Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Tổng hợp tiểu luận môn lý thuyết kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.72 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
---------o0o---------

TIỂU LUẬN LÍ THUYẾT KẾ TOÁN

Niên khóa: 2017-2019

HÀ NỘI 12/2017

10


Câu 2: Vận dụng lí thuyết thông tin bất cân xứng để phân tích đặc điểm hoạt dộng của ngân hàng và
các tổ chức tín dụng, cơ sở xây dựng các chính sách cho vay và bảo đảm của ngân hàng
Trả lời:
A. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
I. Khái quát thông tin bất cân xứng:
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì không biết đích
thực mức độ thông tin ở mức nào đó. Không có sự cân bằng trong việc nắm giữ thông tin giữa các
bên tham gia giao dịch. Khi đó giá cả không phải là giá cân bằng của thị trường mà nó có thể thấp
hơn hoặc cao hơn dẫn tới thị trường không đạt hiệu quả.
Việc này thể hiện thông qua 2 khía cạnh :
+ Sự lựa chọn bất lợi
+ Tâm lý ỷ lại
Ví dụ: Tình huống mua bán xe Ô tô trên thị trường, người bán xe có tính chủ động hơn đối với người
mua. Người bán có thể biết rõ đặc tính của chiếc xe mình muốn bán và muốn bán với giá cao.
Vì khách hàng không thể phân biệt đặc tính của xe nên họ chỉ có thể mua xe (bất kể tốt hay xấu) tại
mức giá trung bình trên thị trường.
Việc lựa chọn xe để mua trong trường hợp này thể hiện khía cạnh Sự lựa chọn bất lợi
(adverse selection) vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu và người bán lại không thể bán được


do giá bán thấp hơn chất lượng xe tốt. Lựa chọn bất lợi sẽ gây bất lợi cho bên có ít thông tin hơn trong
giao dịch. Lựa chọn bất lợi làm cho giao dịch trở nên rủi ro hơn và ở mức độ nghiêm trọng nó sẽ làm
thị trường sụp đổ hoàn toàn.

20


Bên cạnh đó, ở một khía cạnh khác là Tâm lý ỷ lại : xảy ra sau khi các bên đã chính thức tham gia vào
giao dịch: một bên trong giao dịch có chủ định che đậy hành vi của mình và bên đối tác rất khó hoặc
không thể kiểm soát được hành vi của bên kia. Bảo hiểm y tế là ví dụ điển hình của tâm lý ỷ lại. Khi
đã mua bảo hiểm y tế toàn bộ, người mua thường có tâm lý muốn đi khám bệnh thường xuyên hơn.
Nếu công ty bảo hiểm có thể giám sát được hành vi của người mua, khi đó người mua có thể phải chịu
mức phí cao hơn. Nhưng nếu công ty không thể giám sát được hành vi của khách hàng thì công ty có
thể phải trả các khoản đền bù nhiều hơn dự kiến. Khi xuất hiện tâm lý ỷ lại, các công ty bảo hiểm buộc
phải tăng phí bảo hiểm hay thậm chí là từ chối bán bảo hiểm. Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện trong các thị
trường tín dụng, thị trường bảo hiểm tiền gửi.
II . Hoạt động tín dụng Ngân hàng:
Ngân hàng Thương mại (NHTM), bên cạnh các hoạt động như huy động vốn, dịch vụ thanh toán,
ngân quỹ... Ngân hàng cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu
thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước.


Việc "vay mượn" giữa ngân hàng và khách hàng được lập thành hợp đồng tín dụng. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng, nếu một bên có nhiều thông tin hơn có thể có những hành vi gây tổn hại đến bên
có ít thông tin hơn. Đây chính là vấn đề bất cân xứng về thông tin trong các hoạt động của nền kinh
tế.
III. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng Ngân hàng:
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra vấn đề thông tin bất cân xứng trong lĩnh vực hoạt
động tín dụng của ngân hàng như:

1. Sự lựa chọn bất lợi:
Khi nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng, trước khi ra quyết định, ngân hàng phải
thực hiện việc thẩm định các thông tin liên quan đến khách hàng, dự án vay vốn và tài sản
bảo đảm tiền vay. Trong cả ba khâu thẩm định này, vấn đề lựa chọn bất lợi đều có thể gây ra rủi ro cho
quyết định đầu tư của ngân hàng.
1.1 Đánh giá uy tín của khách hàng:
Đánh giá uy tín của khách hàng luôn là vấn đề khó khăn của các ngân hàng. Ngân hàng thông thường
chủ yếu dựa vào quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy
tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ nghiệp vụ khi
tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được từ các khách hàng có quan hệ với
khách hàng mới này. Đánh giá còn sơ sài chưa có tiêu chuẩn chủ yếu là do việc cung cấp thông tin trên
thị trường còn chưa phát triển và ý thức cung cấp phát tín hiệu trên thị trường của doanh nghệp còn
chưa cao. Điều này dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó
khăn.
1.2. Đánh giá năng lực của khách hàng:
a. Năng lực quản trị: đánh giá về nguồn nhân lực, vì nguồn nhân lực góp phần vào kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp và liên quan đến hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên việc đánh giá này
phần lớn còn dựa vào chủ quan của cán bộ ngân hàng.
b. Đánh giá năng lực tài chính: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng có thể có
nhiểu rủi ro khi doanh nghiệp có thể cố tình gia tăng lợi nhuận hơn thực tế để được ngân hàng đánh
giá năng lực tài chính tốt và kinh doanh hiệu quả nhằm vay vốn dễ dàng; còn thực chất như thế nào thì
chỉ có bản thân công ty biết.
1.3. Đánh giá dự án vay:
Đánh giá hiệu quả dự án vay vốn là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn
của ngân hàng. Thực tế cho thấy ở hầu hết các nước đang phát triển thì nghiệp vụ thẩm định, các tiêu


chuẩn thẩm định, thông tin từ các tổ chức, các công ty nghiên cứu thị trường… còn nhiều yếu tố chưa
chính xác. Trình độ cán bộ và công nghệ, kỹ thuật cũng còn non kém.
1.4. Đánh giá tài sản bảo đảm:

Ngân hàng áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay như cầm cố, thế chấp tài sản và bảo lãnh bằng tài
sản của bên thứ ba chính là một giải pháp để ngân hàng hạn chế rủi ro xảy ra do việc lựa chọn ngược
Xét về phía ngân hàng, tình trạng thông tin bất cân xứng xảy ra khi ngân hàng hiểu biết về khách hàng
và dự án kinh doanh của khách hàng ít hơn khách hàng. Việc khách hàng che đậy những thông tin liên
quan đến họ và dự án đã gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc xác định được những khách hàng
thực sự tiềm năng, và những dự án thực sự có hiệu quả để đảm bảo khả năng thu hồi nợ.
2. Tâm lý ỷ lại
Hiện tượng tâm lý ỷ lại xảy ra sau khi ký kết hợp đồng tín dụng. Khách hàng vay vốn có nghĩa vụ sử
dụng vốn đúng mục đích đã xác định trong hợp đồng tín dụng. Để đảm bảo khả năng thu hồi vốn,
ngân hàng phải thường xuyên tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Tuy
nhiên, việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng là rất khó khăn và tốn kém
+ Hành vi sử dụng vốn vay không đúng mục đích - vi phạm hợp đồng tín dụng
+ Người vay không nỗ lực tối đa để sử dụng vốn vay hiệu quả.
B. THỰC TRẠNG XỬ LÝ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG TẠI
MỘT SỐ NGÂN HÀNG VN HIỆN NAY:
I. Một số gói cho vay tiêu biểu của một số ngân hàng Việt Nam hiện nay:
a. Khách hàng cá nhân:

_ Cho vay có tài sản đảm bảo: vay trả góp mua nhà, nền nhà. Vay mua

căn hộ, BĐS thế chấp bằng chính TS định mua, vay trả góp sinh hoạt tiêu dùng…
_ Cho vay tín chấp: thấu chi tài sản
b. Khách hàng doanh nghiệp: _Tài trợ vốn lưu động: Cho vay SXKD trong nước, cho vay bổ sung
vốn kinh doanh trả góp, Thấu chi tài khoản.
_Tài trợ xuất nhập khẩu: cho vay bảo đảm bằng khoản phải thu từ bộ
chứng từ hàng xuất khẩu, tài trợ xuất nhập khẩu trọn gói…
_Tài trợ mua TSCĐ, dự án: Tài trợ mua TSCĐ, xây dựng nhà xưởng, văn
phòng…



II. Những quy định trong quy trình cho vay của các NHTM ở VN hiện nay để khắc phục tình trạng
thông tin bất cân xứng:
1. Sự lựa chọn bất lợi:
1.1 Đánh giá uy tín của khách hàng:
Nhìn chung, việc đánh giá uy tín của khách hàng hiện nay của các ngân hàng dựa nhiều vào cảm tính
và ý chủ quan của cán bộ nghiệp vụ, chưa có một căn cứ khoa học. Ngoài ra, chúng ta còn thiếu các
thể chế hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong việc cung cấp thông tin về quá
trình hoạt động, định hướng phát triển của các công ty và trong việc đánh giá xếp loại công ty.
1.2. Đánh giá năng lực của khách hàng:
Các yêu cầu về thông tin phục vụ phân tích tín dụng vẫn chưa được đáp ứng
đáng tin cậy, đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài chính của DN chưa bị bắt
buộc phải qua kiểm toán do vậy độ chính xác của báo cáo chưa cao. Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ
khó khăn, tình trạng thông tin bất cân xứng là phổ biến (cán bộ tín dụng chủ yếu lấy thông tin từ chính
sự khai báo của khách hàng). Thiếu các trung tâm dữ liệu khách hàng cá nhân, hộ gia đình, DNVVN...
(Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN mới chỉ cung cấp thông tin về DN).
1.3. Đánh giá dự án vay:
Đây là những thông số, nhưng tiêu chuẩn vô cùng cần thiết như hệ số chiết khấu, mức độ rủi ro …
Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi suất cho vay trung dài hạn của chính tổ chức tín dụng đó
cộng (+) thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu. Với phương thức này có thể tạm chấp nhận
được vì dù sao cũng có cơ sở. Nhưng cở sở này là rất cảm tính.
1.4. Đánh giá tài sản bảo đảm:
Có thể phân tích ở hai khía cạnh. Thứ nhất, ngân hàng không thể từ chối cho vay nên việc thẩm định
khoản vay, đánh giá năng lực khách hàng chỉ mang tính thủ tục. Thứ hai, do có sự can thiệp của các
cấp chính quyền trong việc cấp tín dụng cho một đối tượng nào đó mà chủ yếu là các doanh nghiệp
nhà nước nên ngân hàng có tâm lý ỷ lại, vì khi có rủi ro xảy ra thì nhà nước cũng có cơ chế xử lý. Tâm
lý trên đã làm giảm chất lượng thẩm định cho vay, khoản vay mang nhiều rủi ro, làm tăng nợ xấu.
2. Tâm lý ỷ lại (Moral Hazard):
2.1. Hành vi sử dụng vốn vay không đúng mục đích - vi phạm hợp đồng tín dụng:
Việc thụ lý và giải quyết tranh chấp vi phạm hợp đồng ở Việt Nam hiện nay không được hiệu quả, thời
gian xử lý kéo dài và tốn nhiều chi phí cho các bên liên quan.

Về công tác giám sát khách hàng vay vốn của các ngân hàng hiện nay chưa được hiệu quả lắm, nó
xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt của xã hội, trong khi khách hàng một lúc quan hệ với nhiều


ngân hàng nên một số khoản sử dụng rất khó kiểm soát, việc sử dụng vốn vay chồng chéo giữa các
ngân hàng là rất phổ biến mà ngân hàng rất khó có thể phát hiện. Đây cũng là nguyên nhân vì sao
ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro
tín dụng.
2.2. Người vay không nỗ lực tối đa để sử dụng vốn vay hiệu quả.
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn
đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạng đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho
bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra
quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy
khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.


C. GIẢI PHÁP XỬ LÝ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG
I. Về phía nhà nước.
1. Xây dựng và phát triển các tổ chức hỗ trợ thông tin.
Tích cực xây dựng và có các biện pháp khuyến khích việc phát triển các thể chế nhằm hỗ trợ thông tin
cho thị trường. Nhà nước có thể đưa ra các ưu đãi để phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ thông tin, tài chính như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đánh giá xếp hạng doanh
nghiệp, định giá tài sản, tư vấn tài chính, kiểm toán… Đây là một lĩnh vực khá mới, cần có sự hỗ trợ
của nhà nước trong giai đoạn đầu tiếp cận khách hàng, thu thập thông tin; dần dần các doanh nghiệp
mới thấy được sự cần thiết khi sử dụng các dịch vụ này.
2. Xây dựng một hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu quả:
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Pháp luật về thuế ở Việt Nam đang là một tồn tại lớn. Hiện tượng nhiều hệ thống sổ sách nhằm trốn
thuế, lách luật chỉ có thể khắc phục khi các quy định pháp luật về thuế, các chế tài xử lý vi phạm được
quy định chặt chẽ, nghiêm minh và một hệ thống cơ quan thuế được quản lý và kiểm soát để tránh

những hiện tượng tiêu cực xảy ra tràn lan.
II. Về phía các Ngân hàng thương mại:
1. Phải tách bạch việc thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân và thu hồi nợ: nhằm tạo ra cơ chế kiểm
soát chéo, tránh tình trạng một người làm mọi việc sẽ dẫn đến sự lạm quyền. Bộ phận thẩm định, cho
vay thì không được trực tiếp giải ngân và tương tự, bộ phận giải ngân lại không được trực tiếp theo dõi
thu hồi nợ; điều này sẽ tạo nên tính minh bạch trong việc quản lý và thu hồi nợ đối với dự án hay
khoản vay.
2. Quản trị rủi ro:
a. Sàng lọc: Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, các ngân hàng thường áp dụng hạn mức tín dụng
khác nhau đối với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Đối với tổ chức bảo hiểm, cơ chế
sàng lọc được thể hiện qua việc chỉ bảo hiểm một phần, điều này cho thấy ngay cả đối với nhóm bất
cẩn cũng phải có trách nhiệm một phần của mình trong sự cố bồi thường có thể xảy ra.
b. Quy định về việc xét duyệt cho vay:
Xây dựng quy trình xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ trách
nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng.
3. Vấn đề tài sản hình thành từ vốn vay:
+ Đối với tài sản hình thành không dùng làm tài sản bảo đảm: sau từng lần giải ngân, ngân hàng phải


kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng thông qua chứng từ và thực tế, nhằm đảm
bảo khách hàng sử dụng đúng mục đích, hiệu quả.
+ Đối với tài sản hình thành là tài sản bảo đảm: Ngân hàng kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn
vay, đồng thời yêu cầu khách hàng hoàn tất thủ tục theo đúng quy định về thực hiện bảo đảm tiền vay
như đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản có quyền sở hữu và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy
định.
4. Tài sản đảm bảo:
Đây được xem là những điều kiện quan trọng nhất khi cho vay tại ngân hàng, nhất là khi ngân hàng
không tin cậy hoặc gặp khó khăn trong việc đánh giá mức độ tín nhiệm, năng lực tài chính của khách
hàng, thẩm định hiệu quả của các dự án đầu tư, phương án kinh doanh, gồm những giấy tờ gì và thực
hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý để đảm bảo cho khoản vay.

III. Về phía các công ty:
Phải thực hiện phát tín hiệu: Thông thường người đi vay là người nắm rõ thông tin về mình nhất thế
nên họ sẽ được lợi nhiều hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay nếu
như họ không biết rõ về khách hàng của mình. Thế nên, người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là
người có khả năng trả được nợ tốt.

Câu 1: Sử dụng lí thuyết người đại diện để phân tích ảnh hưởng của kế hoạch trả lương, thưởng bằng
cổ phiếu cho người điều hành tới việc lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp.
Trả lời:
Trong kinh tế có một lý thuyết rất nổi tiếng về mối quan hệ chủ - tớ đó là lý thuyết người đại diện.
Các nhà nghiên cứu cũng đã lý giải hàng loạt nguyên nhân dẫn đến vấn đề của người đại diện , khi
người đại diện làm việc ngắn hạn thì sẽ thu cố gắng thu lợi ích lớn nhất. Cách hành xử của doanh
nghiệp ở nước ngoài thường hay làm đó là tuyên bố trước về các gói lợi ích và các quyền lợi mà
người điều hành sẽ được hưởng theo thời hạn, có thể một năm, vài năm hoặc đến khi nghỉ hưu, theo
đó người điều hành sẽ nỗ lực làm việc cho đến cùng và thúc đẩy người điều hành làm việc tốt hơn.
Việc xác định mối quan hệ đại diện (hay quan hệ ủy thác) như là quan hệ hợp đồng mà theo đó các
cổ đông (những người chủ -principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý công ty
(người đại diện -agents), để thực hiện việc quản lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc trao
thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty. Lý thuyết về đại diện cho rằng, nếu cả hai
bên trong mối quan hệ này (cổ đông và người quản lý công ty) đều muốn tối đa hóa lợi ích của
mình, thì có cơ sở để tin rằng người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất
cho người chủ, tức các cổ đông. Mối quan hệ đại diện còn thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà quản


lý cấp cao với nhà quản lý các cấp thấp hơn trong hệ thống phân quyền, giữa nhà quản lý với người
trực tiếp sử dụng các nguồn lực của tổ chức.
Xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và bất cân xứng giữa chủ thể và đại diện trong
công ty. Cả hai bên có lợi ích khác nhau và vấn đề này được giảm thiểu bằng cách sử dụng các cơ
chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, thông
qua thiết lập những cơ chế đãi ngộ thích hợp cho các nhà quản trị, và thiết lập cơ chế giám sát hiệu

quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty.
Hợp đồng tối ưu giữa nhà quản trị với nhà đầu tư, thỏa thuận thù lao và tiền thưởng của nhà quản trị,
giải pháp dung hòa lợi ích giữa nhà quản trị DN (và chủ DN) với lợi ích của nhà đầu tư bên ngoài.
Những hợp đồng này thường yêu cầu DN phải sử dụng thông tin được cung cấp bởi hệ thống KTQT
như: hệ thống ngân sách, thông tin kiểm soát chi phí, phân bổ các nguồn lực. .. để nhà đầu tư đánh
giá sự tuân thủ những cam kết trong hợp đồng và đánh giá nhà quản trị DN có quản trị các nguồn
lực của công ty gắn với lợi ích của nhà đầu tư bên ngoài.
Lý thuyết đại diện giải thích vì sao phải áp dụng hệ thống kế toán trách nhiệm trong DN và đối với
các công ty cổ phần, công ty niêm yết hệ thống KTQT cần cung cấp những thông tin gì để đảm bảo
lợi ích cho các nhà đầu tư và các cổ đông. Lý thuyết đại diện cũng là cơ sở để xây dựng các báo cáo
nội bộ trong DN, các báo cáo đánh giá trách nhiệm phù hợp với hệ thống phân quyền trong các DN
Việt Nam

Kế hoạch trả lương, thưởng bằng cổ phiếu tác động đến người điều hành như sau:
1. Lợi ích của chính người điều hành
Xét về phía người điều hành, việc nhận một phần lương bằng cổ phiếu đem lại lợi ích khá rõ.
Thứ nhất, người điều hành sẽ tiết kiệm được một số tiền không nhỏ sau vài năm. Trong điều kiện
DN kinh doanh tăng trưởng tốt và bền vững, cổ phiếu được nắm giữ hứa hẹn sẽ đem lại mức giá cao
gấp nhiều lần mệnh giá.
Thứ hai, trong thời kì chưa được phép sang nhượng cổ phiếu, nhà đầu tư vẫn được Cty trả mức cổ
tức khá cao, giả sử mức trung bình là 20%/năm thì mức này vẫn cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm (kể cả
so với mức lãi suất huy động trong thời điểm hiện nay).
Thứ ba, khi đã là chủ sở hữu thực sự, người điều hành sẽ có kỷ luật và năng suất điều hành tốt hơn
cùng với ý thức tiết kiệm và bảo vệ tài sản chung. Điều này rất dễ hiểu bởi khi đã là người chủ sở
hữu của DN, bất kì thiệt hại nào đối với DN cũng chính là thiệt hại đối với bản thân người chủ sở
hữu.
Thời gian khống chế không sang nhượng cổ phiếu không phải là rào cản lớn đối với người điều hành
bởi vì đây là khoảng thời gian cần thiết để duy trì sự ổn định và tâm lý gắn bó trong đội ngũ. Bởi



DN cần mọi người gắn bó hơn bằng sức lực của mình chứ không phải là đem lại cho họ một cơ hội
làm giàu siêu tốc theo kiểu được mua cổ phiếu ưu đãi rồi bán ngay. Không những vậy, nhiều giám
đốc DN cho rằng lợi ích là khi cùng chung sức với Cty là trong thời gian dài hạn.

2. Song hành cùng lợi ích DN
Phương pháp trả lương bằng cổ phiếu cũng có tác dụng rất rõ đối với DN. Trước hết phải kể đến
lượng tiền mặt không phải dùng để trả lương và có thể sử dụng vào mục đích kinh doanh. Giả sử
DN tiết kiệm được khoảng 10% tổng lương của 500 nhân viên, mức lương trung bình của một người
là 2,5 triệu đồng, suy ra mỗi tháng DN đã có thể sử dụng hàng trăm triệu tiền mặt sử dụng vào mục
đích phát triển kinh doanh. "Tiền mặt là vua" giúp tăng tính thanh khoản và khả năng trả nợ ngắn
hạn của DN. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi ngay cả "kho chứa tiền" của nền kinh tế là các
ngân hàng cũng không thừa tiền mặt, thì những đồng tiền tự có lại càng đáng quý.
Ngoài khoản tiền mặt quý giá, DN còn có được sự gắn bó của đội ngũ nhân viên do lúc này họ đã
trở thành chủ sở hữu thực sự của DN. Đội ngũ nhân lực là tài sản quý giá nhất của DN vì vậy không
còn gì may mắn hơn khi người điều hành đang làm việc vì lợi ích và tương lai của chính bản thân
họ. Ngoài ra, mâu thuẫn lợi ích thường thấy trong các Cty đại chúng - giữa chủ sở hữu và đội ngũ
quản lí - cũng được tháo gỡ, do lúc này đội ngũ quản lí cũng đã trở thành chủ sở hữu của DN.
Quyền chọn mua cổ phiếu, về bản chất là việc một Cty cấp cho nhân viên của mình quyền được mua
cổ phiếu của chính Cty đó tại một thời điểm xác định trước, với mức giá xác định tại thời điểm phát
hành quyền chọn đó. Ví dụ, ngày 31/10/2007 Cty ABC công bố thưởng cho giám đốc điều hành
quyền được mua 10.000 CP của ABC vào ngày 30/9/2010 với mức giá 700.000 đồng/CP. Nếu tại
ngày 30/9/2010 giá cổ phiếu ABC là 800.000 đồng/CP, người giám đốc điều hành này có thể mua
10.000 CP với mức giá 700.000 đồng sau đó bán ra thị trường với giá 800.000 đồng và được lời 1 tỷ
đồng.

3. Rủi ro và lợi nhuận
Ít nhất về mặt nguyên tắc, ban quản trị của công ty cố gắng dùng thù lao hậu hỉnh để khích lệ các
giám đốc điều hành (CEO) hành động phù hợp với lợi ích của công ty. Ý tưởng ở đây là thành tích
của một CEO giúp tạo ra giá trị cho tổ chức. “Trả lương cao để có thành tích tốt” là câu thần chú
được hầu hết các công ty sử dụng khi họ cố gắng giải thích những kế hoạch trả lương của họ.

Mọi người có thể sẽ ủng hộ ý tưởng trả thù cao để có thành tích tốt nhưng ý tưởng này ngầm đặt các
CEO vào tình huống rủi ro: tài sản của họ sẽ tăng hoặc giảm cùng với tài sản của công ty. Khi xem
xét chính sách trả lương của các công ty, bạn nên xem xem các CEO có lợi ích đến đâu khi làm lợi


cho nhà đầu tư. Chúng ta hãy cùng xem cách các hình thức trả lương khác nhau tạo ra rủi ro cho các
CEO nếu họ không đạt được thành tích tốt.
Hiệu quả công việc có thể được đo lường bằng nhiều yếu tố, như lợi nhuận hay tăng trưởng doanh
thu, hệ số thu nhập trên vốn cổ phần, hoặc tăng giá cổ phiếu. Tuy nhiên, dùng những cách đơn giản
để xác định mức thù lao trả cho thành tích có thể sai lầm. Các số liệu tài chính và mức tăng giá cổ
phiếu hàng năm không phải lúc nào cũng đo lường được hiệu quả công việc của một nhà điều hành.
Các CEO có thể bị phạt một cách không công bằng vì những sự kiện ít khi xảy ra cũng như những
lựa chọn khó khăn làm giảm thành tích hoặc tạo ra phản ứng tiêu cực từ thị trường. Hội đồng quản
trị có trách nhiệm đặt ra một bộ đo lường để đánh giá mức độ hiệu quả của giám đốc điều hành.

Tóm lại, đánh giá mức thù lao của CEO cũng cần một chút cân nhắc. Việc diễn giải các con
số không đơn giản chút nào. Dẫu sao, thì các nhà đầu tư cũng cần có ý niệm về cách mà chế độ thù
lao tạo ra hoặc làm mất đi động lực để các nhà điều hành cấp cao làm việc vì lợi ích của cổ đông.


Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Viện Sau đại học

Học thuyết kế toán
Đề bài: Đề số 01

Câu 1: Phân tích cơ sở của khái niệm lợi nhuận nắm giữ theo mô hình giá hiện hành. Việc ghi nhận
lợi nhuận nắm giữ ảnh hưởng thế nào tới báo cáo tài chính và mô hình ra quyết định.
Trả lời:
a.


Phân tích cơ sở của khái niệm lợi nhuận nắm giữa theo mô hình giá hiện hành
Theo mô hình giá hiện hành, “Lợi nhuận nắm giữ” (Hoặc “lãi lỗ do nắm giữ”) hay “khoản tiết

kiệm chi phí có thể thực hiện” được hiểu là phần tăng lên của giá hiện hành của tài sản được doanh
nghiệp nắm giữ trong kỳ hiện hành1.
Hãy đi từ ví dụ đơn giản nhất về tài chính của một người cụ thể. Giả sử ngày đầu tháng bạn có
trong tay 3 chiếc iphone X được mua với giá 30 triệu đồng/chiếc và không có ý định dùng mà chỉ giữ
với mục đích để bán nó. Với kỳ kế toán của bạn là 1 tháng và bạn luôn muốn chắc chắn rằng mình sẽ
duy trì 3 chiếc iphone X trong tay. Đến cuối tháng, giá trị của 1 chiếc iphone X tăng lên 35 triệu
đồng/chiếc. Ở ngày cuối tháng, nhờ khả năng tiếp thị sản phẩm tốt và uy tín của bản thân, bạn bán
được 1 chiếc iphone X với giá 41 triệu đồng. 2 chiếc còn lại bạn vẫn chưa bán. Như vậy, tới cuối
tháng, hãy cùng tính toán lại những gì bạn đang có: (i) 2 chiếc iphone X bạn đang còn đó với giá khi
mua là 30 triệu đồng/chiếc. Giờ giá thị trường là 35 triệu đồng/chiếc, vậy là nếu chốt ở cuối tháng, 2
chiếc iphone X này đã tăng giá trị lên 5 triệu đồng mỗi chiếc cho bạn; (ii) Bạn luôn muốn chắc chắn
1 Tham khảo tại cuốn “Những vấn đề cơ bản của Lý thuyết kế toán” – tác giả Vũ Hữu Đức

13


rằng bạn sẽ có sẵn sàng trong tay 3 chiếc iphone X nên bạn chắc chắn sẽ mua 1 chiếc khác thay cho
chiếc đã bán để đảm bảo có 3 chiếc trong tay, vậy nên bạn xác định rằng với 41 triệu bán được, lợi
nhuận kinh doanh của bạn ở thời điểm cuối tháng được để ra, cất riêng ra là 6 triệu (40 triệu – 35 triệu
để mua iphone X khác); (iii) Khi bạn mua bổ sung chiếc iphone X mới với giá 35 triệu để đảm bảo
rằng bạn luôn sở hữu 3 chiếc iphone, lúc này, so với đầu tháng chiếc iphone X này giá trị hơn 5 triệu.
Hay nói cách khác việc bạn giữ chiếc iphone từ đầu tháng đến cuối tháng, ngay liền trước khi bán
chiếc iphone X đó, thì nó đã mang lại cho bạn khoản lợi nhuận là 5 triệu (35 triệu giá iphone X mới –
30 triệu giá iphone X cũ).
Qua ví dụ ở trên, có thể thấy, bằng việc sử dụng giá tại thời điểm hiện hành (cuối tháng) giúp
chúng ta xác định được giá trị hiện hành của tài sản hiện có cũng như lợi nhuận phát sinh trong kỳ từ

các tài sản này. Về cơ bản, xét ở trường hợp đơn giản, việc này mang đến đánh giá phù hợp về tài sản,
lợi nhuận thu được ở thời điểm cuối tháng với điều kiện như đề ra ban đầu.
Bây giờ, hãy cùng phân tích lại ví dụ trên tương ứng với các vấn đề mà mô hình giá hiện hành đưa
ra:
1. Bán hay nắm giữ
Ở ví dụ trên, chúng ta đều thấy rằng vấn đề quyết định bán hay nắm giữ chiếc iphone X của bạn
sẽ quyết định lợi nhuận/mức tăng về giá trị quy đổi có thể thực hiện được của tài sản bạn nắm giữ.
Trong doanh nghiệp cũng vậy, người quản lý thường sẽ phải lựa chọn việc quyết định bán đi hay nắm
giữ (đối với tài sản), thanh toán hay tiếp tục duy trì công nợ. Ngoài ra, nhà quản lý cũng phải đưa ra
các quyết định hoạt động liên quan đến việc sử dụng nguồn lực và tài trợ cho doanh nghiệp.
Trong mô hình giá hiện hành, để đánh giá các quyết định của nhà quản lý nêu trên, Edward et al.
đề xuất một khái niệm lợi nhuận gọi là “lợi nhuận kinh doanh”, bao gồm: (i) Lợi nhuận hoạt động
kinh doanh hiện hành (current cost profit) là phần chênh lệch giữa giá bán của đầu ra và giá hiện hành
của đầu vào liên quan (thay vì theo giá quá khứ trong hệ thống giá gốc); và (ii) Lãi lỗ (hay lợi nhuận)
do nắm giữ hoặc khoản tiết kiệm chi phí có thể thực hiện (realisable cost savings) là phần tăng lên của
giá hiện hành của tài sản được doanh nghiệp nắm giữa trong kỳ hiện hành. Như vậy, nó bao gồm cả
phần thay đổi giá đã thực hiện và chưa thực hiện.
Với lý thuyết trên đây, ta thấy phần Lợi nhuận hoạt động kinh doanh hiện hành được xác định “là
phần chênh lệch giữa giá bán của đầu ra và giá hiện hành của đầu vào liên quan (thay vì theo giá quá
khứ trong hệ thống giá gốc)”. Phần này chính là 6 triệu đồng mà bạn xác định ở ví dụ ban đầu, phần
chênh lệch giữa giá bán 41 triệu và giá ở thời điểm cuối tháng là 35 triệu do bạn xác định bạn sẽ luôn

14


muốn phải nắm giữ 3 chiếc iphone X. Việc xác định này chính là do Quan điểm bảo toàn vốn hiện vật2
hay Khái niệm bảo toàn năng lực vật chất của vốn (phisycal capital maintenance)3 sẽ được đề cập ở
phần sau đây.
Trong khi đó, phần lợi nhuận nắm giữ đã thực hiện chính là giá trị 5 triệu ở ý (iii) phần ví dụ do
chênh lệch giá hiện hành và giá gốc của chiếc iphone X đã bán. Còn phần lợi nhuận nắm giữ chưa

thực hiện là giá trị 10 triệu ở ý (i) do việc giữ lại 2 chiếc iphone X có giá gốc 30 triệu, nay trên thị
trường giao dịch với giá 35 triệu đồng.
2. Khái niệm bảo toàn năng lực vật chất của vốn (phisycal capital maintenance)
Khác với khái niệm bảo toàn vốn về mặt tài chính được đề cập ở kế toán mức giá chung, bảo toàn
vốn về mặt năng lực vật chất yêu cầu vốn phải được bảo toàn dưới góc độ tái tạo nguồn lực cho việc
tiếp tục kinh doanh4.
Hãy cùng xem lại ví dụ ở trên với 1 cá nhân sở hữu 3 chiếc iphone X và luôn muốn duy trì lúc
nào cũng sẵn sàng 3 chiếc iphone X để thấy rõ hơn điều này. Rõ ràng, nếu xét theo phương pháp giá
gốc, khi bạn bán được 1 chiếc iphone X với giá 41 triệu đồng, so với giá mua ban đầu là 30 triệu đồng,
bạn đang có lãi 11 triệu đồng. Nhưng lúc này, trên thị trường, giá để mua 1 chiếc iphone X không còn
là 30 triệu đồng nữa mà đã là 35 triệu đồng. Do vậy, xét trên quan điểm bảo toàn vốn theo năng lực
sản xuất hay bảo toàn năng lực vật chất của vốn thì lợi nhuận mà bạn thu được từ hoạt động kinh
doanh (bán 1 chiếc iphone X) chỉ là 6 triệu (41 triệu đồng giá bán – 35 triệu đồng giá ở cuối tháng của
chiếc iphone X, hay chính là chi phí để bạn bảo toàn rằng bạn duy trì có sẵn 3 chiếc iphone X).
Đó là góc độ của 1 cá nhân, còn với doanh nghiệp thì sao? Việc bảo toàn vốn theo năng lực sản
xuất này có ý nghĩa như thế nào? Hãy phân tích ví dụ sau để thấy được sự cần thiết của việc xem xét
quan điểm bảo toàn vốn này: Giả sử một Công ty có vốn đầu tư ban đầu là 5.000 USD. Công ty này bỏ
toàn bộ số tiền này ra để mua 50 đơn vị hàng hóa. Cuối kỳ, công ty này bán được 40 đơn vị hàng hóa
với giá 120 USD/đơn vị. Cũng ở cuối kỳ, giá loại hàng hóa này trên thị trường là 110 USD/đơn vị. Với
giả định không có chi phí nào khác ngoài giá vốn hàng bán. Chúng ta sẽ xác định lợi nhuận của công
ty theo phương pháp giá gốc và giá hiện hành qua bảng sau:
Nội dung
Đơn giá mua ban đầu (USD/đơn vị)
Lượng hàng mua trong kỳ (Đơn vị)
Lượng hàng bán cuối kỳ (Đơn vị)
Đơn giá bán (USD/đơn vị)
Đơn giá hiện hành mua bán trên thị trường (USD/đơn vị)

Giá gốc


Giá hiện hành
100
50
40
120
110

2 Bài viết Mô hình giá hiện hành trong kế toán: Nhìn từ góc độ kinh tế học của ThS Nguyễn Tuấn Duy – Công ty Thẩm
định giá và Đại lý thuế Việt Nam đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ I, số tháng 7/2016
3, 4 Tham khảo cách dịch tại cuốn Những vấn đề cơ bản của Lý thuyết Kế toán – tác giả Vũ Hữu Đức

15


Doanh thu (USD)
4.800
4.800
Giá vốn hàng bán (USD)
4.000
4.400
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh (USD)
800
400
Lãi do nắm giữ (đã thực hiện) (USD)
N/A
400
Lãi do nắm giữ (chưa thực hiện) (USD)
N/A
100
Tổng lợi nhuận (USD)

800
900
Bây giờ, hãy tiếp tục xem xét vấn đề tài chính của Công ty này khi ra quyết định phân phối lợi nhuận.
Giả sử, Công ty sẽ thực hiện phân phối hết số lợi nhuận có được từ hoạt động kinh doanh. Theo
phương pháp giá gốc, Công ty sẽ tiến hành chia cổ tức toàn bộ 800 USD thu được. Lúc này, về mặt tài
chính, giá trị công ty sẽ được xác định như sau:
Tiền thu từ bán hàng (USD)
4.800
Chia cổ tức = lợi nhuận hoạt động kinh doanh (USD)
800
Còn lại (USD)
4.000
Hàng tồn kho còn lại (=10 đơn vị hàng hóa x 100 USD/đơn vị) (USD)
1.000
Tổng cộng (USD)
5.000
Tuy vậy, khi xem xét dưới góc độ bảo toàn vốn theo năng lực vật chất: Ở thời điểm cuối kỳ, với
số tiền 4.000 USD, Công ty sẽ không thể mua được 40 đơn vị hàng hóa như đã bán đi bởi lúc này giá
hiện hành trên thị trường của hàng hóa đã là 110 USD/đơn vị. Tức là với 4.000 USD thì Công ty chỉ
có thể mua được 4.000/110 ≈ 36 đơn vị. Hay nói cách khác, Công ty đang bị mất vốn nếu xét theo góc
độ bảo toàn vốn theo năng lực vật chất. Theo quan điểm bảo toàn năng lực vật chất của vốn này, để
đảm bảo mua lại hàng hóa với số lượng như đầu kỳ, Công ty A sẽ chỉ chia cổ tức theo lợi nhuận hoạt
động kinh doanh tính theo phương pháp giá hiện hành là 400 USD mà không tính đến lợi nhuận do
nắm giữ (cả đã thực hiện và chưa thực hiện).
3. Giả định đơn vị hoạt động liên tục
Như đã phân tích ở các ví dụ ở trên, để áp dụng phương pháp giá hiện hành, một giả định phải
được duy trì xuyên suốt đó là giả định đơn vị hoạt động liên tục. Trường hợp của cá nhân là việc cá
nhân này sẽ tiếp tục duy trì nắm giữ 3 chiếc iphone X để bán hay với doanh nghiệp thì là doanh nghiệp
này sẽ tiếp tục hoạt động trong tương lai và với mục tiêu duy trì lượng hàng hóa để tiếp tục hoạt động.
Nếu bỏ giả định này, các phân tích xác định lãi lỗ sẽ không còn ý nghĩa nữa.

Tóm lại, ở mô hình giá hiện hành, với giả định đơn vị hoạt động liên tục, cơ sở để hình thành nên
khái niệm lợi nhuận nắm giữ là: (i) Sự biến động về giá hiện hành của tài sản mà doanh nghiệp nắm
giữ; và (ii) Khái niệm bảo toàn năng lực vật chất của vốn.
b. Việc ghi nhận lợi nhuận nắm giữ ảnh hưởng thế nào tới báo cáo tài chính và mô hình ra
quyết định

16


Với Báo cáo tài chính: Một số nội dung có thể dễ dàng nhận thấy sẽ ảnh hưởng tới việc trình bày
báo cáo tài chính như chỉ tiêu lợi nhuận sẽ có sự khác biệt khi giờ đây, lợi nhuận kinh doanh sẽ bao
gồm (i) Lợi nhuận kinh doanh hiện hành và (ii) Lợi nhuận do nắm giữ (đã thực hiện và chưa thực
hiện). Việc phân tách rõ ràng lợi nhuận kinh doanh theo hướng này sẽ đi vào bản chất của khoản lợi
nhuận tạo ra là do quá trình kinh doanh trong kỳ hay do biến động tăng/giảm của giá hiện hành của tài
sản được nắm giữ. Theo đó, nếu ở thời điểm lập báo cáo, giá hiện hành của tài sản tăng lên đồng nghĩa
với việc lợi nhuận nắm giữ của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên làm cho lợi nhuận kinh doanh tính theo
phương pháp giá hiện hành sẽ cao hơn so với phương pháp giá gốc và ngược lại. Do đó, nếu không có
sự nhanh nhạy với biến động thị trường, doanh nghiệp hoàn toàn có thể phải chịu lỗ do việc nắm giữ
tài sản nếu giá hiện hành giảm so với giá gốc ban đầu. Một người quản lý tốt, nắm bắt được biến động
thị trường sẽ tạo ra tổng lợi nhuận kinh doanh gồm cả lợi nhuận kinh doanh hiện hành và lợi nhuận do
nắm giữ tối ưu nhất. Điều này khác biệt tương đối lớn với việc chỉ đơn thuần nhìn vào chênh lệch
doanh thu – giá vốn ban đầu của mô hình giá gốc. Do vậy, khi nhìn vào các chỉ tiêu này, cùng với các
thông tin về biến động giá, người sử dụng báo cáo tài chính cũng có thể có cái nhìn tổng quan và phù
hợp hơn đối với việc ra quyết định của người quản lý doanh nghiệp để từ đó quyết định đầu tư/quyết
định tài chính phù hợp.
Với mô hình ra quyết định: Nhà quản lý thường phải đứng trước hai loại quyết định : (i) quyết
định nắm giữ liên quan đến việc giữ hay bán đi (đối với tài sản)/thanh toán (đối với nợ phải trả) và (ii)
quyết định hoạt động liên quan đến việc sử dụng nguồn lực và tài trợ cho doanh nghiệp4.
Mô hình giá hiện hành sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định có nắm giữ hay không của doanh
nghiệp. Nhà quản lý sẽ phải căn cứ vào biến động của thị trường cũng như dự báo trong tương lai để

đưa ra quyết định phù hợp nhất nhằm tối ưu hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp cả đối với tài sản và công
nợ. Trường hợp giá có biến động tăng và xu hướng được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong bối cảnh chi phí
sử dụng vốn không biến động đột biến, nhà quản lý sẽ có xu hướng nắm giữ tài sản cũng như tương
ứng với việc chưa thanh toán ngay các khoản công nợ và chờ tới thời điểm thích hợp để đạt được lợi
nhuận tốt nhất. Ngược lại, khi giá hiện hành tăng nhưng dự báo sẽ nhanh chóng quay đầu, nhà quản lý
cũng sẽ có quyết định bán ra phù hợp để có được lợi nhuận tối ưu nhất.
Trong khi đó, với việc xem xét lợi nhuận nắm giữ chưa thực hiện hay chính là dự báo về khả
năng sinh lời trong tương lai, nhà quản lý có thể dự kiến được khả năng sinh lời của hàng hóa trong
tương lai để có quyết định có tiếp tục mở rộng, đầu tư hay không. Tương tự, với các nhà đầu tư, ngân
hàng khi tín hiệu kinh doanh trong tương lai có dấu hiệu khả quan thông qua xem xét chỉ tiêu lợi
4 Tham khảo cuốn Những vấn đề cơ bản của Lý thuyết kế toán – tác giả Vũ Hữu Đức

17


nhuận nắm giữ chưa thực hiện và diễn biến, dự báo của thị trường, việc quyết định tiếp tục đầu tư,
tăng cấp tín dụng sẽ được đưa ra cho doanh nghiệp.
Bên cạnh những vấn đề cốt yếu nêu trên liên quan tới việc ra quyết định của nhà quản lý hay
các nhà đầu tư & các ngân hàng thì vấn đề trong cách thức xem xét, nhận định để ra quyết định của
các đối tượng này cũng sẽ có sự thay đổi. Theo mô hình giá hiện hành, lợi nhuận nắm giữ được xác
định với tất cả các tài sản của doanh nghiệp, cả với tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Với tài sản dài
hạn, việc xác định lợi nhuận nắm giữ có thể không phù hợp và nếu trong quá trình xem xét, ra quyết
định, không có sự xem xét đối với lợi nhuận nắm giữa chưa thực hiện của tài sản dài hạn do biến động
giá thì có thể dẫn tới quyết định sai lầm. Lý do bởi các tài sản dài hạn như tài sản cố định của doanh
nghiệp được đầu tư với mục đích sử dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, không nhằm mục đích để bán.
Hơn nữa, do là các tài sản dài hạn, nên có thể một số trường hợp sẽ không có giá hiện hành trên thị
trường để tham chiếu. Cùng với đó, giá trị hợp lý của các tài sản dài hạn đã qua sử dụng sẽ là kết quả
tính toán của các ước tính kế toán. Do vậy, trong quá trình xem xét, đánh giá lợi nhuận nắm giữ của
doanh nghiệp theo mô hình giá hiện hành cần hết sức lưu ý đối với các tài sản dài hạn này. Thậm chí,
ngay cả với trường hợp các tài sản không phải là tài sản dài hạn thì việc xác định giá hiện hành cũng

sẽ đòi hỏi sự đánh giá khách quan, từ thị trường tham chiếu dùng để xác định giá cho tới các cơ sở ước
tính suy giảm giá trị… Tóm lại, lúc này, ngoài việc xem xét thông thường trong quá trình ra quyết
định, người sử dụng thông tin sẽ cần xem xét một cách cụ thể việc xác định giá trị của lợi nhuận nắm
giữ trước khi đưa ra quyết định dựa trên thông tin đó.
Câu 2: Vận dụng lí thuyết thông tin bất cân xứng để phân tích các vấn đề về chính sách bảo hiểm xã
hội của Việt Nam hiện nay?
Trả lời
Trước khi đi vào phân tích các vấn đề về chính sách bảo hiểm xã hội (sau đây viết tắt là “BHXH”)
của Việt Nam hiện nay, hãy cùng tìm hiểu thế nào là thông tin bất cân xứng. Chúng ta đều biết rằng,
một trong các yếu tố để tạo nên một thị trường cạnh tranh hoàn hảo đó là tính hoàn hảo của thông tin.
Thông tin hoàn hảo là việc những người tham gia thị trường, bao gồm cả người bán và người mua, có
đầy đủ thông tin về điều kiện thị trường 5. Do vậy, khi thông tin không hoàn hảo, mà phần lớn trong
các trường hợp xảy ra trong thực tế xuất phát từ việc bất cân xứng thông tin, sẽ dẫn đến thị trường
không còn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo nữa. Khi đó, các vấn đề không thuận lợi với ngành hàng
nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ xuất hiện, thậm chí có thể dẫn tới sự đình trệ, sụp đổ. Khái niệm
thông tin bất cân xứng được dùng để đề cấp đến các tình huống mà trong đó, một số thành phần tham
5 Tham khảo “Economics principles v.1.1” – Libby Rittenberg, Tim Tregarthen

18


gia trong giao dịch sở hữu thông tin trong khi các thành phần khác cùng tham gia lại không có thông
tin6. Cũng có quan điểm cho rằng bất cân xứng thông tin có thể xảy ra khi các bên tham gia giao dịch
cố tình che đậy thông tin, người mua không có thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời nên dẫn tới trả
giá thấp hơn giá trị thực của hàng hóa7. Như vậy, dù trong định nghĩa và cách hiểu nào thì thông tin
bất cân xứng đều mô tả tình huống mà trong đó những người tham gia tương tác nắm giữ các thông tin
khác nhau về giá trị, chất lượng của tài sản, dịch vụ đang được giao dịch trên thị trường.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng đã được nghiên cứu từ khá lâu mà trọng tâm về vấn đề thông tin
bất cân xứng trong kinh tế đã được George Akerlof chỉ ra trong bài viết năm 1970 với tựa đề “The
Market Lemons”. Với cụm từ “quả chanh” (lemon) để chỉ những chiếc xe hơi đã qua sử dụng. Akerlof

đã bắt đầu lưu ý rằng người sở hữu chiếc xe hơi hiểu rõ hơn bất kỳ người mua nào khác về chiếc xe
của mình. Và theo đó, thị trường xe hơi đã qua sử dụng không thể tránh khỏi sự mất cân xứng về
thông tin8. Ông đặt ra câu hỏi điều gì sẽ xảy ra với thị trường xe hơi đã qua sử dụng nếu người mua
không thể phân biệt được đâu là chiếc xe còn tốt. Giả sử người mua sẵn sàng trả 1.000 USD cho một
chiếc xe tốt (mà Akerlof gọi là quả đào) và 500 USD cho một chiếc xe hay gặp trục trặc (quả chanh).
Nếu xe cũ và xe mới khác nhau một trời một vực như chanh và đào, đó là trạng thái thị trường minh
bạch và không ai chịu thiệt. Nhưng nếu không thể phân biệt đâu là chanh đâu là đào, người mua sẽ
hành động khác. Họ trả 750 USD cho một chiếc xe mà họ không biết là chanh hay đào. Vấn đề nằm ở
chỗ người bán biết chắc chắn chiếc xe đó là gì, và sẽ từ chối không bán với giá 750 USD. Người mua
thông minh sẽ suy diễn ngược lại: nếu người bán chấp nhận mức giá 750 USD thì chiếc xe đó chắc
chắn chỉ là chanh, do đó lại giảm giá xuống còn 500 USD. Cuối cùng chiếc xe cũng được bán với mức
giá đúng thực tế, nhưng tình trạng bất cân xứng thông tin khiến chẳng có quả đào nào được bán ra.
Đây là tình trạng lựa chọn bất lợi (adverse selection)9.
Đó là khái niệm về thông tin bất đối xứng và ví dụ của Akerlof với thị trường xe hơi đã qua sử
dụng. Còn trong lĩnh vực BHXH của Việt Nam, việc bất cân xứng thông tin có xảy ra hay không?
Trước tiên, hãy cùng xác định các đối tượng tham gia vào lĩnh vực này ở Việt Nam. Để tập trung phân
tích, xin chỉ đi vào các đối tượng tham gia và có quyền lợi, nghĩa vụ trực tiếp nhất: (i) Cơ quan BHXH
và (ii) Người đóng BHXH – mà chủ yếu là người lao động.
(i)

Với cơ quan BHXH

6 Bài phân tích Asymmetric Information của Quy – Toan Do – The World Bank, đăng tải trên trang thông tin của
worldbank.
7 Bài viết Lý thuyết bất cân xứng thông tin – thực trạng trên thị trường chứng khoán Việt Nam của tác giả Dương Ngân
Hà đăng tại Tạp chí Chứng khoán và trang web của Ủy ban chứng khoán Nhà nước
8 Theo A Nobel Prize for Asymmetric Information: The economic contributions of George Akerlof, Michael Spence, and
Joseph Stiglitz – J. Barkley Rosser, Jr. James Madison University
9 Thông tin bất cân xứng: Đâu là chanh, đâu là đào? – Thu Hương – Cafef


19


1. Không có đầy đủ thông tin để xác định một cách đầy đủ các đối tượng tham gia BHXH cũng
như đối tượng được bảo hiểm: Theo quy định hiện nay thì đối tượng tham gia đóng BHXH bao gồm
người lao động và người sử dụng lao động với tỷ lệ đóng BHXH lần lượt là 8% và 17,5% tiền lương
đóng bảo hiểm (Chỉ tính BHXH, chưa tính BHYT, BHTN) 10. Còn đối tượng được bảo hiểm là thu
nhập của người lao động bị mất, giảm trong trường hợp có xảy ra các rủi ro trong quá trình lao động
như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ hưu,… Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, BHXH Việt
Nam thiếu thông tin đối với cả 2 nội dung này.
Mặc dù đã có quy định rất cụ thể tại luật BHXH số 58/2014/QH13, nghị định 115/2015/NĐ-CP và
các thông tư, quyết định hướng dẫn về đối tượng thuộc diện tham gia đóng BHXH cũng như đối tượng
được bảo hiểm (lương, thu nhập của người lao động), tuy nhiên, do thiếu hụt thông tin dẫn tới việc cơ
quan BHXH Việt Nam hiện nay vẫn chưa thể kiểm soát được cả về đối tượng tham gia cũng như đối
tượng được bảo hiểm. Điều này dẫn tới không ít trường hợp trong thực tế, nhiều doanh nghiệp né
tránh, không tham gia đóng BHXH hoặc tham gia nhưng không đầy đủ cho tổng số lao động hiện có
của doanh nghiệp thuộc đối tượng phải tham gia BHXH. Hoặc có những trường hợp tham gia BHXH
nhưng lại tham gia với mức lương làm căn cứ đóng BHXH (chính là đối tượng được bảo hiểm) thấp
hơn lương,thu nhập thực trả cho người lao động.
Từ 1/1/2016, Chính phủ đã có sự điều chỉnh trong Luật BHXH cũng như các nghị định, thông tư
hướng dẫn theo hướng quy định mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm sẽ bao gồm lương và các
khoản phụ cấp lương theo quy định về lao động ghi trong hợp đồng lao động và từ 1/1/2018 là mức
lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật ghi trong hợp đồng lao
động. Điều này nhằm hạn chế tình trạng doanh nghiệp cố tình né tránh việc phải đóng BHXH bằng
cách ghi giảm mức lương trên hợp đồng và tăng các khoản bổ sung, phụ cấp. Mặc dù vậy, các quy
định hiện nay vẫn chưa thực sự triệt để. Các doanh nghiệp vẫn tìm cách hạn chế tối đa mức tiền lương
đóng BHXH bằng cách chuyển các khoản thu nhập của người lao động thành các khoản bổ sung khác
như tiền thưởng, các khoản trợ cấp không liên quan đến công việc, chức danh trong hợp đồng, hay
thậm chí là tăng thuê lao động thời vụ,…
2. Thiếu cơ sở dữ liệu quản lý tập trung: cơ quan BHXH Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế

trong việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm quản lý một cách tập trung dữ liệu của người tham gia
bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm. Việc thiếu cơ sở dữ liệu này không chỉ ảnh hưởng tới bản thân cơ
quan BHXH mà ảnh hưởng trực tiếp cả tới người lao động, người sử dụng lao động trong việc đối
chiếu, kiểm tra. Hiện nay, mới chỉ có một số đơn vị BHXH của một số tỉnh, thành phố lớn triển khai
10 QĐ 595QĐ-BHXH ngày 14/04/2017 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

20


việc khai báo dữ liệu tập trung và cho phép truy xuất thông tin. Tuy nhiên, thông tin truy xuất còn rất
hạn chế. Trong khi việc quản lý lao động nói riêng cũng như quản lý dân cư ở Việt Nam nói chung còn
rất sơ khai, chủ yếu thực hiện thủ công thì với việc lao động thường xuyên thay đổi, biến động, việc
kiểm soát thông tin đóng, hưởng bảo hiểm là rất khó khăn. Thực tế đã có không ít trường hợp dựa vào
sự quản lý thiếu tập trung này để trục lợi cá nhân.
3. Không liên kết, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước khác: Như đã đề cập ở
trên, cơ quan BHXH Việt Nam hiện nay chưa có dữ liệu, thông tin để kiểm soát được cả đối tượng
tham gia bảo hiêm xã hội lẫn đối tượng được bảo hiểm. Việc này một phần xuất phát từ sự rời rạc,
thiếu liên kết giữa các cơ quan quản lý nhà nước như giữa BHXH với cơ quan công an để liên kết
thông tin về người dân, người lao động, giữa BHXH với cơ quan thuế để kiểm soát thông tin liên quan
tới thuế TNCN, tới đối tượng được bảo hiểm là lương, thu nhập của người lao động,… Điều này cũng
một phần xuất phát từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của Việt Nam còn hạn chế, thiếu đồng bộ và
không đầy đủ. Ở các nước tiên tiến, với 1 mã số định danh cá nhân, các cơ quan quản lý nhà nước có
thể truy xuất được các thông tin liên quan tới cư dân của mình thì ở Việt Nam, việc này hầu như vẫn
thực hiện thủ công thông qua việc xác nhận bằng giấy tờ.
(ii) Người lao động
1. Thông tin, hiểu biết về BHXH của người lao động là vô cùng hạn chế: Ngoại trừ một bộ phận
nhỏ những người lao động được đào tạo bài bản thì đa phần lao động của Việt Nam là lao động thủ
công, ít được đào tạo, trang bị đầy đủ kiến thức liên quan tới BHXH. Điều này dẫn tới việc người lao
động – đối tượng tham gia bảo hiểm thiếu hụt, thậm chí là không biết tới những thông tin về bản chất,
mục đích của BHXH, về quyền lợi, nghĩa vụ, điều kiện, hồ sơ, thủ tục,… Hậu quả là người lao động

không nhận thức được ý nghĩa, sự quan trọng của BHXH và quyết định tham gia hay không tham gia,
với họ, không còn quan trọng. Điều này cũng dẫn tới việc đấu tranh để đảm bảo quyền lợi BHXH của
người lao động không nhiều khiến cho người sử dụng lao động càng có cơ hội để thỏa thuận, điều
chỉnh thông tin đóng BHXH theo hướng có lợi cho người sử dụng lao động. Thậm chí, nhiều trường
hợp trốn đóng BHXH, sợ đóng BHXH làm giảm thu nhập. Những điều này đều ảnh hưởng không tích
cực tới ý nghĩa và mục tiêu của BHXH.
2. Người lao động thiếu công cụ để tra cứu, quản lý thông tin: Như đã đề cập ở trên về việc
thiếu cơ sở dữ liệu tập trung của BHXH Việt Nam hiện nay khiến cho việc truy xuất, kiểm tra dữ liệu
liên quan tới quá trình tham gia BHXH của người lao động gặp phải nhiều hạn chế. Khi việc tra cứu
thông tin không thuận tiện, phải trải qua nhiều thủ tục hành chính rườm rà sẽ khiến cho người tham gia
bảo hiểm mất niềm tin vào việc đóng BHXH.

21


Ngoài các thông tin trực tiếp liên quan mỗi người lao động, thời gian gần đây, những thông tin về
việc mất cân đối thu chi BHXH, về nguy cơ vỡ quỹ,… càng khiến cho người lao động thiếu hụt niềm
tin. Điều này một lần nữa xuất phát từ sự thiếu minh bạch thông tin quỹ BHXH, thông tin về tình hình
thu chi quỹ tổng quan. Trong khi hiện tượng tham nhũng, gian lận mang tính đạo đức của bộ phận
không nhỏ công chức thời gian qua cũng khiến người lao động cân nhắc trong quyết định tham gia
BHXH.
3. Sự thiếu ổn định trong chính sách và việc triển khai công bố, tuyên truyền thông tin chậm:
Những năm gần đây, chính sách liên quan tới BHXH liên tục có sự thay đổi. Từ việc điều chỉnh các tỷ
lệ đóng bảo hiểm, điều chỉnh mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm tới các đề xuất thay đổi cách
tính lương hưu,… khiến cho bộ phận không nhỏ người lao động không “bắt kịp” thông tin và cảm
thấy thiếu yên tâm với việc tham gia BHXH. Những thay đổi này khiến ngay cả những người thực
hiện công tác tính toán tại các doanh nghiệp cũng gặp phải không ít khó khăn. Trong khi đó, các thông
tin tuyên truyền, phổ biến về BHXH còn rất hạn chế, đặc biệt là với các đối tượng lao động phổ thông,
lao động thủ công.
Hậu quả của việc thông tin bất cân xứng trong thị trường BHXH, xuất phát từ những vấn đề

nêu trên, đó là:
(i) Sự lựa chọn ngược hay lựa chọn bất lợi (Adverse selection – AS): Đặc thù của bảo hiểm là
sản phẩm vô hình, chỉ có thể đánh giá được chất lượng khi xảy ra rủi ro và khi đối tượng được bảo
hiểm được chi trả, chia sẻ rủi ro. Do vậy, có thể xuất hiện nhiều sự lựa chọn bất lợi như người lao động
không tham gia BHXH hoặc tham gia với mức tiền lương thấp do không thấy được các lợi ích lâu dài
của bảo hiểm. Điều này dẫn tới việc khi xảy ra rủi ro, có thể, người lao động sẽ không nhận được trợ
cấp hoặc nhận với mức thấp hơn. Ở chiều ngược lại, phía cơ quan bảo hiểm cũng sẽ chịu những tác
động của sự lựa chọn ngược khi người lao động là người chủ động thông tin về đối tượng được bảo
hiểm. Trong những trường hợp những rủi ro, sự kiện có thể dự đoán trước được, người lao động có thể
có xu hướng hợp thức hóa hồ sơ tham gia BHXH với mức lương làm cơ sở đóng bảo hiểm ở mức cao
nhằm được hưởng mức bảo hiểm. Bản chất của bảo hiểm là bù đắp từ những người không/chưa phát
sinh rủi ro cho những người phát sinh rủi ro. Việc lựa chọn không tham gia hoặc tham gia với mức
thấp của người lao động cùng với việc chủ động hợp thức hóa thông tin nhằm hưởng mức được bảo
hiểm cao như ví dụ ở trên dẫn tới nhiều nguy cơ mất cân đối thu – chi của quỹ bảo hiểm nếu cơ quan
BHXH không có ứng xử phù hợp.
(ii) Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại (moral hazard – MH): Về lý thuyết, BHXH là sản phẩm
không mong đợi do người tham gia bảo hiểm chỉ được hưởng trợ cấp khi xảy ra rủi ro. Tuy nhiên, với

22


những sự kiện không hoàn toàn mang tính rủi ro ngẫu nhiên như sinh con hoặc khi rủi ro đã xảy ra thì
bên có nhiều thông tin hơn (người được hưởng lợi bảo hiểm) thường có xu hướng hợp thức hóa, tạo ra
bất lợi cho bên còn lại (cơ quan bảo hiểm) để trục lợi. Đã có rất nhiều các trường hợp tận dụng sự
thiếu hụt thông tin của cơ quan bảo hiểm nhằm trục lợi từ trợ cấp của bảo hiểm như cố tình đăng ký
bảo hiểm ở nhiều nơi với mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm cao để hưởng trợ cấp cao khi sinh
con hay thông đồng với người sử dụng lao động để hưởng trợ cấp thất nghiệp,...
(iii) Vấn đề người ủy quyền – người thừa hành (principal – agent –PA): Khi ngưởi sử dụng lao
động bỏ qua lợi ích của người lao động để trục lợi khi vẫn trích tiền đóng BHXH của người lao động
nhưng không thực hiện nộp cho cơ quan BHXH. Sự thiếu hụt thông tin để người lao động tra cứu,

kiểm tra lại quá trình đóng bảo hiểm như đề cập ở phần trước khiến cho người lao động không có đầy
đủ thông tin để khiếu nại, khiếu kiện. Hay trường hợp người sử dụng lao động đưa ra thỏa hiệp với
người lao động về mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thấp hơn so với thu nhập thực tế trả cho
người lao động nhằm giảm bớt chi phí của doanh nghiệp. Do sự yếu thế của người lao động trong mối
quan hệ với người sử dụng lao động cùng với việc cơ quan bảo hiểm không có đầy đủ thông tin về
mức thu nhập, dẫn tới thực trạng này xảy ra khá phổ biến tại Việt Nam.
Xuất phát từ thực trạng và hậu quả phân tích ở trên, để giảm thiểu ảnh hưởng do thông tin
bất cân xứng mang lại, có thể áp dụng một số biện pháp:
(i) Cơ chế phát tín hiệu: Như phân tích ở trên, một trong những vấn đề chủ yếu của BHXH hiện
nay là việc đối tượng tham gia bảo hiểm – người lao động không nắm được các thông tin, ý nghĩa của
BHXH. Do vậy, cơ quan BHXH cần đầy mạnh công tác thông tin, tuyền truyền các quyền lợi, ý nghĩa
của việc tham gia bảo hiểm tới những người lao động. Bên cạnh đó, cơ chế minh bạch thông tin cũng
như tạo ra cơ sở dữ liệu để người tham gia bảo hiểm có thể tra cứu, đối chiếu việc đóng, nộp bảo hiểm,
các quy định bảo hiểm hiện hành cũng vô cùng cần thiết.
(ii) Cơ chế sàng lọc: Các đối tượng tham gia vào thị trường bảo hiểm đều cần tăng cường thu
thập, sàng lọc thông tin liên quan để có thể ra quyết định đúng đắn. Từ phía người tham gia bảo hiểm
– người lao động cần có sự thu thập, tìm hiểu đầy đủ thông tin liên quan đến chính sách, chế độ, hồ sơ,
điều kiện, thủ tục BHXH để có ứng xử, khiếu nại phù hợp nhằm tự bảo vệ quyền lợi của mình. Trong
khi đó với cơ quan BHXH, việc thu thập thông tin liên quan đến đối tượng tham gia bảo hiểm, đối
tượng được bảo hiểm từ các nguồn dữ liệu khác như cơ quan quản lý dân cư, lao động, cơ quan quản
lý thuế thu nhập cá nhân hay qua các hoạt động thanh kiểm tra,... là vô cùng cần thiết để đảm bảo kiểm
soát được thông tin từ đó có ứng xử phù hợp.

23


(iii) Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, tính ổn định của khuôn khổ pháp luật và công
tác thanh kiểm tra: Bên cạnh những nỗ lực của bản thân những đối tượng trực tiếp tham gia vào thị
trường BHXH thì cần thiết có những giải pháp mang tính vĩ mô của chính phủ, các cơ quan nhà nước.
Việc đầu tiên là hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về quản lý con người. Việc này sẽ

giúp cho việc truy xuất, quản lý dữ liệu được chính xác, rút ngắn được thời gian hành chính và giúp
cho các bên tham gia có thông tin xem xét nhiều chiều hơn hiện tại. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý
cần được duy trì mang tính ổn định, tránh sự thay đổi quá đột ngột và thường xuyên để người tham gia
bảo hiểm có thể yên tâm với việc đóng bảo hiểm. Cuối cùng là tăng cường công tác thanh kiểm tra,
bao gồm cả thanh kiểm tra đối với người tham gia đóng bảo hiểm – người lao động và người sử dụng
lao động và thanh kiểm tra đối với tính hình quản lý quỹ, thu chi,... cơ quan bảo hiểm. Từ đó minh
bạch thông tin và có biện pháp xử lý với những vấn đề phát sinh một cách kịp thời, phù hợp.
ĐỀ BÀI KIỂM TRA
MÔN LÍ THUYẾT KẾ TOÁN
ĐỀ SỐ 01
Câu 1:
Phân tích cơ sở của khái niệm lợi nhuận nắm giữ theo mô hình giá hiện hành. Việc ghi nhận lợi nhuận
nắm giữ ảnh hưởng thế nào tới báo cáo tài chính và mô hình ra quyết định.
Bài làm
1.

Phân tích cơ sở của khái niệm lợi nhuận nắm giữ theo mô hình giá hiện hành
Theo mô hình giá hiện hành đưa ra khái niệm lợi nhuận nắm giữ bao gồm hai bộ phận cấu thành

chủ yếu: Lợi nhuận hoạt động hiện hành và các khoản tiết kiệm chi phí đã thực hiện trong đó:
- Lợi nhuận hoạt động hiện hành: được xác định bằng chênh lệch giữa giá hiện hành của hàng
hóa, dịch vụ đầu ra trừ đi giá hiện hành của các yếu tố đầu vào tương ứng
- Các khoản tiết kiệm chi phí đã thực hiện: là các khoản gia tăng giá hiện hành của tài sản khi
doanh nghiệp nắm giữ các tài sản này trong kỳ hiện tại bao gồm cả phần thực hiện và phần chưa thực
hiện
Mô hình giá hiện hành nhằm mục đích duy trì vốn của một doanh nghiệp kinh doanh về khả năng
hoạt động.Mô hình giá hiện hành chủ yếu đề cập đến việc điều chỉnh và ghi nhận biến động giá hiện
hành của tài sản. Nội dung của mô hình giá hiện hành bao gồm:
-


Xác định giá trị ban đầu của Tài sản: Theo mô hình giá hiện hành, các tài sản được ghi nhận

ban đầu theo giá gốc
-

Xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu của tài sản: Sau ghi nhận ban đầu, tài sản của đơn vị

được đánh giá theo giá hiện hành (current cost). Giá hiện hành (còn được gọi là giá thay thế/

24


replacement costs) là số tiền, các khoản tương tương tiền mà đơn vị phải chi ra để mua sắm, để đầu
tư hoặc sản xuất các tài sản tương tự như những tài sản doanh nghiệp hiện đang nắm giữ…
-

Ghi nhận biến động giá hiện hành: Giá hiện hành của tài sản/nợ phải trả được xác định mỗi

khi lập báo cáo kế toán nói chung và báo cáo tài chính nói riêng. Biến động của giá hiện hành được
ghi nhận vào lợi nhuận kinh doanh như một yếu tố được trình bày một cách riêng biệt trên báo cáo
tài chính
2. Ảnh hưởng của việc ghi nhận lợi nhuận nắm giữ tới báo cáo tài chính và mô hình ra quyết
định
Việc ghi nhận lợi nhuận nắm giữ theo mô hình giá hiện hành có ảnh hưởng tới báo cáo tài
chính và mô hình ra quyết định.
-

Lợi nhuận hoạt động hiện hành: là lợi nhuận thực tế từ hoạt động có thể giúp doanh nghiệp

tiếp tục duy trì khả năng hoạt động. Tuy nhiên tài sản hoạt động ròng được sử dụng để chỉ khả năng

hoạt động của một công ty có thể được tài trợ bởi các khoản vay. Do đó, ảnh hưởng của các khoản
vay được xem xét trong khi xác định lợi nhuận có thể phân phối cho các cổ đông. Việc ghi nhận lợi
nhuận theo giá hiện hành của doanh thu và chi phí sẽ giúp cho doanh nghiệp có những thong tin hữu
ích hơn so với các tài khoản có sẵn trong quá khứ để hướng dẫn quản lí doanh nghiệp, các cổ đông
và những người khác về những vấn đề như khả năng tài chính của doanh nghiệp, lợi tức đầu tư…
-

Các khoản tiết kiệm chi phí đã thực hiện: bao gồm điều chỉnh khấu hao, chi phí điều chỉnh

doanh thu và điều chỉnh vốn lưu động tiền tệ
Thứ nhất, Điều chỉnh khấu hao tài sản: Điều này phản ánh sự khác biệt giữa khấu hao tính trên
chi phí hiện tại của TSCĐ và khấu hao tính trên thu nhập trước thuế. Khoản khấu hao trong thời
gian chờ đợi phát sinh từ việc gia tăng chi phí hiện tại có thể tính vào khoản dự phòng chung. Điều
này sẽ đảm bảo rằng doanh nghiệp duy trì vốn hoạt động của mình
Thứ hai, chi phí điều chỉnh doanh thu: là phần chênh lệch giữa giá vốn hàng tồn kho hiện tại tại
ngày bán và số tiền là chi phí bán hàng để tính lợi nhuận trước thuế. Về mặt lý thuyết, chi phí bán
hàng hiện tại cần được xác định trên cơ sở từng mặt hàng. Thặng dư đánh giá lại được chuyển sang
tài khoản dự phòng hiện tại trên báo cáo tài chính.
Thứ ba, Điều chỉnh vốn lưu động tiền tệ

25


×