Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

bảo vệ và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.62 MB, 112 trang )

BẢO VỆ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Tác giả: Nguyễn Văn Bảy
Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu đào
tạo
Văn phòng SHTT quốc gia Việt Nam
Mục tiêu
Mục tiêu của tài liệu này là nhằm trang bị cho các cán bộ toà án (chủ yếu
là thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện) những kiến thức cơ bản về
lý thuyết cũng như thực tế về sở hữu công nghiệp để giúp các thẩm phán có thể
giải quyết được các vụ án liên quan đến sở hữu công nghiệp một cách độc lập,
đúng đắn. Đối tượng cụ thể mà tài liệu này hướng tới là thẩm phán của các toà
hành chính và toà dân sự, toà hình sự.
Sở hữu công nghiệp bao gồm nhiều đối tượng khác nhau như sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, chỉ dẫn
địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh. Trên thực tế, các vụ tranh chấp, xâm
phạm quyền đối với các đối tượng này cũng ở mức độ khác nhau, chủ yếu là
các vụ việc liên quan đến đối tượng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn
hiệu. Do vậy, nội dung tài liệu sẽ tập trung sâu hơn vào 03 đối tượng sở hữu
công nghiệp này.
I. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thúc đẩy các hoạt động sáng tạo
cũng như thu hút đầu tư cả từ trong nước và nước ngoài
Nói chung, quyền sở hữu trí tuệ là các quyền xuất phát từ các sáng tạo trí
tuệ của con người (như sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch IC v.v.). Để có
được các thành quả sáng tạo trí tuệ này, thường phải đầu tư trí tuệ, công sức, tài
chính v.v. và trong nhiều trường hợp khoản đầu tư này là rất lớn (ví dụ, thông
thường để có thể đưa ra thị trường một loại thuốc chữa bệnh (tân dược) mới,
cần phải tiêu tốn khoảng 100 triệu đôla Mỹ). Vì lẽ công bằng, chủ đầu tư của
các thành quả này cần phải được bồi đắp chi phí đầu tư, từ đó có động lực cho
hoạt động sáng tạo và đó chính là chức năng của hệ thống bảo hộ quyền sở hữu


công nghiệp. Nhà nước sẽ dành cho chủ sở hữu một khoảng thời gian nhất định
để độc quyền khai thác và ngăn cấm người khác khai thác thành quả sáng tạo
của mình nhằm thu hồi vốn đầu tư và thu lợi một cách hợp lý.
Một chế độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có hiệu quả sẽ thúc đẩy
đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, đặc biệt thu hút các công nghệ
mới, tiên tiến phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Chỉ có xây dựng và thực
thi một chế độ bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp thì các nhà đầu tư
nước ngoài mới tin tưởng các thành quả đầu tư của họ sẽ không bị đánh cắp ở
Việt Nam và từ đó họ mới có thể sẵn sàng chuyển giao cho các doanh nghiệp
Việt Nam hoặc trực tiếp đầu tư vào các doanh nghiệp do họ sở hữu ở Việt Nam.
2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo dựng môi trường cạnh tranh
lành mạnh
Sẽ không công bằng nếu một người bỏ vốn đầu tư để nghiên cứu tạo
ra các sản phẩm mới cũng như đầu tư cho quảng cáo, khuyến mại để người tiêu
dùng biết và mua sản phẩm trong khi một người khác không phải tốn kém vẫn
bán được hàng do nhái sản phẩm của người khác. Đây chính là chức năng tạo
dựng và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh của cơ chế bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Bằng cơ chế bảo
hộ độc quyền, pháp luật sở hữu trí tuệ chống lại mọi hành vi sử dụng các dấu
hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ cũng như những hành
vi bộc lộ, sử dụng trái phép thông tin bí mật được bảo hộ v.v., từ đó tạo dựng và
bảo vệ được môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
II. KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP
Khi nói đến sở hữu công nghiệp, chúng ta sẽ liên tưởng đến khái niệm sở
hữu trí tuệ. Theo thông lệ, sở hữu trí tuệ là một khái niệm chung nhất trong đó
bao hàm ba nhánh, đó là quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới. Đến lượt sở hữu công nghiệp thì
đây cũng là một khái niệm chung dùng để chỉ hàng loạt các đối tượng cụ thể.
2

Khi tiếp cận vấn đề sở hữu công nghiệp dưới góc độ giải quyết các vụ
việc tranh chấp, xâm phạm quyền, chúng ta nên tiếp cận đến từng đối tượng cụ
thể nằm trong nội hàm của khái niệm này mà không dùng khái niệm chung là
“sở hữu công nghiệp”. Theo khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì
“Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.”
1. Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình
nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Với khái niệm như trên, chúng ta thấy rằng điều kiện tiên quyết để một
đối tượng có thể được coi là sáng chế là đối tượng đó phải là giải pháp để giải
quyết một vấn đề bằng biện pháp kỹ thuật. Những giải pháp không mang tính
kỹ thuật sẽ đương nhiên bị loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ dưới danh nghĩa là sáng
chế (có thể đối tượng đó sẽ được bảo hộ theo quy định pháp luật khác, ví dụ
phần mềm máy tính không được bảo hộ dưới dạng sáng chế nhưng lại được bảo
hộ theo quy định về quyền tác giả).
Tuỳ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện theo luật định, sáng chế có thể
được bảo hộ bằng hình thức Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích.
Để được cấp Bằng độc quyền sáng chế, sáng chế phải đáp ứng 3 điều
kiện sau:
- có tính mới (tính đến trước ngày nộp đơn yêu cầu cấp Bằng, giải pháp
kỹ thuật nêu trong đơn chưa được bộc lộ công khai ở bất kỳ nơi nào trên thế
giới, kể cả Việt Nam);
- có trình độ sáng tạo (có nghĩa là giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn không
hiển nhiên đối với người có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương
ứng);
- có khả năng áp dụng công nghiệp (có nghĩa là có thể áp dụng giải pháp
kỹ thuật bằng phương pháp công nghiệp hoặc với quy mô công nghiệp).

Giải pháp kỹ thuật đáp ứng điều kiện tính mới và khả năng áp dụng công
3
nghiệp như nêu trên và không phải là hiểu biết thông thường có thể được cấp
Bằng độc quyền giải pháp hữu ích (không yêu cầu điều kiện có trình độ sáng
tạo).
Theo quy định, có một số đối tượng không được bảo hộ dưới dạng sáng
chế (quy định tại Điều 59 của Luật sở hữu trí tuệ). Ngoài ra, các đối tượng trái
với trật tự công cộng, đạo đức xã hội cũng sẽ không được bảo hộ (khoản 1 Điều
8 Luật sở hữu trí tuệ).
Cần lưu ý phân biệt khái niệm “sáng chế” và khái niệm “phát minh”.
Sáng chế là giải pháp để giải quyết các vấn đề kỹ thuật. Con người với trí tuệ
của mình “sáng tạo” ra các đối tượng vật thể hoặc các quy trình chưa tồn tại
trên thế giới này. Nói cách khác, nếu không có sự sáng tạo của con người thì
không thể có sản phẩm hoặc quy trình được bảo hộ là sáng chế. Luật sở hữu trí
tuệ bảo hộ sáng chế bằng hình thức cấp độc quyền có thời hạn cho chủ sở hữu.
Trái lại, “phát minh” là một sự phát hiện ra những quy luật, hiện tượng, vật thể
v.v. đã tồn tại khách quan trong thế giới vật chất. Con người không “sáng tạo”
ra các đối tượng được “phát minh” mà thực tế chỉ “phát hiện” ra chúng mà thôi.
Luật sở hữu trí tuệ không bảo hộ phát minh.
2. Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể
hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
Để được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp phải đáp ứng 3 điều kiện sau:
- có tính mới (cách xác định tương tự như đối với sáng chế)
- có tính sáng tạo
- có khả năng áp dụng công nghiệp
3. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (sau đây gọi là thiết kế bố trí) là
cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong
mạch tích hợp bán dẫn.
Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán
thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số

hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu
bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC,
chip và mạch vi điện tử.
4
4. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau.
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của
các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ
của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất
hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn
hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng
hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau
hoặc có liên quan với nhau.
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
5. Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh
doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Khu vực kinh doanh quy định tại khoản này là khu vực địa lý nơi chủ thể
kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.
Ví dụ: CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ là một tên thương
mại với đầy đủ các thành phần, trong đó CÔNG TY CỔ PHẦN là yếu tố chỉ
loại hình doanh nghiệp, BÁNH KẸO là yếu tố chỉ lĩnh vực kinh doanh và HẢI
HÀ là yếu tố tên riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, ví dụ CÔNG
TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU.
6. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu

vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
Ví dụ: TÂN CƯƠNG (cho sản phẩm chè), ĐOAN HÙNG (cho sản phẩm
bưởi quả), PHÚ QUỐC (cho sản phẩm nước nắm), COGNAC (cho sản phẩm
rượu mạnh) v.v.
5
7. Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính,
trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
III. NGUYÊN TẮC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Như đã đề cập ở trên, quyền sở hữu công nghiệp là quyền đối với
nhiều đối tượng cụ thể khác nhau. Đối với từng đối tượng, quyền được xác lập
hoặc phát sinh trên những cơ sở khác nhau. Cần phải đặc biệt lưu ý đến những
cơ sở xác lập hoặc phát sinh này vì không phải quyền đối với mọi đối tượng đều
phát sinh trên cơ sở đăng ký và ngược lại. Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ quy định
chi tiết về các căn cứ này, cụ thể như sau:
1. Quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp phát sinh trên cơ sở quyết định cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (theo quy định của pháp luật thì đó là Cục Sở hữu trí
tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ).
Như vậy, đối với những đối tượng sở hữu công nghiệp trên đây, quyền
chỉ phát sinh khi Cục Sở hữu trí tuệ ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ. Thời
điểm bắt đầu bảo hộ, thời hạn bảo hộ và phạm vi quyền đối với từng đối tượng
cụ thể được ghi nhận trong các văn bằng bảo hộ tương ứng. Không có ngoại lệ
về căn cứ xác lập quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp này.
2. Về cơ bản, quyền đối với nhãn hiệu được phát sinh trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của Cục Sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, còn có một số căn
cứ xác lập quyền khác trong một số trường hợp đặc biệt, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế (nhãn hiệu của các
chủ thể nước ngoài đăng ký bảo hộ tại Việt Nam nhưng không tiến hành nộp
đơn trực tiếp cho Cục Sở hữu trí tuệ mà nộp đơn thông qua Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới theo quy định của Thoả ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid về

đăng ký quốc tế nhãn hiệu) được xác lập trên cơ sở quyết định công nhận bảo
hộ của Cục Sở hữu trí tuệ. Trong hầu hết các trường hợp, nhãn hiệu đăng ký
quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam mà không có văn bằng bảo hộ được cấp như
đối với các nhãn hiệu được đăng ký trực tiếp tại Cục Sở hữu trí tuệ (văn bằng
bảo hộ như vậy chỉ được cấp khi có yêu cầu cụ thể của chủ sở hữu). Thông
6
thường, để chứng minh quyền sở hữu nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực tại
Việt Nam, chủ sở hữu sử dụng các văn bản xác nhận của Tổ chức Sở hữu trí tuệ
thế giới hoặc Cục Sở hữu trí tuệ và các văn bản xác nhận này sẽ được sử dụng
trong quá trình thực thi quyền (kiện tụng, tranh chấp v.v.). Một điểm cần lưu ý
khi tiếp cận thuật ngữ nhãn hiệu đăng ký quốc tế trong mục này, đó chính là
nhãn hiệu của người nước ngoài đăng ký tại Việt Nam theo thủ tục quốc tế chứ
không phải là nhãn hiệu đăng ký có hiệu lực ở phạm vi quốc tế (về điểm này,
tham khảo thêm nội dung bản chất lãnh thổ của quyền sở hữu công nghiệp
thông qua phân tích về hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp và nhãn hiệu ở phần sau của tài liệu này.)
Thứ hai, quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử
dụng rộng rãi nhãn hiệu đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký. Như vậy
có thể thấy rằng đây là một ngoại lệ rất cần lưu ý, đặc biệt khi xử lý hành vi
xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
Thông thường, khi khởi kiện vụ án dân sự về hành vi xâm phạm
quyền đối với nhãn hiệu, nguyên đơn phải chứng minh tư cách chủ thể quyền
của mình (bằng việc nộp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc xác nhận về
nhãn hiệu đăng ký quốc tế đang có hiệu lực tại Việt Nam). Tuy nhiên, đối với
nhãn hiệu nổi tiếng thì thay vì nộp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc
xác nhận đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam, nguyên đơn sẽ cung cấp các
chứng cứ chứng minh nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng và do đó mặc
dù chưa được đăng ký nhưng vẫn được bảo hộ để chống lại việc người khác sử
dụng. Những chứng cứ để chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng được trình bày tại
phần VII của tài liệu này liên quan đến việc xác định hành vi xâm phạm quyền

đối với nhãn hiệu.
3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ
sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực (lãnh
thổ) và lĩnh vực kinh doanh mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.
Cần lưu ý tên thương mại về cơ bản là tên doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc
đăng ký doanh nghiệp trong đó có đăng ký tên doanh nghiệp không phải là một
thủ tục để xác lập quyền đối với tên thương mại. Khi đăng ký doanh nghiệp,
doanh nghiệp có thể đăng ký nhiều tên như tên đầy đủ, tên viết tắt, tên giao dịch,
7
tên giao dịch bằng tiếng Anh v.v. nhưng những tên đó chỉ có khả năng được bảo
hộ khi chúng được sử dụng trên thực tế và ngoài ra tên đó phải đáp ứng điều kiện
bảo hộ (tức là phải có khả năng phân biệt). Nếu một tên doanh nghiệp được thể
hiện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng không được sử dụng trên
thực tế thì tên đó sẽ không có khả năng được bảo hộ.
4. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên
cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kỳ cách thức hợp pháp nào để tìm ra, tạo
ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin tạo thành bí mật kinh doanh đó
mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.
5. Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt
động cạnh tranh trong kinh doanh.
IV. THỜI HẠN BẢO HỘ CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP
Thời hạn bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp là khác nhau, cụ
thể như sau:
1. Đối với sáng chế, có hai loại văn bằng bảo hộ được cấp với thời hạn
bảo hộ khác nhau.
Sáng chế được cấp Bằng độc quyền sáng chế được bảo hộ từ ngày cấp
Bằng đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn.
Sáng chế được cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích được bảo hộ từ
ngày cấp Bằng đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn.

Đối với hai loại văn bằng bảo hộ này, cần lưu ý một điểm sau: Bằng
độc quyền có hiệu lực 20 năm hoặc 10 năm tính từ ngày nộp đơn nhưng không
phải là sau khi được cấp, các Bằng độc quyền đó sẽ tự động có hiệu lực đến hết
20 năm hay 10 năm. Pháp luật có quy định hằng năm chủ Bằng độc quyền phải
nộp lệ phí duy trì hiệu lực. Nếu chủ sở hữu không thực hiện nghĩa vụ này thì
Bằng độc quyền sẽ tự động chấm dứt hiệu lực ngay sau khi lệ phí duy trì hiệu
lực cho năm tiếp theo không được nộp (xem Điều 95 Luật sở hữu trí tuệ). Do
vậy, khi xử lý các vụ việc liên quan đến sáng chế, các cơ quan liên quan cần
phải lưu ý đến điểm này (có thể yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ cung cấp thông tin
8
để biết một Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích
đang còn hiệu lực hay không,).
Một điểm cần lưu ý nữa là thời điểm phát sinh quyền đối với sáng chế
cũng như các đối tượng sở hữu công nghiệp khác mà quyền được xác lập trên
cơ sở đăng ký sẽ là ngày cấp văn bằng bảo hộ chứ không phải là ngày nộp đơn.
Đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp, tồn tại quyền tạm thời kể từ ngày
công bố đơn đến ngày cấp văn bằng bảo hộ (đề nghị xem quy định cụ thể tại
Điều 131 Luật sở hữu trí tuệ).
2. Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ từ ngày cấp Bằng độc quyền đến
hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn và Bằng độc quyền này có thể được gia hạn
hiệu lực liên tiếp 2 lần, mỗi lần 5 năm.
Như vậy, thời hạn có hiệu lực tối đa của một Bằng độc quyền kiểu dáng
công nghiệp là 15 năm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là Bằng độc quyền sẽ không
tự động có hiệu lực đến hết 15 năm mà khi hết kỳ hiệu lực 5 năm trước, chủ
Bằng độc quyền phải làm thủ tục gia hạn tại Cục Sở hữu trí tuệ (và sẽ được ghi
nhận vào Bằng độc quyền) thì Bằng độc quyền mới tiếp tục có hiệu lực cho kỳ
hạn sau.
3. Nhãn hiệu được bảo hộ từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn và Giấy chứng nhận có thể được gia
hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm.

Có thể thấy là về nguyên tắc, nhãn hiệu được bảo hộ vô thời hạn với điều
kiện sau mỗi 10 năm, chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu phải làm thủ tục
gia hạn hiệu lực tại Cục Sở hữu trí tuệ (và sẽ được ghi nhận vào Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu).
Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam
cũng tương tự như thời hạn bảo hộ nhãn hiệu được đăng ký trực tiếp tại Cục Sở
hữu trí tuệ.
4. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ từ ngày cấp Giấy
chứng nhận đăng ký và và chấm dứt hiệu lực vào ngày sớm nhất trong số những
ngày sau đây:
- Kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn;
9
- Kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng
ký hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất
kỳ nơi nào trên thế giới;
- Kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.
Trong Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, m
một trong ba (hoặc cả ba) sự kiện trên sẽ được đề cập để tính thời hạn bảo hộ
chính xác của thiết kế bố trí liên quan.
5. Quyền đối với chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp
Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Cần lưu ý là quy định ”vô thời hạn” không đồng nghĩa với ”vĩnh viễn”.
Khái niệm ”vô thời hạn” được hiểu là chỉ dẫn địa lý sẽ còn được bảo hộ chừng
nào chỉ dẫn địa lý đó còn đáp ứng điều kiện bảo hộ. Trong trường hợp chỉ dẫn
địa lý không còn đáp ứng điều kiện bảo hộ thì hiệu lực của Giấy chứng nhận
đăng ký liên quan sẽ bị chấm dứt.
V. KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC XÁC LẬP (ĐĂNG KÝ) QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP (đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý)
Như đã được trình bày ở trên, quyền đối với các đối tượng sở hữu công

nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở đăng ký với Cục Sở
hữu trí tuệ. Các vấn đề liên quan đến thủ tục đăng ký xác lập quyền được trình
bày tóm tắt sau đây.
1. Quyền đăng ký
Việc quy định quyền đăng ký các đối tượng sở hữu trí tuệ có ý nghĩa
quan trọng vì điều đó liên quan đến việc xác định người sẽ trở thành chủ sở hữu
quyền được bảo hộ. Quyền đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp khác
nhau là khác nhau và được quy định cụ thể tại các Điều từ 86 đến 88 Luật sở
hữu trí tuệ.
1.1 Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí:
10
Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thuộc về
các chủ thể sau:
- Tác giả tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí bằng
công sức và chi phí của mình;
- Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới
hình thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác và
trường hợp nêu tại điểm tiếp theo sau đây – được quy định tại Điều 9 Nghị định
103/2006/NĐ-CP ngày 22.9.2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp);
- Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được
tạo ra trên cơ sở Nhà nước đầu tư toàn bộ kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ
thuật, quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thuộc về
Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư có trách
nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký nêu trên.
Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được
tạo ra trên cơ sở Nhà nước góp vốn (kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật),
một phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tương
ứng với tỷ lệ góp vốn thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước là chủ

phần vốn đầu tư của Nhà nước có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện
phần quyền đăng ký nói trên.
Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được
tạo ra trên cơ sở hợp tác nghiên cứu - phát triển giữa tổ chức, cơ quan nhà nước
với tổ chức, cá nhân khác, nếu trong thoả thuận hợp tác nghiên cứu - phát triển
không có quy định khác thì một phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí tương ứng với tỷ lệ đóng góp của tổ chức, cơ quan nhà
nước trong việc hợp tác đó, thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước
tham gia hợp tác nghiên cứu - phát triển có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực
hiện quyền đăng ký nêu trên.
Tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 9
Nghị định 103/2006/NĐ-CP, đại diện nhà nước đứng tên chủ Văn bằng bảo hộ
11
và thực hiện việc quản lý quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng đó,
có quyền chuyển nhượng phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí của Nhà nước cho tổ chức, cá nhân khác với điều kiện tổ chức, cá
nhân nhận chuyển nhượng phần quyền đăng ký phải trả cho Nhà nước một
khoản tiền hoặc các điều kiện thương mại hợp lý khác so với tiềm năng thương
mại của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí đó.
Trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thì các tổ chức, cá nhân đó đều
có quyền đăng ký và quyền đăng ký đó chỉ được thực hiện nếu được tất cả các
tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
Những người có quyền đăng ký nêu trên đây có quyền chuyển giao
quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn
bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp đã
nộp đơn đăng ký (trong trường hợp này được gọi là chuyển giao đơn đăng ký đã
nộp).
1. 2. Quyền đăng ký nhãn hiệu

Quyền đăng ký nhãn hiệu thuộc về các chủ thể sau đây:
- Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do
mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.
- Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền
đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người
khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản
phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.
- Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu
tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập
thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, tổ chức có
quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất,
kinh doanh tại địa phương đó.
- Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính,
nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ có quyền đăng ký
nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng
12
hoá, dịch vụ đó.
- Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu
để trở thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây:
+ Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu
hoặc sử dụng cho hàng hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia
vào quá trình sản xuất, kinh doanh;
+ Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về
nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ.
Những người có quyền đăng ký nhãn hiệu trên đây, kể cả người đã nộp
đơn đăng ký có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác
dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định
của pháp luật với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng
các điều kiện đối với người có quyền đăng ký loại nhãn hiệu tương ứng.
Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước

quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu
đăng ký nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành
viên thì người đại diện hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu
không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính
đáng.
1.3 Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý
Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước.
Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý, tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý
hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn
địa lý. Người thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý không trở thành chủ sở
hữu chỉ dẫn địa lý đó.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài là chủ thể quyền đối với chỉ dẫn địa lý theo
quy định pháp luật của nước xuất xứ có quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý đó tại Việt
Nam.
2. Cách thức nộp đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp
13
Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam,
tổ chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp
đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp trực tiếp hoặc thông qua đại
diện hợp pháp tại Việt Nam.
Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước
ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký xác
lập quyền sở hữu công nghiệp thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.
3. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên trong thủ tục xác lập quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 90 Luật sở hữu trí tuệ)
Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký cùng
một sáng chế hoặc đăng ký các kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác
biệt đáng kể với nhau hoặc đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức
gây nhầm lẫn với nhau cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau hoặc tương tự với

nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho đơn hợp lệ có ngày ưu tiên
hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được
cấp văn bằng bảo hộ.
Trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký cùng đáp ứng các điều kiện để
được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất
thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho một đơn duy nhất trong số các đơn
đó theo sự thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả thuận
được thì tất cả các đơn đều bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ.
4. Nguyên tắc ưu tiên trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp (Điều 91
Luật sở hữu trí tuệ)
Về nguyên tắc, quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng mà
quyền được phát sinh trên cơ sở đăng ký chỉ được bảo hộ ở từng quốc gia, nơi
quyền đó được đăng ký. Để bảo đảm việc công bố đơn đăng ký (sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp) ở nước này không làm mất tính mới của đối tượng sở hữu
công nghiệp khi sáng chế đó được nộp đơn đăng ký ở nước khác và để công dân
của các nước có thời gian để chuẩn bị nộp đơn vào các nước khác nhau, các
nước đã thoả thuận (trên cơ sở Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp)
dành công dân của nhau quyền ưu tiên khi nộp đơn đăng ký quyền sở hữu công
14
nghiệp (nộp đơn sau nhưng được coi là nộp trước, trên cơ sở một đơn đã nộp từ
trước ở một trong các nước thành viên). Nguyên tắc này được quy định cụ thể
trong Luật sở hữu trí tuệ như sau:
Người nộp đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu có
quyền yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên đăng ký bảo hộ
cùng một đối tượng nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
+ Đơn đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam hoặc tại nước là thành viên của
điều ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cũng là thành viên hoặc có thoả thuận áp dụng quy định như vậy với
Việt Nam;
+ Người nộp đơn là công dân Việt Nam, công dân của nước khác quy

định tại đoạn trên đây cư trú hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam
hoặc tại nước khác quy định tại đoạn này;
+ Trong đơn có nêu rõ yêu cầu được hưởng quyền ưu tiên và có nộp bản
sao đơn đầu tiên có xác nhận của cơ quan đã nhận đơn đầu tiên;
+ Đơn được nộp trong thời hạn sau đây kể từ ngày nộp đơn đầu tiên: 12
tháng đối với đơn đăng ký sáng chế; 6 tháng đối với đơn đăng ký kiểu dáng
công nghiệp hoặc đơn đăng ký nhãn hiệu.
Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được hưởng quyền ưu tiên có ngày ưu
tiên là ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.
5. Khái quát về thủ tục xử lý đơn đăng ký xác lập quyền của Cục Sở hữu
trí tuệ
Đơn đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp được Cục Sở hữu trí tuệ
nhận trực tiếp từ người nộp đơn (hoặc đại diện của người nộp đơn) hoặc nhận
từ bưu điện. Khi tiếp nhận đơn, Cục Sở hữu trí tuệ kiểm tra sơ bộ hồ sơ đơn,
nếu hồ sơ đơn có đủ các tài liệu tối thiểu theo quy định, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ
đóng dấu nhận đơn vào Tờ khai đơn, trong đó có ghi số đơn và ngày nộp đơn.
Sau khi được tiếp nhận, đơn sẽ được thẩm định về mặt hình thức để
khẳng định sự phù hợp hình thức của các tài liệu đơn với các quy định của
pháp luật. Thời hạn thẩm định về mặt hình thức của đơn là 1 tháng kể từ ngày
đơn được tiếp nhận. Nếu đơn có thiếu sót, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo cho
15
người nộp đơn và trong vòng 1 tháng, người nộp đơn phải có ý kiến hoặc sửa
chữa, bổ sung thiếu sót của đơn.
Nếu đơn hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra Thông báo chấp nhận đơn hợp lệ
và đơn này sẽ được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp (do Cục Sở hữu
trí tuệ phát hành hàng tháng) trong tháng thứ hai kể từ ngày chấp nhận đơn hợp
lệ (với một số ngoại lệ đối với việc công bố đơn đăng ký sáng chế, quy định cụ
thể tại Điều 110 Luật sở hữu trí tuệ).
Tất cả các đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
đã được công nhận hợp lệ (về mặt hình thức) đều được thẩm định về nội dung.

Việc thẩm định nội dung đơn đăng ký sáng chế sẽ được thực hiện đối với những
đơn được công nhận hợp lệ và có yêu cầu thẩm định nội dung (có nghĩa là các
đơn không có yêu cầu này sẽ không được thẩm định nội dung). Yêu cầu thẩm
định nội dung có thể được người nộp đơn hoặc bất kỳ người thứ ba có quan tâm
nào nộp. Việc thẩm định nội dung sẽ không được tiến hành đối với đơn đăng ký
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (theo quy định, sau khi chấp nhận đơn hợp
lệ, đơn đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn sẽ được công bố trên
Công báo sở hữu công nghiệp và sau thời hạn 3 tháng nếu không có phản đối
xác đáng của người thứ ba, Giấy chứng nhận đăng ký sẽ được cấp).
Thời hạn thẩm định nội dung đơn sáng chế là 12 tháng, đơn kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là 6 tháng tính từ ngày công bố đơn.
Căn cứ vào kết quả thẩm định đơn, nếu đối tượng đáp ứng điều kiện bảo
hộ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ cấp văn bằng bảo hộ, ghi nhận vào đăng bạ và công bố
quyết định cấp văn bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp.
6. Duy trì hiệu lực, gia hạn hiệu lực; Đình chỉ, huỷ bỏ hiệu lực; Sửa đổi
văn bằng bảo hộ
6.1 Duy trì hiệu lực, gia hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ (Điều 94 Luật Sở
hữu trí tuệ)
Một điểm cần lưu ý là Bằng độc quyền sáng chế và Bằng độc quyền giải
pháp hữu ích không tự động có hiệu lực hết 20 hoặc 10 năm kể từ ngày nộp đơn
mà chủ sở hữu phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực hằng năm. Nếu không thực hiện
nghĩa vụ này, hiệu lực của Bằng độc quyền sẽ chấm dứt từ ngày bắt đầu năm
16
hiệu lực đầu tiên mà lệ phí duy trì hiệu lực không được nộp (Điều 95 Luật sở
hữu trí tuệ).
Để gia hạn hiệu lực Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu, chủ văn bằng bảo hộ phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực
theo quy định. Nếu không làm thủ tục này, Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng
nhận đăng ký liên quan cũng sẽ chấm dứt hiệu lực khi kết thúc kỳ hạn hiệu lực
trước (Điều 95 Luật sở hữu trí tuệ).

6.2 Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ (Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ)
Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau đây:
+ Chủ Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích
không nộp lệ phí duy trì hiệu lực theo quy định;
+ Chủ Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Chủ Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu không gia hạn hiệu lực theo quy định;
+ Chủ văn bằng bảo hộ tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp (bằng
một tuyên bố cụ thể và được Cục Sở hữu trí tuệ ghi nhận theo yêu cầu). Về bản
chất, việc không nộp lệ phí duy trì hiệu lực hoặc gia hạn hiệu lực nêu tại các
điểm trên đây cũng là hành vi từ bỏ quyền nhưng trong trường hợp đó, quyền bị
tự động bị chấm dứt mà chủ sở hữu không có văn bản tuyên bố từ bỏ quyền như
trường hợp nêu tại đoạn này;
+ Chủ văn bằng bảo hộ không còn tồn tại hoặc chủ Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu không còn hoạt động kinh doanh mà không có người kế thừa
hợp pháp. Cần lưu ý trong trường hợp này là mọi sự chuyển dịch, chuyển
nhượng quyền sở hữu công nghiệp (đối với các đối tượng mà quyền được xác
lập trên cơ sở đăng ký) do có sự kiện pháp lý (chuyển đổi hình thức doanh
nghiệp, sáp nhập, mua lại, thừa kế hoặc chuyển nhượng v.v.) đều phải được
đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ thì sự chuyển dịch, chuyển nhượng đó mới có
hiệu lực. Kể từ ngày việc chuyển dịch, chuyển nhượng đó được đăng ký thì bên
được chuyển dịch hoặc chuyển nhượng mới trở thành chủ sở hữu mới và có
quyền bảo vệ đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan (ví dụ khởi kiện). Một ví
dụ điển hình cho trường hợp này là nếu một doanh nghiệp tư nhân sở hữu một
nhãn hiệu đã được đăng ký, sau đó chủ doanh nghiệp làm thủ tục giải thể doanh
17
nghiệp này để thành lập doanh nghiệp tư nhân khác nhưng không làm thủ tục
chuyển dịch quyền đối với nhãn hiệu sang doanh nghiệp mới thì ngay sau khi
doanh nghiệp cũ bị giải thể, quyền đối với nhãn hiệu đó sẽ bị chấm dứt (mặc dù
trên thực tế ai cũng biết và có thể chứng minh cả doanh nghiệp cũ và doanh
nghiệp mới đều do một cá nhân làm chủ). Ví dụ khác là trong trường hợp doanh

nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá, nếu doanh nghiệp nhà nước đó không
xử lý các quyền sở hữu công nghiệp mà mình đang có (một trong những hình
thức xử lý là tính quyền sở hữu trí tuệ vào khối tài sản doanh nghiệp để cổ phần
hoá) thì ngay sau khi doanh nghiệp nhà nước chấm dứt hoạt động, quyền đối
với các đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan cũng sẽ chấm dứt mà không
được coi là tự động chuyển sang cho doanh nghiệp cổ phần.
+ Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho
phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt
hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt
đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt
hiệu lực;
+ Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu tập thể
không kiểm soát hoặc kiểm soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế sử
dụng nhãn hiệu tập thể;
+ Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu chứng nhận
vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận hoặc không kiểm soát, kiểm
soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận;
+ Các điều kiện địa lý tạo nên danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản
phẩm mang chỉ dẫn địa lý bị thay đổi làm mất danh tiếng, chất lượng, đặc tính
của sản phẩm đó.
Trong trường hợp văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực, quyền đối với
đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng không còn tiếp tục được bảo hộ tại
thời điểm chấm dứt tương ứng. Điều đó có nghĩa là trước thời điểm bị chất dứt,
quyền vẫn tồn tại và mọi hành vi sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tương
ứng mà không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền đều bị coi là hành vi
xâm phạm quyền (và chủ sở hữu có quyền kiện mặc dù tại thời điểm khởi kiện,
quyền sở hữu công nghiệp đã không còn được bảo hộ).
18
6.3 Huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ (Điều 96 Luật Sở hữu trí tuệ)
Văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực trong các trường hợp sau

đây:
+ Người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được
chuyển nhượng quyền đăng ký đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí, nhãn hiệu. Những người có quyền đăng ký các đối tượng sở hữu công
nghiệp được quy định tại các điều từ 86 đến 88 Luật Sở hữu trí tuệ. Trong
trường hợp văn bằng bảo hộ đã được cấp mà có tranh chấp và có căn cứ khẳng
định rằng người đã được cấp văn bằng (chủ văn bằng) là người không có quyền
đăng ký theo quy định thì văn bằng bảo hộ tương ứng sẽ bị huỷ bỏ hiệu lực (coi
như không được cấp).
+ Đối tượng sở hữu công nghiệp không đáp ứng các điều kiện bảo hộ tại
thời điểm cấp văn bằng bảo hộ. Vì một lý do khách quan nào đó (chẳng hạn
trong quá trình xử lý đơn, Cục Sở hữu trí tuệ không có đủ thông tin để khẳng
định một sáng chế là không có tính mới do đã bị bộc lộ từ trước), văn bằng bảo
hộ vẫn được cấp. Tuy nhiên, nếu sau đó có chứng cứ chứng tỏ rằng sáng chế đó
đã bị bộc lộ và do đó không còn tính mới (do đó không đáp ứng điều kiện để
được cấp văn bằng bảo hộ) thì văn bằng bảo hộ sẽ bị huỷ bỏ.
Văn bằng bảo hộ có thể bị hủy bỏ một phần hiệu lực trong trường hợp
phần đó không đáp ứng điều kiện bảo hộ.
Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ là
suốt thời hạn bảo hộ; đối với nhãn hiệu thì thời hiệu này là năm năm kể từ ngày
cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được cấp do sự
không trung thực của người nộp đơn. Đây là điểm cần lưu ý đối với các cơ
quan bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp vì trong nhiều trường hợp, khi bị kiện,
bị đơn có thể tiến hành thủ tục yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ (thủ
tục này được thực hiện tại Cục Sở hữu trí tuệ), tuy nhiên không phải mọi
trường hợp đều có thể yêu cầu như vậy vì đã quá thời hiệu thực hiện quyền
như nêu trên.
6.4 Sửa đổi văn bằng bảo hộ (Điều 97 Luật Sở hữu trí tuệ)
19
Chủ văn bằng bảo hộ có quyền yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ sửa đổi những

thông tin sau đây trên văn bằng bảo hộ:
+ Thay đổi, sửa chữa thiếu sót liên quan đến tên và địa chỉ của tác giả,
chủ văn bằng bảo hộ;
+ Sửa đổi bản mô tả tính chất, chất lượng đặc thù, khu vực địa lý mang
chỉ dẫn địa lý; sửa đổi quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn
hiệu chứng nhận.
VI. NỘI DUNG QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (Điều 123 và 124 Luật
sở hữu trí tuệ)
Chủ sở hữu có quyền quyết định việc sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp được bảo hộ của mình. Luật sở hữu trí tuệ quy định việc người khác “sử
dụng” đối tượng sở hữu công nghiệp mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu
và không thuộc các trường hợp ngoại lệ (những trường hợp sử dụng mà không
bị coi là xâm phạm quyền) sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền. Vì vậy, cần
lưu ý trong quá trình xử lý tranh chấp, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp,
trước hết phải xem xét hành vi liên quan có phải là hành vi “sử dụng” theo quy
định của pháp luật hay không. Vì nghĩa của từ “sử dụng” có thể rất rộng, do đó
Luật sở hữu trí tuệ đã quy định rất chi tiết các hành vi được coi là hành vi “sử
dụng” đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ, cụ thể như sau (Điều 124
Luật sở hữu trí tuệ):
1.1. “Sử dụng” sáng chế
Sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Sản xuất sản phẩm được bảo hộ;
+ Áp dụng quy trình được bảo hộ;
+ Khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được
sản xuất theo quy trình được bảo hộ;
+ Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm được
bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ;
20
+ Nhập khẩu sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo

quy trình được bảo hộ.
1.2. “Sử dụng” kiểu dáng công nghiệp
Sử dụng kiểu dáng công nghiệp là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ;
+ Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm có
hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;
+ Nhập khẩu sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp
được bảo hộ.
1.3. “Sử dụng” thiết kế bố trí
Sử dụng thiết kế bố trí là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Sao chép thiết kế bố trí; sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo thiết kế
bố trí được bảo hộ;
+ Bán, cho thuê, quảng cáo, chào hàng hoặc tàng trữ các bản sao thiết kế
bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa
mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
+ Nhập khẩu bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo
thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế
bố trí được bảo hộ.
1.4. “Sử dụng” bí mật kinh doanh
Sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ,
thương mại hàng hoá;
+ Bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản
xuất do áp dụng bí mật kinh doanh.
Đối với bí mật kinh doanh, mục tiêu chủ yếu của pháp luật về bảo hộ đối
tượng này là nhằm chống lại các hành vi bộc lộ trái phép. Do vậy, các hành vi
xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh không chỉ là các hành vi sử dụng bí
21
mật kinh doanh một cách trái phép mà bao gồm cả các hành vi bộc lộ trái phép

(xem nội dung liên quan đến hành vi xâm phạm quyền quy định tại Điều 127
Luật Sở hữu trí tuệ).
1.5. “Sử dụng” nhãn hiệu
Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện
kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
Trong quy định này, từ “gắn” phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất với ý
nghĩa là mọi phương thức đưa nhãn hiệu lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương
tiện kinh doanh v.v. Ví dụ, việc gắn nhãn hiệu có thể là in, dập, đúc trực tiếp
nhãn hiệu lên sản phẩm (trên bánh xà phòng chẳng hạn), hoặc dán đề can mang
nhãn hiệu lên sản phẩm (ví dụ, xe máy) v.v.
+ Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang
nhãn hiệu được bảo hộ;
Điểm lưu ý trong các hành vi sử dụng ở điểm này là mục đích của hành
vi, đó là “để bán”. Hành vi tàng trữ hoặc quảng cáo nhưng không nhằm mục
đích “để bán sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu sẽ không thuộc trường hợp quy
định tại điểm này.
+ Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
1.6. “Sử dụng” tên thương mại là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích
thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động
kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản
phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo.
1.7. “Sử dụng” chỉ dẫn địa lý
Sử dụng chỉ dẫn địa lý là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương
tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
+ Lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để bán hàng hoá
mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ;
22
+ Nhập khẩu hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.

2. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
(Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ)
Có thể nói, quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu công nghiệp. Đó chính là việc
chủ sở hữu ngăn cấm người thứ ba không được thực hiện các hành vi sử dụng
đối tượng sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, khi xác định hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp (cũng đồng nghĩa với các hành vi mà chủ sở hữu
công nghiệp có quyền ngăn cấm), không chỉ các hành vi sử dụng “trực tiếp” đối
tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ như nêu ở phần quyền sử dụng trên đây
mới bị coi là hành vi xâm phạm quyền mà còn bao gồm các hành vi khác (ví dụ
sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ
tương tự v.v.). Cũng cần lưu ý là pháp luật sở hữu trí tuệ cũng có quy định một
số trường hợp “sử dụng” của người thứ ba nhưng chủ sở hữu không được ngăn
cấm và hành vi đó không bị coi là hành vi xâm phạm quyền (về điểm này, xem
phần về xác định hành vi xâm phạm).
3. Quyền định đoạt và chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp có quyền định đoạt (chuyển
nhượng quyền sở hữu hoặc từ bỏ) hoặc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng
sở hữu công nghiệp liên quan cho người khác, với một số trường hợp ngoại lệ.
Khi chuyển nhượng quyền sở hữu, việc chuyển nhượng (đối với các đối
tượng là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn
hiệu) phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản và phải được
đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Bên nhận chuyển nhượng sẽ trở thành chủ sở
hữu mới đối với đối tượng liên quan kể từ khi hợp đồng chuyển nhượng được
đăng ký.
Một điểm lưu ý về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là quyền
đối với tên thương mại không được chuyển nhượng, trừ trường hợp chuyển
nhượng cùng với cơ sở sản xuất kinh doanh và hoạt động kinh doanh gắn liền
23

với tên thương mại đó. Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cũng
không được chuyển nhượng. (Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ).
Chủ sở hữu công nghiệp cũng có thể cho phép người khác sử dụng đối tượng
sở hữu công nghiệp của mình theo hợp đồng. Theo quy định của pháp luật sở
hữu công nghiệp, hợp đồng chuyển quyền sử dụng sẽ có hiệu lực giữa các bên
ký kết theo sự thoả thuận, việc đăng ký hợp đồng chỉ nhằm mục đích tạo hiệu
lực đối với bên thứ ba.
VII. XÁC ĐỊNH HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ,
KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ NHÃN HIỆU
1. Sáng chế
Khi giải quyết một vụ tranh chấp về xâm phạm quyền đối với sáng chế,
cần xác định các yếu tố sau:
1.1 Xác định chủ thể quyền đối với sáng chế
Như đã đề cập, quyền đối với sáng chế chỉ phát sinh trên cơ sở quyết
định cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu
trí tuệ). Do vậy, chủ thể quyền đối với sáng chế chỉ có thể là người được cấp
văn bằng bảo hộ (hoặc được chuyển nhượng văn bằng hoặc được chuyển giao
quyền sử dụng nếu bên nhận chuyển giao được phép tiến hành các thủ tục bảo
vệ quyền theo sự cho phép của chủ sở hữu). Do vậy, chứng cứ chứng minh chủ
thể chính là văn bằng bảo hộ (Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích).
1.2 Xác định hành vi bị xem xét là xâm phạm quyền
Những yếu tố sau phải được chứng minh khi xác định một hành vi xâm
phạm quyền đối với sáng chế:
1.2.1 Việc thực hiện một hành vi bị coi là hành vi xâm phạm quyền
theo quy định của pháp luật
24
Về nguyên tắc, bất kỳ người thứ ba nào có hành vi sử dụng
1
sáng chế mà

không được phép của chủ sở hữu đều bị coi là xâm phạm quyền, trừ các trường
hợp sau đây (Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ):
+ Hành vi sử dụng sáng chế nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục
đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu,
giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ
tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
+ Hành vi lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm
được chủ sở hữu sáng chế hoặc người được phép của chủ sở hữu sáng chế đưa
ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài;
Khi sản phẩm được bảo hộ là sáng chế hoặc được sản xuất theo sáng chế
được bảo hộ (trong trường hợp sáng chế là một quy trình) đã được đưa ra thị
trường (bởi chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép – thường là dưới
hình thức được chuyển quyền sử dụng), chủ sở hữu sáng chế sẽ không được can
thiệp đến sản phẩm đó nữa. Bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền thực hiện
các hành vi thương mại đối với những sản phẩm cụ thể này. Cần lưu ý là quyền
của chủ sáng chế chỉ chấm dứt đối với những hàng hoá cụ thể được sản xuất và
đưa ra thị trường theo sáng chế như nêu trên chứ không làm chấm dứt quyền
đối với bản thân sáng chế đó.
+ Hành vi sử dụng sáng chế chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của
các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm
trong lãnh thổ Việt Nam
+ Hành vi sử dụng sáng chế do người có quyền sử dụng trước thực hiện
theo quy định tại Điều 134 của Luật Sở hữu trí tuệ
Theo quy định của Điều 134 Luật Sở hữu trí tuệ, một người được coi là
có quyền sử dụng trước sáng chế trong trường hợp sau: trước ngày đơn đăng
1
Một điểm cần lưu ý là các hành vi bị coi là xâm phạm quyền đối với sáng chế không
chỉ giới hạn ở các hành vi “sử dụng” sáng chế theo quy định tại Điều 124 Luật sở hữu trí tuệ
(tức là sử dụng chính sáng chế được bảo hộ) mà còn mở rộng đến cả các hành vi sử dụng giải
pháp kỹ thuật “tương đương” với sáng chế được bảo hộ. Liên quan đến vấn đề này, đề nghị

xem nội dung “Xác định yếu tố xâm phạm quyền sáng chế trong đối tượng bị xem xét” được
trình bày ở phần tiếp theo.
25

×