Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BÀI tập môn CHUYÊN đề báo CHÍ vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong khu vực nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.76 KB, 26 trang )

BÀI TẬP MÔN CHUYÊN ĐỀ BÁO CHÍ
Đề bài: Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong khu vực nông
thôn.
1. Khái niệm
 Một số khái niệm cơ bản
Việc làm là gì?
Đứng trên góc độ khác nhau người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa việc làm là
gì? Theo quan điểm của Mac: “ Việc làm là phạm trù cần thiết để chỉ trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, công nghệ, tư liệu sản
xuất…) để sử dụng sức lao động đó.
Việc làm trong khu vực nông nghiệp và nông thôn bao gồm:
- Chăn nuôi, trồng trọt
- Kinh doanh vật tư nông nghiệp
Trên cơ sở vận dụng khái niệm việc làm của tổ chức lao động quốc tế (LO) vào
điều kiện cụ thể ở Việt nam, chúng ta có các khái niệm việc làm như sau:
-

Bộ luật lao động của nước cộng hoà XHCN Việt Nam ban hành năm 1994

khẳng định: “Mọi hoạt động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều
được thừa nhận là việc làm” ( Điều 13 Bộ luật lao động ), có hai trạng thái việc
làm đó là việc làm đầy đủ và thiếu việc làm:


o Việc làm đầy đủ là sự thoã mãn nhu cầu về việc làm. Bất cứ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân, muốn làm việc thì có thể
tìm được việc làm trong thời gian ngắn.
o Thiếu việc làm được hiểu là việc làm không tạo điều kiện cho người
lao động sử dụng hết thời gian lao động theo chế độ và mang lại mức
thu nhập dưới mức tối thiểu, muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
- Tỷ lệ người có việc làm là tỷ lệ phần trăm của só người có việc làm so với


dân số hoạt động kinh tế.
Thất nghiệp
- Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng
số lực lượng lao động xã hội
- Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động có nhu cầu tìm được việc nhưng hiện tại chưa tìm được việc.
- Người có việc làm là người đang làm việc trong lĩnh vực ngành, nghề dạng
hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm đem lại thu nhập để nuôi sống
bản thân và gia đình đồng thời góp phần cho xã hội.
Khu vực nông thôn
- Là khu vực cư trú của >70% dân số nước ta, tốc độ phát trển, đô thị hóa
chậm.
- Các hoạt động chính: sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp (công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ)


2. Nội dung
Việc làm là một vấn đề quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Bên cạnh
đó,thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội và là nguồn lực quan trọng cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hằng năm có khoảng 1,2 - 1,6
triệu thanh niên bước vào tuổi lao động.
Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc
tế và sự biến đổi nhanh chóng của lực lượng thanh niên cũng như yêu cầu của công
tác chăm lo, bồi dưỡng và phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên trong thời kỳ
mới, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nghị quyết đã đánh giá, phân tích thực trạng và
định hướng yêu cầu tập trung cao giải quyết nội dung hết sức quan trọng về một số
vấn đề lao động và việc làm cho thanh niên - một trong những mối quan tâm hàng

đầu của thanh niên hiện nay.
2.1.Thanh niên trong cơ cấu lao động, việc làm hiện nay
Thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội và là nguồn lực quan trọng
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hằng năm có khoảng 1,2 1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Theo kết quả điều tra lao động và việc
làm toàn quốc của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội(1), số lượng và tỷ lệ
thanh niên tham gia hoạt động kinh tế tăng đều từ năm 2008 đến nay. Năm 2008,
số thanh niên hoạt động kinh tế của cả nước là hơn 16 triệu người, chiếm 67,2%
tổng số thanh niên (38,7% lực lượng lao động xã hội); năm 2009, số thanh niên
hoạt động kinh tế tăng thành gần 18 triệu người, chiếm 75,4% tổng số thanh niên
(36,6% lực lượng lao động xã hội); năm 2010 con số đó là 17,1 triệu người, chiếm
75,9% tổng số thanh niên (33,7% lực lượng lao động xã hội).
Thanh niên tham gia lao động trong các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi
đáng kể, phù hợp với một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang


phát triển của đất nước. Hiện nay thanh niên tham gia lao động trong khu vực kinh
tế ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ là 87,7% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
4%(2)(riêng tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng gấp 4 lần so với năm
2000).
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ, kỹ năng lao động của thanh niên
tham gia hoạt động kinh tế ngày càng tăng cao. Lực lượng lao động là thanh niên
có trình độ trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 4,1% (năm 2008) lên 6,2% (năm 2009)
và 6,5% (năm 2010); có trình độ cao đẳng, đại học tăng nhanh từ 5,5% (năm 2008)
lên 7,8% (năm 2009) và 8,7% (năm 2010). Mỗi năm có từ 70.000 - 80.000 sinh
viên hệ cao đẳng và 143.000 - 160.000 sinh viên đại học tốt nghiệp, bổ sung cho
lực lượng lao động xã hội.
Những con số thống kê trên đây cho thấy lực lượng lao động là thanh niên
ngày càng có vị trí to lớn trong các hoạt động sản xuất, nghề nghiệp, đóng góp tích
cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thực trạng việc làm

của thanh niên trong thời gian gần đây diễn biến khá phức tạp. Tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm trong thanh niên vẫn gia tăng. Theo thống kê của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi lao động thiếu việc
làm tăng từ 3% (năm 2008) lên 5,6% (năm 2009) và 4,1% (năm 2010), trong đó
khu vực thành thị là 2%; khu vực nông thôn là 4,9%.
Tình trạng thất nghiệp cũng có xu hướng tăng mạnh, tập trung chủ yếu ở
nhóm thanh niên đô thị. Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp chiếm 4,2% (năm 2008);
4,1% (năm 2009) và tăng lên 5,2% (năm 2010), trong đó ở khu vực đô thị là 7,8%,
cao gần gấp hai lần nông thôn (4,3%).
Số đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp ở nhóm thanh niên cũng chiếm tỷ lệ
khá cao. Trong số những người hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng thì số người
ở độ tuổi dưới 24 là 12.275 người (chiếm 24,5%); từ 25 - 40 tuổi là 31.366 người
(chiếm 62,7%); trên 40 tuổi là 6.416 người (chiếm 12,8%)(3).


Phân tích các số liệu điều tra thực tế, có thể nhận thấy là sau thời kỳ khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều thanh niên thất nghiệp, chưa tìm được việc làm đã và
đang tiếp tục tham gia học tập nâng cao trình độ, học các khóa đào tạo nghề với hy
vọng tìm được một công việc tốt hơn. Tuy nhiên, thời gian học văn hóa, học nghề
kéo dài cũng làm tăng thêm số lượng lao động chưa có việc làm. Gần đây, do kinh
tế có dấu hiệu phục hồi, nhiều khu công nghiệp, nhà máy đã trở lại hoạt động bình
thường và một số đơn vị còn mở rộng sản xuất. Một số doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất mới cũng được hình thành nên người lao động đã có nhiều cơ hội hơn để lựa
chọn lao động và việc làm. Yêu cầu về điều kiện làm việc (như môi trường làm
việc, lương, nhà ở và các vấn đề an sinh khác...) của người lao động hiện nay cũng
được cải thiện, khiến họ có thể tìm kiếm, chọn lựa nơi làm việc tốt hơn thay vì phải
chấp nhận mọi điều kiện ngặt nghèo chỉ miễn là có việc làm như trước đây.
Điều đó đã được phản ánh qua thực tế là thời gian gần đây ở một số nơi, thị
trường lao động phát triển khá sôi động, thậm chí nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất ở vào tình trạng thiếu lao động nghiêm trọng. Tuy nhiên, nhu cầu lao động đã

qua đào tạo, lao động có kỹ thuật ngày càng lớn đã khiến cho nhiều thanh niên
không đáp ứng được các yêu cầu tuyển dụng. Vì vậy, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp
vẫn cao. Chẳng hạn, tại Thành phố Hồ Chí Minh có gần 16.000 người được xác
nhận là thất nghiệp; tại Bình Dương con số đó là 10.513 người; Đồng Nai: 3.786
người; Long An: 2.273 người(4).
Kết quả điều tra khảo sát tình hình thanh niên của Viện Nghiên cứu Thanh
niên năm 2009 cho thấy, 69% số thanh niên chịu sự tác động trực tiếp về việc làm,
trong đó 43,4% ít việc làm hơn trước, 16,7% thất nghiệp và 8,7% phải làm những
việc khác so với công việc trước đây.
Với đối tượng thanh niên đang là công nhân do tác động của khủng hoảng
tài chính toàn cầu làm đình đốn sản xuất, dịch vụ của hầu hết các doanh nghiệp,
trọng tâm là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có liên quan
đến xuất khẩu, như dệt may, da giày... dẫn đến nhiều thanh niên công nhân thiếu


hoặc mất việc làm ảnh hưởng lớn tới thu nhập, đời sống của bộ phận thanh niên
công nhân.
Có 90,3% số thanh niên trong các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương được hỏi đã xác nhận nơi họ làm việc đang
phải chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, chỉ có 29% số người được hỏi duy trì được việc làm như trước, 18,4% thất
nghiệp hoặc bị sa thải; 71,7% bị cắt giảm thời gian lao động, 23,7% không được
nhận lương đúng kỳ hạn...
Tình hình trên đã khiến không ít thanh niên công nhân rời bỏ xí nghiệp tìm
kiếm công việc khác không ổn định ở các thành phố hoặc trở về quê làm ăn sinh
sống. Tựu trung, đa số thanh niên tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đều rất
quan tâm, lo lắng tới vấn đề việc làm, thu nhập và điều kiện sống, sinh hoạt.
Đối với thanh niên nông thôn, không có nghề nghiệp, thiếu việc làm, thiếu
vốn để sản xuất, kinh doanh đang là những vấn đề chính được xã hội quan tâm. Kết
quả khảo sát tình hình thanh niên năm 2009 cho thấy, trên 70% số thanh niên nông

thôn chưa qua đào tạo nghề. Do thiếu vốn và không có việc làm nên 2/3 số thanh
niên nông thôn thường xuyên phải rời quê tìm việc làm ở nơi khác... khiến cho làn
sóng di cư tự phát của họ đến các khu đô thị, khu công nghiệp để tìm việc làm
ngày càng tăng. Số thanh niên này khó quản lý, không sinh hoạt đoàn thể, làm việc
vất vả, thu nhập thấp, bấp bênh và là nhóm có nguy cơ cao về mắc các tệ nạn xã
hội.
Một số khó khăn hiện nay của thanh niên khu vực nông thôn, đặc biệt tại các
khu vực thu hồi đất là: trình độ học vấn thấp nên không có cơ hội để có việc làm
(68,4%), không có đất để sản xuất, kinh doanh (53,1%), thiếu kinh nghiệm sản
xuất, kinh doanh (26,5%), thiếu thông tin về thị trường lao động (23,3%), khó tiếp
cận các nguồn vốn (22,3%).
Về xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên
Vấn đề lao động và việc làm của thanh niên có liên quan chặt chẽ với những
định hướng nghề nghiệp của chính họ. Để có một nguồn nhân lực trẻ đáp ứng


được những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, vấn đề đặt ra là phải định hướng phát triển nghề nghiệp mới trong thanh
niên, phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển. Kết hợp giữa nhu cầu thực
tế của sự phát triển thị trường lao động mới với xu hướng lựa chọn nghề nghiệp
của thanh niên.
Thực tế cho thấy, giữa những đòi hỏi về việc làm với định hướng nghề
nghiệp của thanh niên, giữa mục tiêu đào tạo nghề và sử dụng lao động có nhiều
mâu thuẫn. Hiện tượng “thừa thầy, thiếu thợ” tồn tại nhiều năm qua vẫn chưa được
giải quyết một cách thấu đáo.
Kết quả điều tra xã hội học cũng cho thấy, khi đến tuổi lao động, hầu hết
thanh niên đều mong muốn được đi học đại học, cao đẳng (86,5%), xu hướng này
biểu hiện rõ nét nhất là ở nhóm thanh niên viên chức, học sinh, sinh viên. Nhu cầu
đi học nghề (57%) và đi lao động xuất khẩu (41,2%) cũng là một xu hướng của
thanh niên hiện nay, trong đó tỷ lệ thanh niên nông thôn có nguyện vọng học nghề

là khá cao (71,7%).
Xu hướng đi làm lao động phổ thông trong thanh niên không nhiều (21,3%).
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2009 - 2010 toàn quốc có
600.000 thí sinh thi trượt đại học và 112.838 học sinh thi trượt trung học phổ thông
nhưng nhiều học sinh vẫn không muốn theo con đường học nghề. Trong khi ngành
giáo dục đặt mục tiêu trong giai đoạn 2010 - 2020 phải thu hút 30% số học sinh tốt
nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề, nhưng các
trường dạy nghề hằng năm vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu. Đây là một chỉ báo rất
đáng quan tâm.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, nhiều thanh niên có xu hướng lựa
chọn nhóm nghề kinh doanh, thương mại, dịch vụ (chiếm tỷ lệ 67,9% số người
được hỏi). Điều này biểu hiện rõ nét nhất ở nhóm thanh niên học sinh (80,5%) và
sinh viên (71,7%). Nghề làm cán bộ, công chức (48%) và công nhân (42,8%) cũng
là xu hướng lựa chọn tiếp theo, trong đó, nhóm thanh niên viên chức và học sinh


có xu hướng lựa chọn nghề làm cán bộ, công chức nhiều hơn. Nhóm thanh niên
nông thôn và công nhân có xu hướng lựa chọn nghề công nhân lao động có kỹ
thuật trong các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp cao nhiều hơn.
Điều đáng chú ý là có rất ít thanh niên lựa chọn công việc nghiên cứu khoa
học (11,5%) và hoạt động chính trị (12,4%). Kết quả tuyển sinh năm học 2009 2010 và 2010 - 2011, các ngành tài chính - ngân hàng, quản trị kinh doanh, kế
toán... vẫn là những ngành thu hút nhiều thí sinh dự thi và đăng ký học. Trong khi
các ngành thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, nhất là các chuyên ngành khoa học xã
hội, cơ khí, kỹ thuật, lâm nghiệp, sư phạm... rất ít thí sinh đăng ký vào học, mặc dù
theo ý kiến của các trường, nhu cầu của thị trường lao động đối với các nhóm
ngành học này là khá cao.
Đánh giá của thanh niên về hiệu quả của việc nâng cao chất lượng lao động
trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên.
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh

niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc triển khai các hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
cải thiện đời sống cho thanh niên đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể
địa phương quan tâm thực hiện với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên trên thực
tế, sự nhìn nhận, đánh giá của cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể và thanh niên
địa phương về hiệu quả đạt được của các hoạt động này còn nhiều hạn chế, chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của thanh niên.
Qua bảng số liệu (xem cuối bài), có thể thấy công tác giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho thanh niên thời gian qua mới chỉ đạt kết quả bình thường. Việc
thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn tạo việc làm, phát triển sản xuất cho thanh
niên được đánh giá là triển khai có hiệu quả tốt hơn cả, với 54% ý kiến xác nhận.
Các chính sách hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho thanh niên, đặc biệt là thanh


niên nông thôn, bộ đội xuất ngũ, thanh niên dân tộc thiểu số cũng được đánh giá
khá cao với tỷ lệ 45,3% người trả lời.
Trong những năm qua, công tác phát triển các loại hình thanh niên hỗ trợ
nhau lập thân, lập nghiệp để phát triển sản xuất do Đoàn Thanh niên phát động
cũng được tiến hành khá mạnh mẽ. Có khoảng 57,9% số người được hỏi cho rằng
hoạt động này đã được quan tâm triển khai và 42,1% cho rằng đã được thực hiện
với kết quả tốt.
Tuy nhiên, cũng theo kết quả điều tra, một số hoạt động chưa được thanh
niên đánh giá cao. Chẳng hạn, nhiều thanh niên cho rằng chúng ta chưa có được
một kế hoạch tổng thể mang tính chiến lược và có tính khả thi để phát triển nguồn
nhân lực trẻ. Chỉ có 26,4% số người được hỏi cho rằng, công tác xây dựng chiến
lược, quy hoạch về phát triển thị trường lao động và việc làm tại địa phương đã
được thực hiện tốt. Vấn đề xây dựng quy hoạch dạy nghề và giải quyết việc làm
cho thanh niên cũng chỉ được 27,7% ý kiến đánh giá là hoạt động có hiệu quả.
Sau 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 25 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X), có thể thấy công tác thanh niên đang có sự chuyển biến rõ

nét. Các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp đều đã xây dựng những nghị quyết,
chương trình và kế hoạch về công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của địa phương. Nhiều tỉnh,
thành phố đã có những chính sách tạo điều kiện cho đoàn thanh niên hoạt động tốt
hơn, đặc biệt, công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đoàn trở thành cán bộ lãnh
đạo kế cận của Đảng và chính quyền, công tác phát triển Đảng trong thanh niên các
năm sau đều cao hơn năm trước. Các chính sách về đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho thanh niên cũng được các cấp chính quyền và đoàn thể ở địa phương quan
tâm hơn trước. Nhiều địa phương đã coi các hoạt động hướng nghiệp, tạo việc làm
là một khâu đột phá trong công tác tập hợp, đoàn kết thanh niên, tạo điều kiện để
thanh niên đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới trên lộ trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.


Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 25,
nhất là trên lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực trẻ, phát triển lao động và việc làm
cho thanh niên, vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thực sự đồng đều ở các địa phương
khác nhau. Điều này đang tiếp tục đòi hỏi gay gắt phải sớm có những nghiên cứu
đánh giá, rút kinh nghiệm, phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế
từ thực tiễn để triển khai thực hiện Nghị quyết quan trọng này ngày càng hiệu quả
hơn, đáp ứng được những đòi hỏi của thanh niên và công tác thanh niên trong tình
hình mới.
2.2 Đặc điểm của việc làm ở nông thôn
Ở nông thôn các hoạt động sản xuất nông nghiệp, phi nông nghiệp (công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ) thường bắt nguồn từ kinh tế hộ gia đình.
Các thành viên trong hộ gia đình có thể tự chuyển đổi, thay thế để thực hiện công
viêc của nhau. Vì thế mà việc chú trọng thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh tế
khác nhau của kinh tế hộ gia đình là một trong những biện pháp tạo việc làm hiệu
quả.
Khả năng thu hút lao động trong các hoạt động trồng chọt, chăn nuôi với các

cây trồng vật nuôi khac nhau sẽ khác nhau, đồng thời kéo theo thu nhập lúc đó
cũng có sự khác nhau rõ rệt, vì thế mà việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng thu hút nhiều lao động cũng là biện pháp tạo thêm việc làm ngay bên
trong sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn là một hoạt động phi nông nghiệp
với một số nghề thủ công mỹ nghệ được lưu truyền từ đời này sang đời khác trong
từng hộ gia đình, dòng họ, làng, xã dần dần hình thành những làng nghề truyền
thống tạo ra những sản phẩm hàng hóa tiêu dùng độc đáo vừa có giá trị sử dụng
vừa có giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trưng cho từng cộng đồng, vùng miền trên đất
nước.


Việc sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có: Đất
đai, cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, các hoạt dộng cung ứng giống, phân bón,
phòng trừ sâu bệnh…). Hoạt động dịch vụ nông thôn bao gồm các hoạt động đầu
vào cho hoạt động sản xuất nông nghiệp – lâm nghiệp – ngư nghiệp và các mặt
hàng nhu yếu phẩm cho đời sống dân cư nông thôn, là khu thu hút đáng kể lao
động nông thôn và tạo ra thu nhập cao cho lao động.
Ở nông thôn, có một lớn công việc không định trước được thời gian như:
Trông nhà, trông con, cháu, nội trợ, làm vườn… có tác dụng hỗ trợ tích cực trong
việc tăng thêm thu nhập cho gia đình. Thực chất đây cũng là việc làm có khả năng
tạo thu nhập và lợi ích đáng kể cho người lao động.
Tóm lại, sản xuất nông nghiệp là lình vực tạo việc làm truyền thống và thu
hút nhiều lao động của nông dân tại các vùng nông thôn, nhưng diện tích đất đai
canh tác giảm đã hạn chế khả năng giải quyết việc làm tỏng nông thôn. Hiện nay,
những việc làm trong nông thôn chủ yếu là những công việc đơn giản, thủ công, ít
đòi hỏi tay nghề cao với tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai và công cụ cầm tay, dễ
dàng sử dụng, học hỏi và chia sẻ. Vì thế mà khả năng thu hút lao động cao, tuy
nhiều sản phẩm được làm ra với chất lượng thấp, mẫu mã không mát mắt người
tiêu dùng, năng suất lao động thấp từ đó đã làm cho thu nhập bình quân của lao

động tại các vùng nông thôn thấp, dẫn đến tỷ lệ đói nghèo cao so với khu vực
thành thị.
2.3 Phân loại việc làm
Căn cứ theo thời gian thực hiện công việc, việc làm được chia thành 3 loại:
- Việc làm ổn định và việc làm tạm thời: Căn cứ vào số thời gian có việc làm
thường xuyên trong một năm.
- Việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian: Căn cứ vào số giờ thực
hiện công việc trong tuần.


- Việc làm chính và việc làm phụ: Căn cứ vào khối lượng thời gian hoặc mức độ
thu nhập trong việc thực hiện công việc nào đó.
2.4. Ảnh hưởng của việc làm ở nông thôn tới phát triển kinh tế xã hội
nước ta
Giải quyết việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động đặc biệt là
đối tượng lao động nông thôn. Việt Nam có hơn 70,4% người lao động xuất thân từ
nông thôn, về trình độ, chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế. Do đó, giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Tại nhiều làng quê, vấn đề dư thừa lao động trở nên đáng báo động. Tình
trạng thanh niên ở các làng quê không có việc làm thường xuyên chơi bời, lêu
lổng, dẫn đến sa ngã vào tệ nạn xã hội; nhiều thanh niên phải rời bỏ làng quê lên
thành phố vất vưởng tìm việc làm thuê; nhiều làng nghề truyền thống mai một đẩy
nhiều lao động nông thôn đến tình cảnh thất nghiệp... Không có việc làm hoặc việc
làm bấp bênh, năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất kém, dẫn đến thu nhập
không ổn định, khiến cho việc đầu tư tái sản xuất ở khu vực nông thôn gặp nhiều
khó khăn.
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó thể hiện
vai trò của xã hội đối với người lao động, sự quan tâm của xã hội về đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và hạn chế được những

phát sinh tiêu cực cho xã hội do thiếu việc làm gây ra.
3. Thực trạng
Thực trạng việc làm trong lao động nông nghiệp nông thôn nước ta hiện
nay
Số lượng: Cơ cấu lao động tuy đã có bước chuyển tích cực tăng tỷ lệ lao động
trong khu vực công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ lệ trong khu vực nông – lâm – ngư


nghiệp, nhưng trên thực tế cung vẫn lớn hơn cầu về lao động, vì vậy sức ép về việc
làm là rất lớn, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay.
Bảng 1 Số liệu về số lao động tham gia vào từng ngành nghề
Đơn vị: nghìn người

Nông
Năm

nghiệp

Công nghiệp

Dich vụ

Tổng

2005

24424.0

5774.6


12576.4

42775.0

2006

24349.9

6291.0

14127.2

44768.1

2007

24369.4

6711.4

12335.3

43416.1

2008

24447.7

7201.4


12335.3

43984.4

2009

24788.5

7591.2
12671.1
45050.8
Nguồn: Tổng cục thống kê 2008


Ở nông thôn có các hoạt động sản xuất như nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi,phi nông nghiệp gồm công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong đó kết cấu ngành nông nghiệp thì trồng trọt
chiếm 71.4%, chăn nuôi chiếm 26.9% Lực lượng lao động nông thôn dùng trong
sản xuất nông nghiệp chiếm 78%, xây dựng và công nghiệp chiếm 7%, thương mại
và dịch vụ chiếm 15%.
Bảng 2: Số lao động làm việc trong các nghành nông nghiệp
Đơn vị; nghìn người

nông nghiệp và lâm
năm
2005
2006
2007
2008
2009


nghiệp
Thủy sản
22933.0
1491.0
22771.4
1578.5
22696.6
1672.8
22705.5
1742.2
23022.0
1766.5
Nguồn tổng cục thống kê 2008

Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn
Đơn vị: %


Đồng bằng sông Hồng

2.01

6.57

Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải

0.95


3.50

miền Trung
Tây Nguyên

2.40

5.47

1.61

6.00

3.37

5.52

Trung du và miền núi phía

Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

2.97
10.49
Nguồn tổng cục thống kê 2009

Ngành chiếm nhiều lao động nhất ở Việt Nam là các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và thuỷ sản, với gần 23 triệu lao động trong năm 2008. Số liệu trên cho
thấy sự chuyển đổi cơ cấu của thị trường lao động Việt Nam từ những việc làm
trong ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp, đòi hỏi nhiều lao động sang

các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn, được đầu tư công
nghệ và tài chính nhiều hơn. Trong hầu hết các dự báo, việc làm trong ngành nông


nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản có chiều hướng giảm và sẽ ở mức 21,1 triệu lao
động vào năm 2020.
Tỷ lệ thất nghiệp cả nước năm 2008 là 2,38%, ở khu vực thành thị là 4,65%,
tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 6,10%. Năm 2009, sức ép về lao động và việc
làm càng lớn, người lao động mất hoặc thiếu việc làm phần lớn ở khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa, chủ yếu là lao động phổ thông, tay nghề kém, nhiều lao động
xuất khẩu do tác động của khủng hoảng kinh tế nên thiếu việc làm, giảm thu nhập
khoảng 1/3 Dân số lao động nông thôn chủ yếu sống tập trung ở đồng bằng và
duyên hải trong đó Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm
43,3%, duyên hải chiếm 25%,còn lại là các vùng khác.
Lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn đang chiếm tới 71,1% lực
lượng lao động cả nước. Trong đó lực lượng lao động có tỷ lệ các nhóm tuổi 15 29 tuổi chiếm tới 1/3 tổng dân số trong độ tuổi lao động. Vậy nhưng tỷ lệ việc làm
của khu vực nông thôn lại tỷ lệ nghịch với lực lượng lao động.
Điều đáng nói là chất lượng việc làm tại khu vực này rất thấp và không được
cải thiện nhiều sau Chiến lược việc làm 10 năm trước (2001-2010). Hiện nay, việc
làm giản đơn, không cần kỹ năng chiếm gần 40% tổng việc làm của cả nước, ở khu
vực thành thị tỉ lệ này là 18,1% nhưng khu vực nông thôn thì chiếm gần 50% tổng
việc làm.
Trong Báo cáo nghiên cứu việc làm tại nông thôn do Văn phòng Hỗ trợ Tư
vấn Phản biện và Giám định Xã hội (OSEC), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam (VUSTA) thực hiện phân tích: Phần lớn lao động nông thôn mặc dù
có đủ việc làm, thậm chí làm việc nhiều giờ nhưng vẫn rất khó khăn trong việc cải
thiện thu nhập, lực cản chính là do chất lượng lao động còn thấp. Điều này làm ảnh
hưởng trực tiếp tới năng suất lao động xã hội, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động, đặc biệt là khả năng rút lao động nông thôn ra khỏi ngành nông nghiệp.



Đánh giá về hiệu quả việc nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên.
Khoảng trống về chính sách
Ước tính Việt Nam đang có khoảng 20 chính sách khác nhau liên quan tới
vấn đề lao động, việc làm ở khu vực nông thôn. Mặc dù có một hệ thống chính
sách được coi là tương đối hoàn chỉnh để phát triển một thị trường lao động năng
động, hiệu quả nhưng trên thực tế hệ thống chính sách này vẫn còn tồn tại nhiều
bất cập, hạn chế đôi khi cản trở trực tiếp tới việc phát triển thị trường lao động.
Theo OSEC và VUSTA, lao động nông nghiệp và lao động tại các khu vực phi
chính thức hiện vẫn chưa nhận được những hỗ trợ từ phía Bộ Luật Lao động. Thêm
vào đó là hệ thống chính sách dạy nghề, tạo việc làm tuy đa dạng nhưng lại đang
bộc lộ sự chồng chéo từ khâu thiết kế, thực hiện, quản lý…thậm chí là đối tượng
thụ hưởng…
Nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại: Để triển khai được Đề án đào tạo mỗi năm
1 triệu lao động nông thôn nói riêng đến năm 2020 - đề án được kỳ vọng sẽ tạo ra
những thay đổi cả về chất và lượng, đối với lao động nông thôn nói chung và lực
lượng lao động Việt Nam nói riêng, thì Việt Nam sẽ phải có rất nhiều các tác động
chính sách khác về đất đai, tín dụng, giáo dục…mới có thể thực hiện được mục
tiêu này.
Có nhiều thách thức đối với vấn đề lao động, việc làm tại khu vực nông thôn
được nhận diện trong báo cáo này. Việc giải quyết những thách thức này không thể
ngay trong một khoảng thời gian ngắn, cũng không thể dựa vào từng hoạt động cụ
thể của các cơ quan, tổ chức độc lập. Nó đòi hỏi một chiến lược mang tính tổng
thể, dài hạn với sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bộ, ngành. Chính vì vậy, làm rõ
những hạn chế đối với vấn đề lao động, việc làm tại khu vực nông thôn sẽ là cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng chiến lược việc làm giai đoạn 2010-2020.
Thiếu việc làm và năng suất lao động thấp là thách thức lớn đối với khu
vực nông thôn



Khu vực nông thôn có tỷ lệ lao động thất nghiệp tương đối thấp do đặc thù
của lao động nông nghiệp. Tuy vậy, thất nghiệp không phải là vấn đề đáng lo ngại
đối với khu vực này. Tỷ lệ thiếu việc làm của khu vực nông thôn cao, đây là một
trong những thách thức lớn trong việc giải quyết bài toán lao động-việc làm của
khu vực nông thôn. Những thách thức này gia tăng khi thực tế hiện nay, phần lớn
lao động nông thôn mặc dù có đủ việc làm, thậm chí làm việc nhiều giờ ở khu vực
nông thôn nhưng vẫn rất khó khăn trong việc cải thiện thu nhập. Trong khi đó, các
điều kiện để cải thiện năng suất lao động cho khu vực này chưa hoặc đang diễn ra
chậm chạp do chất lượng lao động nông thôn còn thấp.
Chất lượng lao động khu vực nông thôn còn nhiều hạn chế
Chất lượng lao động hạn chế đã trở thành lực cản đối với quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động, đặc biệt là khả năng rút lao động nông thôn ra khỏi ngành
nông nghiệp. Bên cạnh đó, chất lượng lao động thấp ảnh hưởng trực tiếp tới năng
suất lao động xã hội, đồng thời tạo ra những rào cản đối với việc thu hút đầu tư của
khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng như giải quyết vấn đề việc làm cho người
lao động.
Việc làm phi chính thức
Mặc dù lao động làm công ăn lương trong khu vực nhà nước và ngoài quốc
doanh có xu hướng gia tăng nhưng nhìn chung, phần lớn lao động khu vực nông
thôn là lao động tự làm hoặc làm việc trong các khu vực phi chính thức. Các
khoảng trống về mặt chính sách hiện nay khiến cho lao động phi chính thức bị hạn
chế trong việc tiếp cận các chế độ phúc lợi xã hội dành cho người lao động.
Vấn đề di cư, thu hút đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn còn nhiều
hạn chế khiến cho vấn đề giải quyết việc làm gặp nhiều khó khăn.
Giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông thôn hiện nay gặp nhiều trở
ngại do gia tăng nguồn cung lao động vẫn ở mức cao. Tình trạng thu hẹp diện tích
đất nông nghiệp trong khi khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh
vực nông nghiệp-nông thôn còn nhiều hạn chế khiến cho bài toán tạo việc làm gặp
nhiều khó khăn. Thực trạng đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp,



chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, kể cả
ngay tại các địa bàn bị thu hồi đất nông nghiệp. Giải quyết vấn đề lao động, việc
làm ở khu vực nông thôn cũng không thể tách khỏi những tác động của quá trình di
cư. Vấn đề quản lý theo hộ khẩu khiến cho người lao động di cư gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục,…
Chính vì vậy, cần có một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở nông
thôn trong những năm tới.
4. Định hướng
*Ý nghĩa của giải quyết việc làm lao động nông nghiệp, nông thôn
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá(CNH-HĐH ).Trong đó CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ
trọng tâm. Để góp phần thực hiện tốt và có hiệu quả quá trình trên thì vấn đề tạo
việc làm và giải quyết việc làm cho lao động cả nước nói chung và lao động trong
nông nghiệp, nông thôn nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tình hình
hiện nay vì góp phần:
-Làm giảm lao động dư thừa và thời gian nhàn rổi đồng thời từng bước nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động.
Do sức ép rất lớn phải giải quyết việc làm ở nông thôn bởi đất chật người
đông, thu nhập từ nông nghiệp rất thấp, trong khi đó lao động ở nông thông dư
thừa nhiều. Theo số lượng thống kê số lao động dư thừa không có việc làm ở vùng
nông thôn cả nước năm 1998 vào khoảng 7.11 triệu người chiếm 25.3 số người có
nhu cầu lao động ở nông thôn.
-Làm giảm áp lực thất nghiệp trong nền kinh tế vốn chưa có một sự phát
triển như ở nước ta.
Áp lực việc làm và thu nhập đã tạo ra xu hướng di chuyển lao động tự phát
từ nông thôn ra các thành thị và đến vùng nông thôn khác. Sự di chuyển này đã
làm tăng tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp ở khu vực thành thị đồng thời
phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Do vậy cần phải nhanh chóng đẩy mạnh

vần đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn ở các địa phương.


-Làm giảm bớt sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các địa phương, các
vùng trong cả nước, đồng thời hạn chế và chấm dứt tình trạng du canh du cư, di
dân tự do.
-Giải quyết việc làm tốt cho lao động nông thôn tạo ra tinh thần tích cực
làm việc cho người lao động, đồng thời tạo ra thu nhập ổn định cho họ, làm cho họ
không nghĩ đến việc di chuyển lên các đô thị hoặc các vùng khác .
-Nâng cao dân trí, công bằng xã hội .
Thông qua các chính sách đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn
tạo ra một khả năng tiếp thu những thành tựu và ứng dụng của khoa học kỹ thuật,
nâng cao nhận thức người lao động, tạo ra múc thu nhập ổn định cho người lao
động góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập giữa lao động nông thôn và lao
động thành thị . Để khắc phục tình trạng thiếu việc làm phải tìm mọi cách tạo việc
làm cho người lao động.
-Tạo việc làm cho người lao động là phát huy, sử dụng tiềm năng sẵn có của
từng đơn vị, từng địa phương và của người lao động ngằm tạo ra những công việc
hợp lý, ổn định cho người lao động những công việc đó phải đem lại thu nhập đảm
bảo thoã mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần cho bản thân người lao động và gia
đình họ; phù hợp với đặc điểm tâm lý và trình độ chuyên môn nghề nghiệp của bản
thân người lao động.
*Quan điểm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn
-Dựa vào các biện pháp tạo việc làm ngay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
+Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp
+Phát triển công nghiệp chế biến
+Khai thác tiềm năng của đất đai ,rừng
-Phát huy sức mạnh tổng hợp các thành phần kinh tế
-Trên phương diện tổng thể và dài hạn giải quyết việc làm cho lao động nông thôn

phải gắn liền vơí chiến lược dân số và phát triển toàn diện nguồn nhân lực
-Vai trò của Nhà nước trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
nông thôn


-Cần thực hiện các biện pháp toàn diện và đồng bộ ,phảI có một số biện pháp mang
tính đột phá
*Phương hướng
-Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn phảI là nhiệm vụ của
toàn xã hội
-Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tại chỗvà lợi thế của mỗi địa
phương
-Giải quyết việc làm phải hướng tới mục tiêu toàn dụng nguồn nhân lực, giảm lao
động dư thừa và thời gian nhàn rỗi đồng thời phảI đảm bảo từng bước nâng cao
chất lượng và hiệu quả lao động
* Thứ nhất, các giải pháp chung:
Xây dựng chiến lược lâu dài về đào tạo việc làm cho lao động nông thôn gắn
với chiến lược con người của thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Mục tiêu của chiến
lược đó là giải phóng mạnh mẽ các hình thức lao động giản đơn tạo thêm việc làm
phi nông nghiệp, ít đòi hỏi lao động có kỹ năng cao ngay tại các địa bàn nông thôn,
điều tiết di chuyển lao động ồ ạt từ nông thôn ra thành phố. Coi dạy nghề cho nông
dân là một bộ phận của chiến lược con người vì họ chiếm tới 80% dân số của cả
nước.
Trên cơ sở chiến lược lâu dài cần cụ thể hoá cho từng thời kỳ với quy hoạch
và kế hoạch đầu tư vốn, khoa học công nghệ, đào tạo lại cán bộ khoa học quản lý
và công nhân lành nghề phục vụ nông nghiệp nông thôn;
Gắn chiến lược xoá đói giảm nghèo với tạo việc làm cho lao động ở nông
thôn, trở thành bộ phận hữu cơ bảo đảm cho quá trình phát triển bền vững ở nông
thôn. Hoàn thiện bổ sung và xây dựng mới cơ chế chính sách thu hút mạnh các
nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các chương trình và dự án tạo thêm việc

làm, thu hút lao động nông thôn. Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đi
đôi với đổi mới cơ cấu đầu tư. Trong các năm tới cần phải tăng cường đầu tư cơ
bản trong nông nghiệp, nông thôn nhất là đầu tư nâng cấp, hoàn thiện hệ thống
thuỷ lợi, điện, đường, trường, trạm, trại nghiên cứu khoa học kỹ thuật.


*Thứ hai, giải pháp cụ thể.
- Giải quyết nhu cầu về vốn
- Đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật
- Đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp
- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn, khôi phục các
làng nghề truyền thống nhằm tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông
nghiệp nông thôn
-Tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi lao động vùng kinh tế mới
-Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn
-Nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách
Cụ thể là:
Phát triển mạnh kinh tế hộ và kinh tế trang trại ở nông thôn. Đẩy mạnh phát
triển kinh tế hộ ở nông thôn trong tất cả các lĩnh vực, ngành hoạt động mà kinh tế
hộ có thể tham gia. Kinh tế hộ gia đình nông dân đã được xác định là những đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, và đã chứng tỏ khả năng phát
triển không chỉ trong sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn mở rộng
ra các lĩnh vực hoạt động khác. Hiện nay, kinh tế hộ ở các vùng nông thôn đã phát
triển nhiều ngành nghề đa dạng ngoài sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đã mở rộng
hoạt động sang chế biến nông, lâm, thuỷ sản, chiếm 17,3% số hộ có ngành nghề
phi nông nghiệp; công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 32,5%, xây dựng,
thương mại và dịch vụ chiếm 49,8% làm cho các hoạt động kinh tế nông thôn trở
nên sôi động và bộ mặt nông thôn thay đổi nhiều.
Tuy nhiên, để phát triển kinh tế hộ lâu dài và ngày càng mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ tạo ra, cần thực hiện một số biện pháp

sau:
- Có chính sách thích hợp hỗ trợ phát triển kinh tế hộ nông dân sản xuất
hàng hoá theo đặc thù sản xuất của từng vùng, đó là các chính sách về đất đai,
thuế, tín dụng, khoa học và công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm; Kiên trì
thực hiện chủ trương khuyến khích "ai giỏi làm nghề gì làm nghề đó", trên cơ sở
đó đa dạng hoạt động kinh tế từng hộ theo tiềm năng nội tại, khuyến khích kinh tế


hộ sử dụng lao động làm thuê tại chỗ hoặc lao động từ nơi khác đến tìm việc làm,
thông qua chế độ ưu đãi về cho thuê mặt bằng, tín dụng ban đầu; từng bước phát
triển kinh tế hộ nông, lâm, ngư trại thành các doanh nghiệp nhỏ trong nông thôn,
có tư cách pháp nhân, bình đẳng với các loại hình tổ chức kinh tế khác.
- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là một giải pháp lâu dài
và hữu hiệu để thực hiện chủ trương tạo việc làm cho lao động nông thôn.
Hiện nay, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh nghiệp tư nhân, hợp tác
xã) có đăng ký hoạt động chưa nhiều, mới đạt 3% còn 97% vẫn thuộc loại hình
kinh tế hộ không có đăng ký, điều này dẫn đến sự phát triển của kinh tế hộ chưa
được pháp lý bảo hộ, nên chưa đủ điều kiện phát huy hết tiềm năng phát triển kinh
tế, tạo việc làm ở nông thôn. Để nhanh chóng phát triển mở rộng thêm số lượng
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cần phải: Tạo điều kiện thuận lợi tối đa về
mặt thủ tục để cơ sở sản xuất đăng ký thành lập doanh nghiệp được dễ dàng. Cần
có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh chế biến nông
sản về mặt cơ sở sản xuất tại các địa bàn có nguồn nguyên liệu dồi dào. Các cơ sở
này một mặt sẽ thu hút một lượng lớn nguồn nhân lực tại chỗ tham gia vào quá
trình sản xuất nguyên liệu cho cơ sở chế biến, mặt khác nó cũng tạo ra nhiều cơ hội
việc làm cho người dân địa phương tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chế
biến của các cơ sở này; đối với các doanh nghiệp sản xuất phi nông nghiệp đã có
đăng ký và đang hoạt động, khuyến khích các doanh nghiệp này đặt cơ sở trên địa
bàn các huyện, xã chủ yếu làm nông nghiệp, dân số đông. Các doanh nghiệp này sẽ

là cơ sở để giải quyết lao động nông nhàn và khởi đầu cho việc phát triển hoạt
động phi nông nghiệp trong nông thôn.
- Khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống và nghề mới ở nông thôn
Ngành nghề truyền thống đã có từ lâu đời và đã có thể gọi là một thế mạnh
của nước ta như nghề kim hoàn, thêu ren, dệt tơ lụa, chạm khắc gỗ, khảm trai, chế
biến nông sản phẩm, ... Ngành nghề truyền thống hiện đang giải quyết việc làm


cho một lượng lớn lao động. Tuy nhiên, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường,
các cơ sở sản xuất và các làng nghề cũng gặp không ít những khó khăn nhất là về
tiêu thụ sản phẩm, công nghệ lạc hậu, ít vốn; vì thế Nhà nước cần có một số chính
sách hỗ trợ để khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang các
nghề mới trên cơ sở: Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, ở các làng
nghề truyền thống như cho vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị
trường tiêu thụ sản phẩm, hình thành các khu làng nghề sản xuất tập trung; Tổ
chức lại các cơ sở làm nghề truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình là đơn vị kinh
tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ hình thức hiệp hội, liên kết giữa các gia
đình tiến tới thành lập những doanh nghiệp nhỏ và vừa; Ban hành một số chính
sách khuyến khích về vốn, tín dụng, thuế và giải quyết mặt bằng cho sản xuất đối
với các làng nghề, nghề truyền thống ở giai đoạn khôi phục và phát triển mới; Có
chính sách ưu đãi đối với các nghệ nhân, thợ giỏi, hỗ trợ công tác đào tạo, truyền
nghề để những ngành nghề truyền thống không bị mai một. Bảo vệ quyền phát
minh sáng chế của các nghệ nhân và xây dựng chế độ bảo hiểm khi về già để người
dân làm việc trong các làng nghề truyền thống yên tâm đầu tư vốn và yên tâm sống
với nghề của mình; Tăng cường hình thành các ngành nghề và sản phẩm mới mang
tính truyền thống và bản sắc Việt Nam, với các làng, cụm làng chuyên nghề ở các
làng nghề hiện tại để thúc đẩy sự lan truyền trong phạm vi xã huyện và vùng.
Nguồn: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 5/2004; tr. 596 –
598
Một giải pháp được cho là hợp lý hơn cả cho khu vực nông thôn là triển khai

dạy nghề tại chỗ. Theo đó, bên cạnh những ngành nghề mà lâu nay ta đào tạo phải
tăng cường thêm các ngành nghề mới ở nông thôn thông qua việc phát huy triệt để
các tiềm năng sinh học sẵn có ở địa phương. Bài học thực tế ở nhiều địa phương
cho thấy đã có nhiều ngành nghề mới như: nuôi ba ba, ếch, lươn, giun đất, nhím,
heo rừng... và cả những nghề rất đơn giản như nuôi dế, nuôi nhông cát... đã đem lại


hiệu quả không nhỏ. Và quan trọng hơn cả và quyết định sống còn là địa phương
phải dự báo chính xác thị trường lao động, nhu cầu học nghề để từ đó các cơ quan
quản lý đưa ra quy hoạch hệ thống đào tạo phù hợp với từng vùng, miền, chuẩn
hóa chương trình đào tạo. Để sao cho người học phải được tư vấn nghề, được
thông tin nghề nào ở địa phương đang có nhu cầu, tránh tình trạng học xong mà
không có việc làm. Hay chính xác là: Người học phải biết được nhu cầu việc làm ở
địa phương; biết được chính sách và nhiệm vụ của người đi học; biết được khi học
xong thì cơ hội việc làm ở địa phương mình như thế nào.
5.Những vấn đề đặt ra và nhiệm vụ của báo chí
-Đi sâu, khai thác những vấn đề nông nghiệp, nông thôn, đời sống của bà
con nhân dân. Cả mặt tích cực lẫn tiếu cực.
-Tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, nhà
nước đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp tới bà con nông dân.
-Hướng dẫn trên báo cách thức, phương pháp chăn nuôi, trồng trọt, phân
bón, sử dụng vật tư nông nghiệp một cách khoa học, tiết kiệm, hiệu quả nhất.
-Giải quyết những thắc mắc của bà con bằng việc hỏi ý kiến các chuyên gia
trong lĩnh vực nông nghiệp.
-Nêu gương người tốt việc tốt, người nông dân làm kinh tế giỏi.

Và một trong những tờ báo chuyên sâu vào nông nghiệp và nông thôn đã
làm khá tốt những nhiệm vụ trên đó là tờ “Nông thôn ngày nay” đặc biệt với
chuyên mục nông thôn mới, mọi trăn trở, suy tư, thắc mắc, những nhà nông làm
kinh tế giỏi đều được chuyển tải lên mặt báo một cách nhanh nhất, khách quan

nhất. Ngoài ra, trên các báo như Lao động, Đại đoàn kết… đã phản ánh nhiều vấn
đề giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn.
Bên cạnh đó cần chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong tỉnh hợp tác chặt chẽ
trong việc cung cấp các thông tin chính thống cho báo chí nhằm kịp thời phục vụ
việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
và việc chỉ đạo, điều hành của địa phương; đối với các cơ quan báo chí, đồng chí
cũng yêu cầu các phóng viên cần có sự chọn lọc tin tức khi tuyên truyền trên báo,


×