị, vai trò người phụ nữ theo hướng tiến tới sự bình
đẳng nam nữ trong xã hội và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Chỉ khi xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, xây dựng chế độ công hữu chính là thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế của phụ
nữ đối với nam giới. Đưa phụ nữ vào nền sản xuất xã hội, họ sẽ không còn bị
trói chặt trong công việc gia đình, lao động gia đình trở thành bộ phận của lao
động xã hội. Đồng thời hôn nhân giữa nam và nữ được xây dựng trên cở sở tự
nguyện chứ không vì lợi ích kinh tế chi phối hay những yếu tố phi kinh tế.
Khẳng định điều này, Ph.Ăngghen viết: “…Đặc tính của sự thống trị của
người chồng đối với người vợ trong gia đình hiện đại, và sự tất yếu phải xác
lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên, cũng như phương thức xác lập sự
bình đẳng ấy, chỉ bộc lộ ra hoàn toàn rõ ràng một khi mà cả vợ chồng đều
bình đẳng trước pháp luật” [12, tr.116].
Tiếp tục phát triển luận điểm của Ph.Ăngghen, Lênin đặc biệt nhấn
mạnh đến cảnh “hai tròng áp bức” mà giới nữ phải chịu đựng.
Thứ nhất, với tư cách là lực lượng lao động, phụ nữ chịu sự áp bức của
chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, với tư cách là phụ nữ, họ chịu địa vị thứ yếu trong hệ thống
luật pháp hiện tồn và những nghĩa vụ gia đình đè nặng trên vai. Khi đồng thời
12


đảm nhiệm hai chế độ làm việc này, người phụ nữ phải hy sinh đời sống riêng
tư, đánh mất cơ hội phát triển học thức và cả cơ hội tham gia đời sống chính

trị.
V.I.Lênin khẳng định: “Muốn để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho thật
sự bình đẳng với nam giới, thì phải có nền kinh tế chung của xã hội, phải để
cho phụ nữ tham gia lao động sản xuất chung. Như thế phụ nữ mới có địa vị
bình đẳng với nam giới” [66, tr.230]. Chế độ dân chủ tư sản bản thân nó
không xóa bỏ áp bức giai cấp, nếu chỉ dừng lại ở những yêu sách dân chủ tư
sản đấu tranh đòi quyền cho phụ nữ thì chưa đủ mà phải hướng tới sự kết hợp
những yêu sách này với vũ khí căn bản của cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ,
đó là lý luận của chủ nghĩa cộng sản.
1.1.2. Vai trò của phụ nữ theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin
Phân tích vai trò của người phụ nữ từ sự thay đổi các hình thức hôn
nhân trong chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy sang chiếm hữu nô lệ, phong
kiến và đến chế độ tư bản chủ nghĩa. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa MácLênin đã cho thấy được sự tiến bộ của nhân loại, mặt khác cũng chứng minh
rằng phụ nữ ngày càng mất dần địa vị, vai trò của mình trong xã hội tư bản từ
hai phương diện: Trong hoạt động sản xuất và trong hôn nhân, gia đình dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thứ nhất, vai trò phụ nữ trong hoạt động sản xuất xã hội tư bản chủ
nghĩa
Ngay từ những năm 1844 - 1845 C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra
một xu hướng chung của giới chủ tư bản. Đó là tăng cường tuyển dụng lao
động nữ và trẻ em gái vào làm việc trong các nhà máy, công xưởng vì mục
đích bản chất của tư bản là lợi nhuận. Trong tác phẩm: “Tình cảnh giai cấp
lao động ở Anh” Ph.Ăngghen đã lý giải điều này. Vì lao động của phụ nữ
dưới chủ nghĩa tư bản là thứ lao động rẻ mạt, việc sử dụng nguồn lao động
13


này khiến nhà tư bản thu được món lợi kếch xù. Vậy nên, giới chủ tư bản luôn
tìm cách thải hồi nam công nhân để thu hút lao động nữ và buộc họ phải làm
việc đến kiệt sức trong điều kiện không bảo đảm cho sức khỏe, từ đó khiến

cho vóc người phụ nữ bị biến dạng, trở nên thấp bé, cằn cỗi và bị mắc nhiều
căn bệnh nan y. Giới chủ tư bản thích thuê những người phụ nữ có gia đình
hơn bởi vì khi đó người phụ nữ phải làm việc cật lực hơn để kiếm thêm thu
nhập, tư liệu sinh hoạt ít ỏi nuôi sống cho gia đình mình. Điều đó cho thấy sự
bóc lột hết sức tinh vi, dã man và tàn bạo của giới chủ tư bản.
Chế độ lao động trong công xưởng tư bản chủ nghĩa đã không tính đến
những đặc điểm của phụ nữ và nam giới, bắt phụ nữ phải làm việc lẫn lộn với
nam giới trong điều kiện khắc nghiệt, bị đối xử giống như thú vật hơn là
giống người. Ngay trên đất nước Anh, một đất nước của nền đại công nghiệp
phát triển rất sớm nhưng phụ nữ vẫn phải lao động hết sức nặng nhọc, bị đối
xử còn kém hơn cả xúc vật chẳng có vai trò nào trong xã hội “để kéo thuyền
dọc sông Đào, thỉnh thoảng người ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa”
[13, tr.568].
Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình thức bất bình đẳng tuy
có thay đổi nhưng bản chất thì không thay đổi. Dưới chế độ tư hữu, phụ nữ
phải chịu một nghịch lý là vai trò thì lớn nhưng vai trò thấp hèn cả trong gia
đình lẫn ngoài xã hội, bị bóc lột, bị tha hóa. So với giai đoạn chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, địa vị,
vai trò người phụ nữ vẫn không hề thay đổi. Họ vẫn là công cụ lao động của
giới tư bản mà thôi.
Điều này cũng đã được V.I.Lênin làm rõ vào nửa đầu thế kỷ XX. Theo
ông, trong những quốc gia văn minh và được xem là tiến bộ nhất, phụ nữ vẫn
ở trong tình trạng đáng gọi là “nô lệ nội trợ” và không hề có một nhà nước tư
bản nào, cho dù được xem là thể chế cộng hòa tự do nhất, mà tại đó phụ nữ có
14


quyền đầy đủ và ngang bằng như nam giới. V.I.Lênin khẳng định vai trò quan
trọng phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, người cộng sản phải ý thức được
vấn đề quyền lợi, lợi ích và nhu cầu của giới nữ trong quá trình tuyên truyền

cách mạng. Con đường duy nhất để đi tới một sự giải phóng hoàn toàn đối với
phụ nữ là cách mạng vô sản và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, vai trò phụ nữ trong hôn nhân, gia đình dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa
Người phụ nữ trong gia đình dưới chế độ tư hữu chỉ được xem là
phương tiện và công cụ sản xuất của gia đình. Trong gia đình tư sản chứa
đựng và bộc lộ rõ mối quan hệ thống trị bóc lột của chồng đối với vợ, “trong
gia đình, người chồng là nhà tư sản, người vợ đại biểu cho giai cấp vô sản”
[12, tr.117].
Xét cho cùng chỉ là mẹ của những đứa con kế thừa chính thức tài sản
dòng dõi của chồng, là người quản gia chính của nhà chồng và là người cai
quản các tì thiếp của chồng. Vì vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa chế độ một
vợ một chồng chỉ riêng đối với người phụ nữ chứ không phải đối với đàn ông.
Trong chế độ gia trưởng và chế độ tư bản chủ nghĩa, người đàn ông có quyền
lấy nhiều vợ, có quyền ly hôn và có quyền ngoại tình, được sử dụng dưới
nhiều hình thức khác nhau “các ngài tư sản chưa thỏa mãn là sẵn có vợ và con
gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy
còn lấy việc cấm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt” [11, tr.623].
Trên cơ sở kế thừa quan điểm Chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã tiếp tục
phân tích sâu vấn đề “hàng triệu và hàng triệu phụ nữ trong những gia đình
như vậy đang sống (hoặc nói cho đúng hơn đang bị đọa đầy) trong kiếp “gia
nô”, ra sức lo ăn mặc cho cả gia đình bằng từng xu nhỏ mà họ phải trả bằng
những cố gắng phi thường hàng ngày và bằng “sự tiết kiệm” tất cả mọi thứ,
chỉ trừ có “tiết kiệm” lao động bản thân” [13, tr.173].
15


Sau khi chính quyền Xô viết được thành lập, một trong những vấn đề
được V.I.Lênin đặc biệt quan tâm là xã hội hóa việc nhà. Mục tiêu ở đây là
thay đổi gia đình với tư cách là một đơn vị kinh tế vốn là vòng nuôi dưỡng hệ

thống tư bản chủ nghĩa và là vòng kìm hãm sự giải phóng và phát triển của
phụ nữ. Mặt khác, tạo cơ hội cho phụ nữ được phát huy vai trò của mình trong
mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, quân sự tới văn hóa, giáo dục. Hơn nữa,
phải đưa phụ nữ vào tham gia quản lý đất nước, xây dựng, củng cố quốc
phòng, khẳng định “Địa vị của phụ nữ về mặt pháp lý là cái tiêu biểu nhất cho
trình độ văn minh” [65, tr.221].
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phụ nữ, giải
phóng phụ nữ để phát huy vai trò của người phụ nữ trong xã hội được xây
dựng trên cơ sở của triết học mácxít. Đây là phương pháp tiếp cận khoa học
và cũng là cơ sở lý luận để hướng đến phát huy vai trò của người phụ nữ
trong xã hội hiện nay.
1.1.3. Vai trò của phụ nữ theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.3.1. Vai trò của phụ nữ theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, trước khi đi tới những
hành động cụ thể thành lập chính Đảng Cộng sản và xây dựng lực lượng dân
tộc để đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức toàn diện về
vai trò, vị thế của người phụ nữ thuộc địa, đặc biệt là ở Việt Nam.
Với ngòi bút đấu tranh sắc bén, nhãn quan chính trị và tình cảm của một
người dân mất nước, trong quá trình hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã
dành nhiều bài viết đồng cảm với thân phận phụ nữ An Nam, đồng thời
Người đã nhấn mạnh rằng, ở các nước thuộc địa, vai trò, vị thế của người phụ
nữ vô cùng thấp kém, họ chính là những người bị bóc lột tàn bạo, bị áp bức dã
man nhất và chiếm số đông nhất. Trong bài “Những kẻ đi khai hóa” đăng trên
16


tờ (Le Paria, ngày 1/7/1922) và một bài báo khác có tên “Phụ nữ An Nam và
sự đô hộ của Pháp” trên báo (Le Paria, số 5, ngày 1/8/1922), Hồ Chí Minh đã
dựng lên một bức tranh tình cảnh của phụ nữ dưới chế độ thuộc địa. Đó là

hình ảnh về những người phụ nữ lao động nghèo khổ làm nghề gánh muối có
thể bị giết chết, bị đánh đập dã man hoặc chỉ vì một lý do rất nhỏ là làm mất
giấc ngủ của một viên Nhà đoan hay dám bày tỏ bất công của mình với chủ.
Đó là những người phụ nữ bất kể bà già, trẻ em, phụ nữ có thai hay đang cho
con bú đều có thể bị hãm hiếp hoặc tra tấn một cách man rợ mà không một
người có lương tri nào có thể hình dung nổi. Hồ Chí Minh đã phải thốt lên:
“Chưa có bao giờ, ở một nước nào, một thời đại nào, người ta lại vi phạm mọi
quyền làm người một cách dã man độc ác đến thế” [38, tr.383].
Bọn thực dân luôn cho mình có quyền được chửi mắng, đánh đập phụ nữ
Việt Nam ở bất cứ chỗ nào họ muốn: “Ngay giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bọn gác chợ người Âu cũng không
ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người đàn bà bản xứ để bắt họ tránh
cho khỏi nghẽn lối!” [39, tr.105]. Hơn thế nữa, bọn thực dân đã dùng mọi thủ
đoạn dã man nhất để gọi là “trừng phạt” mỗi khi phụ nữ “phạm tội” như: Phải
mang nặng gông xiềng đi quét đường vì tội không nộp nổi thuế; bị bắt giam vì
tội “vi phạm luật thương chính” (không mua rượu và thuốc phiện). Có nơi
bọn quan cai trị còn dùng những hình phạt đau đớn nhất đối với phụ nữ như
bắt đội đá trên đầu đứng nắng cả ngày, bắt làm “vật thế chấp”, thậm chí “đổ
cả nhựa cao su nóng bỏng vào bộ phận sinh dục nữ”. Người nhận thấy rằng,
ngay cả ở các nước chính quốc được gọi là tư bản văn minh cũng không hề có
bình đẳng, bác ái mà ngược lại, còn tồn tại những bất công, những vi phạm
quyền và phẩm giá con người. Người phụ nữ thuộc địa không chỉ chia sẻ cùng
một thân phận “nô lệ” với đồng bào mình với tư cách lao động và nội trợ mà

17


họ phải gánh chịu thêm một phần khổ đau về thân thể và phẩm giá do chế độ
dâm bạo thuộc địa gây ra: Áp bức dân tộc, áp bức giai cấp và áp bức giới tính.
Từ phân tích thực tiễn cũng như quan sát, cảm nhận của cá nhân về thực
tiễn đời sống phụ nữ ở các nước thuộc địa, trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa

Mác-Lênin, Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển những đánh giá, ghi nhận về vai
trò phụ nữ trong quá trình triển khai hành động hướng tới việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” được tập hợp từ những bài giảng tại các
lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam tổ chức tại Quảng Châu (Trung
Quốc) khi nói về vai trò của phụ nữ, Hồ Chí Minh đã nhắc lại quan điểm
C.Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có
phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn
bà con gái, thì biết xã hội tấn bộ ra thế nào?” [39, tr.288]
Quan điểm của Hồ Chí Minh không chỉ dựa trên cơ sở lý luận của các
nhà kinh điển C.Mác, V.I.Lênin mà còn xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ
cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” [30, 432]. Như vậy,
qua luận điểm trên, ta thấy Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trò quan trọng của
phụ nữ trong sản xuất, trong đấu tranh cách mạng, trong công cuộc xây dựng
Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ thân phận nô lệ với tinh thần yêu nước, phát huy truyền thống lịch sử
từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, phụ nữ Việt Nam đã vùng lên làm cách mạng,
tham gia vào cuộc đấu tranh chung, trở thành người chủ thực sự, có quyền lợi,
có trình độ văn hóa và địa vị xã hội, tô thắm truyền thống yêu nước của dân
tộc nói chung và phụ nữ nói riêng đúng như phát biểu của Hồ Chí Minh vào
dịp kỷ niệm ngày thành lập Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1946) “Từ
đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho
18


đến ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái
đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”
[48, tr.172]
Trong những giai đoạn lịch sử cụ thể kể từ sau chiến thắng Điện Biên

Phủ năm 1954 đến thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
năm 1975, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong sinh hoạt và vận
động chính trị của quốc gia. Đánh giá của Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ
thể hiện tập trung ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh quan tâm phát huy tối đa vai trò của phụ nữ
trong mọi lĩnh vực: Từ lao động sản xuất đến quản lý, lãnh đạo; từ giáo dục,
văn hóa - đạo đức tới pháp luật.
Thứ hai, phụ nữ giữ vai trò là lực lượng tham gia hùng hậu vào hoạt
động sản xuất và chiến đấu.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, hưởng
ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ miền Bắc sôi nổi
bắt tay vào việc kiến thiết đất nước, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề vai trò của người phụ
nữ tiếp tục thể hiện tính hệ thống, biện chứng và toàn diện. Người không chỉ
xác định sự tiến bộ tự thân của phụ nữ mà sâu xa hơn là từ thành tựu đạt
được, phụ nữ phải tự giác và tích cực hơn thể hiện thông qua vai trò quản lý,
thể hiện bản chất và mục đích của chế độ: “của dân, do dân và vì dân”. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh đến “trách nhiệm làm chủ” của phụ nữ Việt Nam. Trách
nhiệm đó được xác định cụ thể như sau: “Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải
hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải ra sức
thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây
dựng chủ nghĩa xã hội” [45, tr.294 - 295].
19


Sự đóng góp của phụ nữ được Hồ Chí Minh đánh giá ngang với nam giới
trên mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất “Phụ nữ ở xí nghiệp, ở nông thôn, ở cơ
quan hăng hái tham gia thi đua ái quốc, thành tích không kém đàn ông” [41,
tr.341 - 432]. Phụ nữ có ưu điểm hơn hẳn của nam giới, ở cương vị lãnh đạo

là ít mắc tệ tham ô, không hay chè chén, ít hống hách mệnh lệnh như cán bộ
nam giới. Đây được xem là một trong những tư tưởng rất sớm của Hồ Chí
Minh về bình đẳng giới. Một khi xã hội tôn trọng phụ nữ và đánh giá cao vai
trò của phụ nữ thì xã hội mới thật sự tốt đẹp. Người nhận thấy rằng, phụ nữ có
nhiều khả năng làm lãnh đạo, nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ
sở, nhiều người rất giỏi. Hơn nữa cất nhắc phụ nữ vào cương vị lãnh đạo là
nâng cao vai trò của phụ nữ trong quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và đồng
thời cũng là xây dựng tổ chức Đảng lớn mạnh. Sự quan tâm của Hồ Chí Minh
đối với việc phát huy vai trò lãnh đạo, quản lý của phụ nữ không chỉ thể hiện
về mặt lý luận mà còn ở thực tiễn cuộc sống. Bên cạnh những ghi nhận tích
cực, đã không ít lần Hồ Chí Minh chỉ ra những vấn đề cần khắc phục. Trong
một buổi nói chuyện với cán bộ và công nhân nhà máy dệt Nam Định năm
1957, Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Có cất nhắc cán bộ phụ nữ nhưng chưa mạnh
dạn, tức là còn phần nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng phụ nữ. Vậy, phụ nữ
phải làm sao cho người ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh
chị em công nhân sẽ cử mình lên” [43, tr.340].
Một đặc điểm gắn liền với đặc thù giới tính của phụ nữ cũng được Hồ
Chí Minh quan tâm, đó là những khó khăn mà phụ nữ gặp phải với tư cách
làm vợ, làm mẹ hay như chính cách diễn đạt của Hồ Chí Minh là khó khăn về
“gia đình và con cái” [45, tr.185]. Vai trò người phụ nữ trong giáo dục và
chăm sóc con cái không còn là câu chuyện riêng của phụ nữ và gia đình mà
đã trở thành nghĩa vụ quốc gia. Vai trò của người phụ nữ đã mở rộng ra từ
chỗ là người thụ hưởng chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà
20


×