Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

bảo hiểm nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.1 KB, 13 trang )

Bảo hiểm là hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia.
Các quy tắc này được doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng và thiết kế cho
người dân, được Bộ Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông
qua, do vậy quyền lợi và nghĩa vụ của người dân được thể hiện rất rõ trong
các quy tắc bảo hiểm.
Nông nghiệp, nông thôn có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt đến
an ninh chính trị, kinh tế - xã hội Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã xác
định dịch vụ sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp mang tính chất là dịch vụ
(hàng hoá) công. Được triển khai từ năm 1982, nhưng nhìn chung, kết
quả bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam rất hạn chế.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã coi bảo hiểm nông nghiệp
như là một bộ phận trong chiến lược phát triển nông thôn. Văn kiện Đại hội
lần thứ X của Đảng đã nêu: Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản để chủ
động bù đắp thiệt hại khi bị thiên tai hoặc khi giá cả biến động bất lợi, nhất
là đối với lương thực. Để phát triển bảo hiểm nông nghiệp, Nghị quyết
Trung ương 7 (khoá X) đã yêu cầu: Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo
đảm mức sống tối thiểu cho cư dân nông thôn. Để góp phần phát triển nông
nghiệp bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, Văn kiện Đại hội XI tiếp tục chỉ
rõ: Phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp.
Tuy việc triển khai thực hiện bảo hiểm nông nghiệp đã được tiến
hành, nhưng dịch vụ bảo hiểm này ở nước ta mới manh nha. Theo số liệu
của Bộ Tài chính, tỷ trọng tham gia bảo hiểm của nông dân rất thấp, chưa tới
1% tổng diện tích cây trồng, vật nuôi. Thực tiễn cho thấy, sau mỗi lần hứng
chịu thiên tai, rất nhiều nông dân dễ dàng trở nên trắng tay, trở về với nghèo
đói và Chính phủ phải hỗ trợ hàng nghìn tỷ đồng. Mặt khác, các doanh
nghiệp bảo hiểm kinh doanh thua lỗ dẫn tới việc không hoạt động hoặc


ngừng hoạt động bảo hiểm cây trồng, vật nuôi. Vì vậy, việc hình thành và
phát triển bảo hiểm nông nghiệp phù hợp với đặc thù của nông nghiệp, nông
thôn và nông dân Việt Nam và tình hình thị trường bảo hiểm nông nghiệp


Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.
Bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
Trong số các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam, có 2
doanh nghiệp (Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt và Groupama) đã triển khai
bảo hiểm nông nghiệp và 2 doanh nghiệp ở dạng tiềm năng (Bảo Minh và
Công ty bảo hiểm ngân hàng nông nghiệp).
Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt đã tiến hành bảo hiểm cây lúa, mùa
màng tại huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định) từ năm 1982 nhưng không thành
công, hiện nay đã dừng hoạt động này (kết thúc năm 1983). Thời gian gần
đây, Bảo Việt tiến hành bảo hiểm cây cao su, bạch đàn, vật nuôi (bò sữa), tuy
nhiên, tổn thất quá lớn, chi phí cao, hiệu quả thấp.
Từ năm 1993, bảo hiểm mùa màng cũng được triển khai tới các hộ
nông dân của 12 tỉnh trong cả nước, bao gồm: An Giang, Bình Định, Bình
Thuận, Bắc Giang, Bến Tre, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hà Tĩnh, Kiên
Giang, Sóc Trăng và Vĩnh Long. Kết quả bảo hiểm này chưa thực ý nghĩa vì
tổng diện tích được bảo hiểm chỉ chiếm khoảng 1,16% tổng diện tích gieo
trồng toàn quốc (năm 1995) và 0,27% (năm 1997).
Rừng và cao su (2 sản phẩm bảo hiểm cây công nghiệp chính của Bảo
Việt) cũng được bảo hiểm, nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích gieo
trồng thực tế. Diện tích cao su được bảo hiểm chỉ chiếm 10% (doanh thu phí
bảo hiểm trong 3 năm 1996, 1997 và 1998 là 3,4 tỷ đồng, bồi thường 200
triệu đồng), còn rừng chỉ được bảo hiểm một vùng 20.000ha ở Kiên Giang.
Bảo hiểm cây bạch đàn làm nguyên liệu giấy mới được thực hiện cho một


dự án liên doanh trồng rừng với 44.000ha trong 2 năm 1997, 1998 với phí
bảo hiểm thu được 120.000 USD.
Bảo hiểm vật nuôi trước đây có triển khai một số nơi, nhưng Bảo Việt
thấy không hiệu quả nên đã dừng triển khai.
Nhìn chung những năm gần đây, trong bảo hiểm nông nghiệp, Bảo

Việt chủ yếu triển khai bảo hiểm nông nghiệp cho hai đối tượng là cây cao
su (Bình Phước, Tây Ninh) và bò sữa (Kon Tum). Tuy nhiên, hiệu quả kinh
doanh không cao, tỷ lệ bồi thường chiếm trên 80% so với doanh thu phí bảo
hiểm, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ bồi thường của các nghiệp vụ bảo hiểm
khác của Bảo Việt (tỷ lệ bồi thường 50%).
Cùng với Bảo Việt, Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp Groupama
Việt Nam cũng triển khai bảo hiểm nông nghiệp. Groupama là một công ty
bảo hiểm của Pháp bắt đầu hoạt động tại Việt Nam năm 2001. Groupama
cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vật nuôi, cây trồng; bảo hiểm tài sản, thiệt
hại dùng trong sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm việc cung ứng nguyên vật
liệu thiết bị và bao tiêu các sản phẩm nông nghiệp; bảo hiểm tai nạn lao
động nông nghiệp và trách nhiệm dân sự trong sản xuất nông nghiệp, bảo
hiểm đối với hoạt động nuôi tôm từ năm 2002. Mặc dù là nhà bảo hiểm nông
nghiệp lớn và có nhiều kinh nghiệm tại Pháp và trên thế giới, song
Groupama không thành công với bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam, doanh
thu thấp, bồi thường cao, liên tục lỗ từ khi thành lập đến nay.
Trước đây, Groupama hoạt động chủ yếu tại các tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long với việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vật nuôi, cây trồng;
bảo hiểm tài sản, thiệt hại dùng trong sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm việc
cung ứng nguyên vật liệu thiết bị và bao tiêu các sản phẩm nông nghiệp; bảo
hiểm tai nạn lao động nông nghiệp và trách nhiệm dân sự trong sản xuất
nông nghiệp từ năm 2002. Groupama cũng đã thử nghiệm cung cấp dịch vụ


bảo hiểm đối với các hoạt động ngư nghiệp, chủ yếu là đối với hoạt động
nuôi tôm. Tuy nhiên, công ty đã chấm dứt cung cấp dịch vụ này sau một cơn
bão gây ra thiệt hại nặng nề. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng doanh thu
từ loại hình bảo hiểm nông nghiệp của Groupama cũng không đáng kể, tỷ lệ
bồi thường rất lớn (năm 2005 tỷ lệ bồi thường lên tới 4.426%).
Từ năm 2005, công ty này mở rộng địa bàn hoạt động ra ngoài khu

vực đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, đồng thời thu hẹp
đối tượng bảo hiểm, theo đó, chỉ bảo hiểm cho vật nuôi (bò và lợn). Doanh
thu bảo hiểm nông nghiệp thấp chỉ đạt 11 triệu đồng năm 2007.
Hai doanh nghiệp khác ở dạng tiềm năng, đó là Tổng Công ty cổ phần
Bảo Minh và Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam. Bảo Minh triển khai bảo hiểm tín dụng khoản vay
phục vụ sản xuất nông nghiệp theo chỉ số thời tiết ở Đồng Tháp. Tuy nhiên,
do mức phí tương đối cao (khoảng 15% giá trị khoản vay) nên phía ngân
hàng cũng không mặn mà lắm. Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng nông
nghiệp và Phát triển nông thôn được phép triển khai bảo hiểm nông nghiệp.
Hiện nay, cũng đang nghiên cứu đề án tiền khả thi triển khai bảo hiểm nông
nghiệp.
Triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế
Qua phân tích kết quả triển khai bảo hiểm nông nghiệp của Bảo Việt và
Groupama cho thấy, kết quả triển khai bảo hiểm nông nghiệp của Việt Nam
rất hạn chế. Doanh thu phí bảo hiểm nông nghiệp hàng năm thấp, tỷ trọng
doanh thu rất nhỏ so với phí bảo hiểm của toàn thị trường bảo hiểm phi nhân
thọ: 0,069% (năm 2004); 0,008% (năm 2005); 0,012% (năm 2006); 0,01%
(năm 2007). Việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp không hiệu quả, tỷ lệ bồi
thường trên doanh thu cao – trên 80%, nếu tính các chi phí khác của doanh


nghiệp bảo hiểm như chi quản lý, chi bán hàng, trích lập dự phòng nghiệp vụ
thì kết quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp bị lỗ.
Như vậy, qua thực tế triển khai bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam thời
gian qua có thể thấy, diện tích cây có hạt, cây ăn quả, cây công nghiệp lớn,
số lượng gia súc, gia cầm rất nhiều, song mới chỉ có một số lượng rất nhỏ
cây công nghiệp được bảo hiểm. Việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp
không hiệu quả, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đề ra cũng như hỗ trợ
nông dân khi xảy ra tổn thất. Cây lúa là cây nông nghiệp có tầm quan trọng

hàng đầu, nhưng vào thời điểm hiện tại vẫn chưa được bảo hiểm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của thị trường bảo hiểm
nông nghiệp thời gian qua.
Về phía doanh nghiệp bảo hiểm: Sản phẩm bảo hiểm chưa phù hợp.
Phần lớn là các sản phẩm bảo hiểm đa rủi ro, chưa có sản phẩm chuẩn, cụ
thể cho một loại đối tượng bảo hiểm, cho một số rủi ro nhất định và triển
khai với quy mô rộng khắp. Công tác khai thác bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
Tập quán sản xuất, nuôi trồng của nông dân manh mún, thiếu các phương
pháp nuôi trồng chuẩn trong khi địa bàn sản xuất lại phân bố rất rộng. Số
lượng cán bộ ít, trình độ hạn chế (yêu cầu phải rất hiểu biết về cây trồng vật
nuôi cũng như kiến thức về bảo hiểm), chi phí khai thác lớn trong khi giá trị
bảo hiểm nhỏ, phân tán. Chưa có phương thức quản lý rủi ro hữu hiệu đối
với cây trồng vật nuôi được bảo hiểm. Thậm chí còn xuất hiện tâm lý sợ
người dân lựa chọn rủi ro đối nghịch hoặc trục lợi trong bảo hiểm nông
nghiệp. Trong các loại hình bảo hiểm khác, doanh nghiệp bảo hiểm có thể
kiểm soát và hạn chế tổn thất, nhưng trong bảo hiểm nông nghiệp rất khó
hạn chế hiện tượng này vì số người được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm rất
lớn và có mặt rộng khắp trên mọi miền đất nước. Công tác giải quyết bồi


thường còn chậm, thủ tục còn phiền hà, gây nhiều khó khăn cho người tham
gia bảo hiểm dẫn đến tâm lý người dân không muốn tham gia bảo hiểm.
Mặt khác, do tổn thất cao, lợi nhuận thấp nên không thu hút được các
doanh nghiệp bảo hiểm tham gia. Vì là bảo hiểm thương mại nên doanh
nghiệp đặt mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận. Nhà nước không thể ép doanh
nghiệp triển khai sản phẩm này. Do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp,
chi phí cho bán bảo hiểm lớn, việc kiểm tra, giám định tổn thất và bồi
thường gặp khó khăn, trong khi hoa hồng lại thấp so với số phí bảo hiểm thu
được... nên không thực sự hấp dẫn đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu tăng
phí bảo hiểm tương ứng với rủi ro thì nông dân không có khả năng tham gia;

còn nếu giữ phí bảo hiểm ở mức thấp thì không đảm bảo khả năng tài chính
cho doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp đều đặt mục
tiêu doanh thu và lợi nhuận lên hàng đầu, tiền lương của cán bộ khai thác
bảo hiểm cũng được căn cứ trên cơ sở này, do vậy không có cán bộ bảo hiểm
nào mặn mà với việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp của doanh nghiệp
mình.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm có hạn. Rủi ro
thiên tai trong bảo hiểm nông nghiệp nhiều khi mang tính chất thảm hoạ do
phạm vi, mức độ tàn phá, thiệt hại về mặt tài chính rất lớn vượt quá năng lực
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Do vậy, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ
lựa chọn một số rủi ro và triển khai trên một vài địa bàn hạn chế.
Thị trường tái bảo hiểm chưa phát triển. Chưa có sự hỗ trợ, hậu thuẫn
của các nhà tái bảo hiểm, các chương trình tái bảo hiểm cũng như sự phát
triển của thị trường tái bảo hiểm, đầu ra rất quan trọng cho các doanh nghiệp
bảo hiểm gốc. Vì các rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, nên các doanh
nghiệp bảo hiểm cần phải có sự hậu thuẫn của các nhà tái bảo hiểm.


Đối với người nông dân: Người dân chưa có thói quen tham gia bảo
hiểm. Dân trí của nông dân còn thấp, tập quán phó mặc cho trời nên chưa
chủ động tham gia bảo hiểm, nhằm khắc phục khó khăn tài chính khi xảy ra
thiên tai. Thiên tai trong nông nghiệp rất lớn nhiều khi mang tính chất thảm
hoạ, mức độ tổn thất khác nhau trong khi đại đa số nông dân nước ta có thu
nhập rất thấp do vậy không có khả năng mua bảo hiểm. Sản xuất manh mún,
phần lớn kỹ thuật chăm sóc, quy trình sản xuất theo kinh nghiệm và tự phát
dẫn đến rất rủi ro và khó đánh giá đối với đối tượng được bảo hiểm. Tâm lý
phổ biến là lựa chọn khả năng chắc chắn xảy ra tổn thất mới tham gia bảo
hiểm. Ví dụ như: Người dân ở vùng thường xuyên bị lũ lụt mới mua bảo
hiểm, hoặc biết vật nuôi có bệnh thì mới mua bảo hiểm, hoặc chỉ mua bảo
hiểm cho tài sản sắp hỏng,…

Đối với Nhà nước: Chưa có cơ chế, chính sách cụ thể hỗ trợ chi phí
cho nông dân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp; chưa có cơ
chế, chính sách tài chính, bù đắp chi phí cho doanh nghiệp triển khai bảo
hiểm nông nghiệp; chưa có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm;
Chưa có sự hỗ trợ đắc lực của hệ thống pháp luật (bảo hiểm nông nghiệp
chưa được chú trọng, chưa được coi là loại hình bảo hiểm bắt buộc), vai trò
của các cơ quan nhà nước có liên quan trong công tác điều tra, nghiên cứu,
phân tích dự báo chưa được chú trọng; Chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu để
làm căn cứ cho việc tính phí, triển khai bảo hiểm. Sự hợp tác, phối hợp chặt
chẽ giữa Nhà nước; các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, các tổ chức tín
dụng, tài chính và người nông dân chưa chặt chẽ nên việc cung cấp đồng bộ
các dịch vụ bảo hiểm và tín dụng để thúc đẩy, xúc tiến bảo hiểm nông
nghiệp còn hạn chế. Mặt khác, việc Chính phủ vẫn thường xuyên thực hiện
việc trợ cấp trong trường hợp xảy ra thiên tai lớn đã làm nảy sinh tư tưởng ỷ
lại, làm suy yếu khả năng tham gia bảo hiểm nông nghiệp của người dân.


Để hình thành và phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam, trước
hết, cần xác định đối tượng bảo hiểm hướng vào một số cây trồng, vật nuôi
chủ lực như: Lúa, cà phê, trâu, bò, lợn, gia cầm, tôm, cá và xác định những
rủi ro cần được bảo hiểm.... Lựa chọn một số cây trồng, vật nuôi phù hợp với
từng vùng làm thí điểm rồi nhân rộng; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận
động nông dân tham gia bảo hiểm cây trồng, vật nuôi thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, qua các đoàn thể quần chúng như hội nông dân, hội
khuyến nông, hội phụ nữ; Mở các lớp tập huấn cho nông dân; Hỗ trợ các
doanh nghiệp nghiên cứu, triển khai các loại sản phẩm theo từng vùng, miền,
kênh phân phối, đội ngũ giám định và xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ về
tài chính, bù đắp chi phí cho doanh nghiệp triển khai bảo hiểm nông nghiệp;
Hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm; Tăng cường sự phối hợp giữa Nhà
nước, các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, các tổ chức tín dụng, tài

chính và nông dân.
Nông nghiệp có vai tṛ vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân và sản xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm
cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà cc̣n
sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại
tệ. Hiện tại cũng như trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai tṛ quan
trọng trong sự phát triển của xă hội loài người, không ngành nào có thể thay
thế được. Trên 40% số lao động trên thế giới đang tham gia vào hoạt động
nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương thực là mục tiêu phấn đấu của mỗi
quốc gia, góp phần ổn định chính trị, phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên nông nghiệp là một lĩnh vực rất nhiều rủi ro mang tính
khách quan và gây thiệt hại có tính hệ thống để lại hậu quả nghiêm trọng.


Chính vv́ vậy bảo hiểm nông nghiệp là một yêu cầu cần thiết và có một ư
nghĩa to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Song lĩnh vực này chưa phát triển
như mong đợi đặc biệt ở các nước nông nghiệp như Việt Nam. Trong phạm
vi bài tiểu luận này chúng tôi muốn đưa ra thực trạng bảo hiểm nông nghiệp
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
I.

Tổng quan Bảo hiểm nông nghiệp:

1) Khái niệm bảo hiểm nông nghiệp:
Bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ có đối
tượng bảo hiểm là các rủi ro phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
và đời sống nông thôn, bao gồm những rủi ro gắn liền với: cây trồng, vật
nuôi, vật tư, hàng hóa, nguyên vật liệu nhà xưởng.
Các loại rủi ro thường gặp trong nông nghiệp:

a.

Nhóm rủi ro liên quan đến thời tiết : là những rủi ro liên quan tới

các hiện tượng thời tiết không được dự đoán và không thể dự đoán ví dụ như
tác động của thời tiết và khí tượng học và sản xuất nông nghiệp.
b.

Rủi ro liên quan đến sản xuất nông nghiệp: Những rủi ro liên

quan đến các nhân tố như là sâu bệnh, bệnh dịch ở cây trồng và vật nuôi và
ảnh hưởng của dây chuyền chế biến trong sản xuất nông nghiệp.
c.

Rủi ro mang tính kinh tế : những rủi ro liên quan tới sự biến

động của giá nông phẩm và các nguyên liệu đầu vào do sự biến động khó dự
đoán của thị trường.
d.

Những rủi ro tài chính và hoạt động thương mại : những rủi ro

này do sự tác động của các lĩnh vực sản xuất khác tới sản xuất nông nghiệp.
e.

Những rủi ro liên quan đến thể chế : là những rủi ro xuất phát từ

các chính sách nông nghiệp của nhà nước



f.

Rủi ro về môi trường: những rủi ro do những tác động tiêu cực

của các hoạt động ngoại ứng ảnh hưởng đến môi trường sản xuất nông
nghiệp.
2)

Vai tṛ của bảo hiểm nông nghiệp

Rủi ro là một nhân tố không thể tránh khỏi nhưng lại là một yếu tố có
khả năng quản lí được trong sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nông
nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp thay đổi từ năm này qua năm khác do
tính chất khó dự đoán của thời tiết, sâu bệnh, và các điều kiện thị
trường,chính điều này đă làm hoa lợi và giá nông phẩm biến động.Những
thay đổi trên làm cho thu nhập của nông dân cũng trở nên bấp bênh. Sự bấp
bênh trong thu nhập tương lai càng gây khó khăn cho người dân khi đưa ra
quyết định sản xuất ngắn hạn và kế hoạch dài hạn. Khi những bất ổn làm
giảm đáng kể thu nhập trong ngắn hạn, điều đó có thể sẽ tác động nghiêm
trọng làm cho người dân không có điều kiện đầu tư cho các biện pháp quản
lí rủi ro hiệu quả, đặc biệt khi những biến động này tác động tới toàn bộ nền
nông nghiệp. Những tổn thất nặng nề này có thể làm cho người nông dân
chưa thanh toán được nợ nần và rồi trở thành những người không có khả
năng chi trả. Các tổ chức tài chính sẽ không muốn cho những người nông
dân vay tiền vv́ rủi ro nợ xấu quá cao. Điều này đă bó buộc người nông dân,
khiến họ không có khả năng mở rộng sản xuất, đa dạng hóa và hiện đại hóa
sản xuất nông nghiệp.
Chính vv́ vậy bảo hiểm nông nghiệp có vai tṛ vô cùng quan trọng, hỗ
trợ cho người nông dân giảm bớt những thiệt hại mà họ gặp phải khi đối mặt
với các rủi ro. Về cơ bản bảo hiểm nông nghiệp thực hiện những chức năng

sau:
a.

Đem lại lợi ích cho xă hội. Nhờ bảo hiểm nông nghiệp hỗ trợ làm

giảm những rủi ro liên quan đến sản xuất mà thu nhập của người nông dân


được đảm bảo ổn định. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu ở các vùng nông thôn
có thu nhập thấp nên mức thu nhập ổn định sẽ giúp đảm bảo ổn định xă hội
từ đó tác động tích cực đến nền kinh tế đặc biệt ở các nước nông nghiệp
b.

Chức năng thứ hai đảm bảo ổn định xă hội ở khu vực nông thôn,

nhờ có bảo hiểm nông dân yên tâm duy tŕ sản xuất mà không bị đeo bám bởi
nỗi lo về nợ nần ngày càng tăng.
3) Những vấn đề cc̣n vướng mắc trong việc bán các sản phẩm bảo
hiểm nông nghiệp
Việc cung cấp các sản phẩm nông nghiệp thv́ không dễ dàng ǵ. Trên thị
trường không có mấy hăng bảo hiểm nông nghiệp. Những thất bại của thị
trường và của chính phủ có thể kể tới như sau :
Đầu tiên, các hăng bảo hiểm tư nhân không có khả năng đối phó với
những rủi ro lớn và gần như không thể tránh khỏi trong lĩnh vực nông
nghiệp. Nhũng rủi ro này bắt nguồn từ thảm họa thiên nhiên, gây thiệt hại
cho một só lượng lớn nông dân trên diện rộng. Thậm chí trong trường hợp
được tái bảo hiểm thv́ cũng không dễ dàng ǵ để tính được những khoản phí
bảo hiểm chính xác công bằng để có thể đủ lượng tiền dự trữ bảo hiểm cho
những rủi ro xác xuất thấp nhưng thiệt hại rất lớn. Kinh doanh bảo hiểm
nông nghiệp có độ rủi ro cao gấp 20 lần so với kinh doanh các loại hv́nh bảo

hiểm khác.
Thứ hai, Do thông tin bất cân xứng khiến người mua có những lựa
chọn đối nghịch và những vấn đề rủi ro mang tính đạo đức chính điều này đă
làm tăng chi phí và càng tăng mức độ rủi ro khi triển khai sản phẩm bảo
hiểm nông nghiệp ra thị trường hơn bất cứ sản phẩm bảo hiểm nào khác.
Những lựa chọn đối nghịch trong thị trường bảo hiểm là những tv́nh huống
mà người bán bảo hiểm nhận thấy rằng việc phân biệt giữa những đối tượng
bảo hiểm rủi ro cao và đối tượng bảo hiểm rủi ro thấp là không khả thi và


quá tốn kém. Khi đó mức giá của hơp đồng bảo hiểm sẽ là mức phí của hợp
đồng bảo hiểm dùng chung cho tất cả các cá nhân mua bảo hiểm. Điều này
là không hề hợp lí. Nó dẫn đến việc định giá quá thấp những khách hàng có
rủi ro cao và định giá quá cao những khách hàng có rủi ro thấp do đồng nhất
các hợp đồng bảo hiểm. Dần dần những khách hàng có rủi ro thấp sẽ không
mua bảo hiểm nữa và công ty bảo hiểm sẽ chỉ cc̣n lại những khách hàng với
rủi ro cao cùng những khoản bồi thường lớn làm giảm lợi nhuận của họ. Rủi
ro đạo đức chính là khi bán bảo hiểm cho người dân thv́ một bộ phận người
mua bảo hiểm sẽ không cc̣n chăm lo nhiều đến sản xuất nông nghiệp hay họ
hoàn toàn lơ là sản xuất nông nghiệp điều này làm cho tiền bồi thường tăng
lên.
Tất cả các lĩnh vực bảo hiểm đều phải đối mặt với hai vấn đề trên tuy
nhiên trong bảo hiểm nông nghiệp thv́ hai vấn đề này nghiêm trọng hơn. Bởi
vv́ thu thập thông tin về khách hàng và việc quản lí hành vi của người mua
bảo hiểm tốn kém hơn. Bởi vv́ sự phân tán về mặt địa lí của những khách
hàng ở các vùng quê và phương thức sản xuất đặc trưng khác biệt hoàn toàn
ở từng vùng. Chi phí hành chính chi cho việc quả lí hiệu quả và chi phí để
phân ra đâu là những bồi thường cho tổn thất hợp pháp và những bồi thường
cho tổn thất không trung thực. Nếu bảo hiểm cho cả những rủi ro mất mát
quá nhỏ thv́ sẽ không thể ngăn cản được những hành vi thờ ơ hay lơ là của

người mua bảo hiểm. Thị trường có thể càng trở nên rất nhỏ và những
khoảng lợi thu được từ việc phân tán rủi ro sẽ mất đi và lúc đo cũng không
cc̣n cần đến người trung gian đứng ra làm bảo hiểm nữa
Hai vướng mắc trên làm các hăng bảo hiểm tư nhân không tồn tại
được trong lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp và nếu tồn tại được thv́ cũng
không đủ khả năng bán bảo hiểm cho lượng lớn nông dân


Thực tế chỉ ra rằng ở các nước phát triển bảo hiểm nông nghiệp rất
hạn chế đối với những sản phẩm đơn lẻ nhiều rủi ro, cụ thể bảo hiểm mưa và
mưa đá thv́ dễ đưa ra được những khoản phí hợp lí phù hợp cũng như dễ xác
định mức độ thiệt hại cũng như khoản bồi thường. Chính phủ đă hỗ trợ cho
những người cung cấp bảo hiểm không có đủ khả năng để đưa ra thị trường
các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp. chính phủ trở thành nhà cung cấp bảo
hiểm nông nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ những
chương tŕnh bảo hiểm có sự hỗ trợ của chính phủ chính là không có tính
kinh tế nhưng lại hỗ trợ nhiều cho người nông dân.
Các chương tŕnh của chính phủ bao gồm hỗ trợ cho các thiệt hại thực
sự lớn và những khoảng trợ cấp lớn cho người cấp bảo hiểm nông nghiệp.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×